Luận văn tốt nghiệp “Quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới”
Những năm cuối thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng dẫn đến sự sụp đổ của bộ phận lớn làm thay đổi cơ bản cục diện chính trị của thế giới. Bên cạnh đó, chủ nghĩa tư bản tận dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại nên đã thích nghi và vẫn tiếp tục phát triển. Trật tự thế giới hai cực tan dã, quan hệ quốc tế chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại, từ đó làm nảy sinh...
u
--- ---
Quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ
đổi mới
LỜI DẪN
Những năm cuối thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng
hoảng toàn diện và nghiêm trọng dẫn đến sự sụp đổ của bộ phận lớn làm thay
đổi cơ bản cục diện chính trị của thế giới. Bên cạnh đó, chủ nghĩa tư bản tận
dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại
nên đã thích nghi và vẫn tiếp tục phát triển.
Trật tự thế giới hai cực tan dã, quan hệ quốc tế chuyển dần từ đối đầu
sang đối thoại, từ đó làm nảy sinh xu hướng đa dạng hoá, đa phương hoá
trong tiến trình hội nhập toàn cầu. Hoà bình, ổn định hợp tác để phát triển
ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các quốc gia. Toàn cầu hoá về kinh
tế chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ giữa các quốc gia,kinh tê được ưu
tiên phát triển và trở thành chủ đề chính trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Trước bối cảnh quốc tế và xu thế chung của thế giới đang diễn ra như
vậy, các quốc gia đều phải điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình để
thích ứng với tình hình mới. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó.
Chính sách đối ngoại là một bộ phận hợp thành đường lối đổi mới của
Việt Nam trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh. Được khởi xướng từ năm 1986 và sau hơn 10 năm thực hiện, chính
sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đã góp phần không nhỏ
đến sự phát triển của đất nước, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các nhân tố
quốc tế, kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đưa Việt Nam
thoát khỏi khủng hoảng và đi lên.
Chính sách đối ngoại đổi mới là một trong những mốc đánh dấu thành
tựu to lớn của Việt Nam trong thế kỷ XX, tạo tiền đề cho Việt Nam vững
bước đi vào thế kỷ XXI. Với lý do đó cùng với ham muốn được tìm hiểu
chính sách đối ngoại đổi mới và quan hệ quốc tế của Việt Nam giai đoạn này,
1
em mạnh dạn chọn đề tài “Quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới”
làm chuyên đề thực tập.
Đây là đề tài rất rộng lớn, cho nên bài viết này không tránh khỏi những
thiếu sót hạn chế. Mong được sự thông cảm, giúp đỡ, đóng góp ý kiến của các
thầy cô và các bạn.
2
CHƯƠNG 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI
CỦA VIỆT NAM
1.1. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI NHỮNG NĂM 80 VÀ ĐẦU THẬP KỶ 90
Từ nửa năm sau những năm 80, quan hệ Xô - Mỹ đã thực sự chuyển từ
đối đầu sang đối thoại. Để giải quyết các vấn đề tranh chấp, Xô - Mỹ đã tiến
hành nhiều cuộc gặp thượng đỉnh giữa Ri-Gan và Goóc-Ba-Chốp, giữa Busơ
và GoócBachốp. Qua đó có nhìêu văn kiện được ký kết trên các lĩnh vực kinh
tế thương mại, văn hoá, khoa học kỹ thuật, nhưng quan trọng nhất là việc ký
kết hiệp ước thủ tiêu tên lửa tầm trung ở Châu Âu năm 1987 (gọi tắt là INF).
Cũng từ năm 1987, hai nước Mỹ và Liên Xô đã thoả thuận giảm một bước
quan trọng cuộc chạy đua vũ trang, từng bước chấm dứt cuộc diện “Chiến
tranh lạnh”, cùng hợp tác với nhau giải quyết các cụ tranh chấp và xung đột
quốc tế.
Cuối năm 1989, tại cuộc gặp không chính thức giữa Busơ và Gooc-Ba-
Chốp tại đảo Manta, hai nước Xô - Mỹ đã chính thức tuyên bố chấm dứt cuộc
“chiến tranh lanh” kéo dài trên 40 năm giữa hai nước này.
Mối quan hệ giữa 5 nước lớn: Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc, là
5 thành viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ có vai trò quan tọng trong
việc duy trì hoà bình, an ninh và trật tự thế giới đã được thiết lập lên. Trong
“chiến tranh lạnh” mặc dù là 5 nước lớn nhưng vẫn chỉ là thế “hai cực” Xô -
Mỹ đối đầu nhau. Mối quan hệ giữa 5 nước lớn sau năm 1989 đã chuyển từ
“hai cực” đối đầu sang đối thoại, hợp tác với nhau trong việc giải quyết những
tranh chấp và xung đột quốc tế, tiêu biểu như cuộc chiến trung vùng vịch
Pecxic (1991), và việc giải quyết các cuộc xung đột vũ trang ở nhiều khu vực
trên thế giới.
Sau sự kiện xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, dẫn đến
khối quân sự Vac-Sa-Va tự giải thể (1/7/1991) và Hội đồng tương trợ kinh tế
(SEV) ngừng hàng hoạt động (28/6/1991). Xã hội chủ nghĩa tạm lâm vào
thoái trào, việc Liên Xô sụp đổ bắt đầu từ khủng hoảng về đường lối chiến
3
lược do nhận thức sai lầm về đường lối đối ngoại như việc Liên Xô thoả
thuận với Mỹ về việc giải quyết vấn đề Apganictan, Campuchia, những thoả
thuận nhượng bộ đó không có lợi cho các cách mạng thế giới. Liên Xô còn
thực hiện chính sách “không can thiệp” vào vấn đề thống nhất nước Đức và
các nước Đông Âu, chính sách không thực hiện những cam kết với các đồng
minh cũ của Liên Xô (ngừng viện trợ cho Cuba, Việt Nam, Mông Cổ)1.
Những ngượng bộ đó được các phương Tây, nhất là Mỹ ngày các khai thác
triệt để, để làm giảm thế cân bằng về sức mạnh vũ khí hạt nhân với Mỹ và
làm suy giảm sức mạnh và vị trí của Liên Xô có ở khắp các khu vực trên thế
giới.
Còn ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương kinh tế phát triển rất năng
động, đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều nhân tố có thể gây mất ổn định như xung
đột ở Triều Tiên, tranh chấp quần đảo Cu-Rin giữa Nhật Bản và Liên Xô,
tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải ở biển Đông và căng thẳng ở eo biển
Đài Loan...
Trong khu vực Đông Nam Á cũng chứa đựng nhiều nguy cơ xung đột
bất ổn, trong đó vấn đề Campuchia. Những phản ứng từ của các ASEAN,
Trung Quốc và các nước phương Tây khác cho rằng Việt Nam xâm lược
Campuchia, họ tiến hành các hoạt động làm cho tình hình khu vực thêm căng
thẳng. Trung Quốc cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam và đưa quân vào
Việt Nam gây nên cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc nước ta. Một số nước
ASEAN cô lập nước ta ở các diễn đàn, tổ chức quốc tế... Về phía Việt Nam,
chúng ta trước sau vẫn khẳng định việc đưa quân vào Campuchia là giúp đỡ
nhân dân Campuchia đánh đuổi bọn diệt chủng PonPốt đem lại hoà bình cho
nhân Campuchia.
Cùng với những biến đổi trong tình hình an ninh, chính trị, cộng đồng
thế giới cũng đang đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu cấp bách mà
không có một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết được cho nên cần phải
1
4
có sự hợp tác đa phương trong các công việc quốc tế như: bảo vệ môi trường,
bùng nổ dân số, phòng chống bệnh tật hiểm nghèo và nạn khủng bố.
Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ phát triển như
vũ bão và được gọi là nền văn minh hậu công nghiệp hay nền văn minh trí
tuệ. ảnh hưởng của nó ngày càng tác động sâu hơn vào đời sống kinh tế xã
hội, nhất là trong sản xuất. Các phát minh khoa học mà nội dung cơ bản là
cách mạng về công nghệ thông tin, sinh học, năng lượng, vật liệu mới... tiếp
tục phát triển nhanh với trình độ cao, làm tăng nhanh lực lượng sản xuất, thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền sản xuất và
đời sống xã hội, làm cho tính chất tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày
càng gia tăng mạnh mẽ. Cuộc cách mạng trên đã tác động sâu sắc đến quan hệ
quốc tế, thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế và toàn cầu hoá. Nó vừa là thời cơ
nhưng cũng là thách thức rất lớn đối với các nước, là điểm mà bất cứ nước
nào cũng không thể bỏ qua khi xây dựng đường lối, xác định phương hướng
và mục tiêu phát triển. các nước đều đứng trước những cơ hội để phát triển,
nhưng do ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường... thuộc về các nước tư bản chủ
nghĩa và các công ty xuyên quốc gia nên các nước chậm phát triển đang đứng
trước những thử thách to lớn. Trong tình hình đó nếu các nước không nắm bắt
được cơ hội, tranh thủ những khả năng mới để phát triển thì sẽ bị tụt hậu.
Ngược lại nếu nước nào biết đón trước, khai thác được thời cơ, nỗ lực
phấn đấu thì sẽ có thể vượt lên một cách nhanh chóng. Cuộc cạnh tranh kinh
tế thương mại, khoa học công nghệ diễn ra gay gắt trên phạm vi toàn thế giới.
Tóm lại, hoà bình ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành
đòi hỏi búc xúc của các dân tốc và quốc gia trên thế giới. Các nước giành ưu
tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với
việc tăng cường sức mạnh tổng hợp mỗi nước.
Tình hình đó tác động mạnh mẽ đối với việc hoạch định chính sách đối
ngoại của các nước cũnh như ở Việt Nam. Kiến định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện lịch sử mới, Đảng và Nhà nước ta khởi
5
xưởng công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới chính sách đối ngoại trở
thành một nội dung quan trọng đối với sự ngiệp phát triển của Việt Nam.
1.2. SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM SAU 1975 ĐẾN 1986.
Chiến thắng của Việt Nam sau 30/4/1975 là niềm vui thống nhất cả
giang sơn về một mối. Nhưng hậu quả của cuộc chiến tranh kéo dài để lại
những khó khăn không nhỏ cho nhân dân Việt Nam: 1,1 triệu liệt sĩ, 60 vạn
thương binh, 30 vạn người mất tích, gần 2 triệu người dân bị thiệt mạng, hơn
2 triệu người dân bị tàn tật và nhiễm chất độc hoá học...
Hai cuộc chiến tranh biến giới phía Bắc (1979) và biên giới phía Tây
Nam (1978) lấy đi thêm nhiều tài lực, vật lực của đất nước khiến cho nền kinh
tế của Việt Nam đã khó khăn lại càng thêm khó khăn. Mà hậu quả của nó là
nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện, lạm phát tăng phi mã
(774,7%) năm 1986, nền công nghiệp lạc hậu, nông nghiệp đình đốn.
Bên cạnh đó, do những khuyết điểm chủ quan trên các lĩnh vực nhất là
việc chỉ đạo và thực hiện xây dựng kinh tế xã hội. Mô hình kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp bộc lộ nhiềukhuyết điểm yếu kém. Nền kinh tế đất nước rơi
vào tình trạng trì trệ, lạc hậu, khủng hoảng: Công nghiệp yếu kém, manh mún
thiếu rất nhiều ngành công nghiệp tiêu dùng... Nền nông nghiệp không đủ chi
dùng trong nước, phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng
thường xuyên khiến cho cán cân xuất nhập khẩu luôn thâm hụt mất cân đối,
thu không đủ chi, dẫn đến phải đi vay từ nước ngoài. Tính chung trong năm 5
năm 1981 - 1985, nguồn vay từ nước ngoài chiếm 22,4% thu ngân sách quốc
gia. Số nợ nhiều như vậy nhưng bội chi ngân sách vẫn lớn và tăng dần: Năm
1980 là 1,8%, năm 1985 là 36,6%. Do bội chi nhiều như vậy nên Chính phủ
buộc phải phát hành thêm tiền mặt để bù đắp. Cùng với việc không cân đối
được từ thu và chi, do nguồn thu không có vì không có sản phẩm công nghiệp
xuất khẩu. Cộng vào đó là sai lầm về chính sách cải cách giá, lương, tiền đã
làm cho nền kinh tế rơi tự do không kiểm soát được dẫn đến xuất hiện siêu
6
lạm phát ở mức 774,7% (1986), kéo theo giá cả leo thang vô phương kiểm
soát.2
Đời sống nhân dân nhất là công nhân viên chức và lực lượng vũ trang
gặp nhiều khó khăn. Tiêu cực xã hội phát triển, công bằng bị vi phạm, pháp
luật kỳ cương xã hội không nghiêm minh, cán bộ tham nhũng lộng quyền,
bọn làm ăn phi pháp không bị trừng trị kịp thời và nghiêm khăc. Quần chúng
giảm lòng tin với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước.3
Cuối những năm 80, tình hình kinh tế - xã hội ở Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa Đông Âu anh em cũng hết sức khó khăn và diễn ra ngày
càng phức tạp. Tình hình thế giới có nhiều thay đổi, cuộc chạy đua phát triển
kinh tế đã lôi kéo các nước vào cuộc. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước
ta nhận biết được xu thế của thế giới và nhìn thấy nguy cơ tụt hậu ngày càng
xa về kinh tế so với thế giới nếu không phát triển đất nước.
Thực tiễn tình hình trong nước và quốc tế đặt ra một yêu cầu khách
quan, bức xúc có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp các mạng nước ta, là để
làm xoay chuyển được tình thế, tạo ra một sự chuyển biến có ý nghĩa quyết
định trên bước đường đi lên. Đảng phải đổi mới sự lãnh đạo và chỉ đạo một
cách mạnh mẽ. Đại hội VI của Đảng (tháng 12 - 1986) được chuẩn bị và đáp
ứng những yêu cầu đó.
Tư tưởng cốt lõi của Đại hội VI là giải phóng mọi năng lực sản xuất
hiện có, khai thác mọi tiềm năng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp
đỡ quốc tế để phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.4
Với ý nghĩa đó, chính sách đối ngoại đổi mới phải phá thế bao vây cấm
vận, cô lập của các thế lực thù địch từ đó lấy lại vị thế của ta trên trường quốc
tế, tạo điều kiện thuận lợi cho đất nước phát triển, góp sức mình vào sự
nghiệp chung của đất nước.
2: Nguyễn Sinh 12 năm đổi mới (1986-1997). Tạp chí Cộng sản số 6 tháng 3 năm 1998, trang 3
3: Trích lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam - NXB Giáo dục, 1997 trang1
4: Trích lịch sử Đảng CSVN - NXB Giáo dục - 1997 trang 167
7
CHƯƠNG 2
QUAN HỆ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY
2.1. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI ĐỔI MỚI.
Mốc quan trọng nhất quyết định cho chính sách đối ngoại đổi mới là
“Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng” họp tại Hà Nội.
Với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật. Đại hội
VI đã thẳng thắn và khách quan chỉ ra những sai lầm thiếu sót trong chính
sách kinh tế, sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang
hoạt động trong thời kỳ quá độ. Sau khi nghiêm khắc kiểm điểm Đại hội cho
rằng để khắc phục những sai lầm, khuyết điểm và những bất cập dẫn đến
khủng hoảng Kinh tế - Xã hội đòi hỏi phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy
kinh tế. Trên tinh thần đó Đại hội VI đã xác định nhiệm vụ trên lĩnh vực đối
ngoại trong thời gian tới là:
5
Trong những năm tới nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực
đối ngoại là: “Ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời
đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững
hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác
toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa”.
5: Trích văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần VI- NXB Sự thật trang 99 (viết theo các văn kiện VI, VII, VIII)
8
Hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta phải phục vụ cho cuộc
đấu tranh bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, làm thất bại cuộc chiến
tranh phá hoại nhiều mặt của địch, tiếp tục làm tròn nghĩa vụ quốc tế với
Campuchia và Lào. Chúng ta cần tranh thủ những điều kiện thuận lợi mới về
hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi việc phân
công và hợp tác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, đồng thời tranh thủ mở
rộng quan hệ với các nước khác.
Tăng cường hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng
trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời tăng sự phối
hợp với Liên Xô và các xã hội chủ nghĩa khác trong cuộc đấu tranh hoà bình
và các mạng trên thế giới, trước hết là ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng: “Phát triển và củng cố mối quan hệ đặc
biệt giữa ba nước Đông Dương, đoàn kết và tôn trọng độc lập chủ quyền của
mỗi nước, hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ tổ quốc là
quy luật sống còn và phát triển của ba dân tộc anh em”.
Chúng ta tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước
thành viên Hội đồng tương trợ kinh tế. Chúng ta cũng mở rộng quan hệ với
các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác như Anbani, Triều Tiên...
Là một thành viên của phong trào không liên kết, chúng ta phấn khởi
trước sự trưởng thành và vai trò của ngày càng to lớn của phong trào trong
đời sống chính trị quốc tế.
Đảng ta chủ trương tích cực góp phần vào việc tăng cường đoàn kết của
phong trào trên cơ sở chủ nghĩa Mac - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Chúng ta ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh anh dũng của giai cấp công nhân và
nhân dân ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Ủng hộ mạnh mẽ đối với
nhân dân Châu Phi đang kiên cường đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ
nghĩa thực dân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa Apacthai. Đoàn kết
9
chặt chẽ với nhân dân các nước anh em như: An-giê-ri và Cộng hoà dân chủ
nhân dân Y-ê-men đang xây dựng cuộc sống mới.
Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình
và hữu nghị. Chúng ta chủ trương và ủng hộ chính sách cùng tồn tại hoà bình
giữ các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau, loại trừ chiến tranh xâm
lược và mọi hình thức của chủ nghĩa khủng bố.
Với Trung Quốc, Việt Nam sẵn sàng đàm phán với Trung quốc bất kỳ
lúc nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở đâu nhằm bình thường hoá quan hệ giữa
hai nước, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình ở Đông Nam Á và trên
thế giới.
Nhà nước ta chủ trương tăng cường và mở rộng quan hệ hữu nghị với
Thuỵ Điển, Phần Lan, Pháp, Oxtraylia, Nhật Bản và với các nước phương
Tây khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Chính phủ ta tiếp tục bàn bạc với
Mỹ giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại và sẵn sàng cải thiện
quan hệ với Mỹ vì lợi ích của hoà bình ổn định ở Đông Nam Á .
Đường lối đối ngoại đổi mới tiếp tục được khẳng định ở Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII.
Nhiệm vụ đối ngoại bao trùm trong thời gian tới là giữ vững hoà bình,
mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho
công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc. Đồng thời góp phần
tích cực vào công cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình,
độc lập dân tọc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Cần nhạy bén nhận thức và dự báo được những diễn biến phức tạp và
thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng
sản xuất và xu hướng quốc tế hoá của nền kinh tế thế giới để có những chủ
trương đối ngoại phù hợp. Trong điều kiện mới phải coi vận dụng bài học kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức
10
mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để phục vụ sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các
nước, không phân biệt chế độ chính trị xã hội khác nhau trên cơ sở các
nguyên tắc cùng tồn tại hoàn bình. Trước sau như một tăng cường đoàn kết và
hợp tác với Liên Xô, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hợp tác Việt
- Xô nhằm đáp ứng lợi ích của mỗi nước.
Không ngừng củng cố, phát triển quan hệ đoàn kết và hữu nghị đặc biệt
giữa Đảng và nhân dân ta với Đảng và nhân dân Lào, Đảng và nhân dân
Campuchia anh em. Đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả theo
nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích chính đáng của
nhau. Phấn đấu góp phần sớm đạt được một giải pháp chính trị toàn bộ về vấn
đề Campuchia trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của Campuchia và Hiến chương
LHQ.
Thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, từng
bước mở rộng sự hợp tác Việt - Trung, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa
hai nước thông qua thương lượng.
Củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, đoàn kết, hợp tác với Cu - Ba
và các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Đảng cộng sản Việt Nam chủ trưng tăng cường quan hệ với các Đảng
cộng sản và công nhân, góp phần tích cực vào sự đoàn kết và hợp tác giữa các
Đảng anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mac - Lênin, đấu tranh vì những mục tiêu
cao cả của thời đại.
Đoàn kết với lực lượng đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội, sẵn sàng thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng xã
hội - dân chủ, các phong trào dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
11
Phát triển quan hệ đoàn kết, tin cậy và nâng cao hiệu quả hợp tác nhiều
mặt với Ấn Độ. Tiếp tục mở rộng hợp tác với các nước đang phát triển khác.
Tiếp tục củng cố và tăng cường phong trào không liên kết. Phát triển quan hệ
hữu nghị với các nước ở Đông Nam Á và Châu Á - Thái Bình Dương, phấn
đấu cho một Đông Nam Á hoà bình, hữu nghị và hợp tác.
Mở rộng sự hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước Bắc Âu, Tây
Âu, Nhật Bản và các nước phát triển khác. Thúc đẩy quá trình bình thường
quan hệ với Hoa Kỳ.
Góp phần làm cho Liên Hợp Quốc phục vụ đắc lực hơn những mục tiêu
của nhân loại là hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Hợp tác với các tổ
chức chuyên môn của LHQ và các tổ chức phi chính phủ.
Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà
bình, độc lập, phát triển.
Việc Liên Xô sụp đổ vào 22-12-1991 đã làm chấn động thế giới vì tốc
độ nhanh chóng của các sự kiện và ảnh hưởng mạnh mẽ tới các Đảng cộng
sản trên thế giới. Đứng trước tình hình đó, Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương lần thứ III khoá VII đã họp và đưa ra 4 phương châm xử lý trong hoạt
động đối ngoại của ta là:
“Một là: Biết kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp công nhân đảm bảo lợi ích chân chính của dân tộc.
Hai là: Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng
hoá, đa phương hoá nhưng hai vế đó không hề mâu thuẫn nhau mà thực ra là
thống nhất, phục vụ hỗ trợ cho nhau.
Ba là: Nắm vững hai mặt đối lập của hợp tác và đấu tranh trong quan
hệ quốc tế.
12
Bốn là: Nhìn rõ vai trò của các tổ chức khu vực, hợp tác tốt với tất cả
các nước trên thế giới, nhất là các nước lớn có vai trò kinh tế, chính trị cường
quốc trên thế giới”.
Bốn phương châm chỉ đạo trên đưa ra vào đúng thời điểm hợp lý, kịp
thời phát huy và đạt được những thành tựu tốt đẹp.
Trước những thành tựu của đường lối đối ngoại đổi mới Đại hội VI và
VII, Đại hội VIII tiếp tục đường lối đối ngoại đổi mới chỉ ra đường lối chính
sách đối ngoại tới mọi chủ thể trên thế giới.
Đại hội VIII chỉ rõ: “ Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là củng cố
môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh
phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, phục vụ
sự nghiệp xây dựng và bảo vệc tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội.
Tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa
phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
Mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa
phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn
trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, thông qua thương lượng để
tìm những giải pháp phù hợp giải quyết những vấn đề tồn tại và các tranh
chấp, đảm bảo hoà bình, ổn định, an ninh, hợp tác và phát triển.
Tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức
ASEAN, không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, coi
trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị trên
13
thế giới. Đồng thời luôn nêu cao tinh thần đoàn kết anh em với các nước đang
phát triển ở Châu á, Châu Phi, Mỹ Latinh và phong trào không liên kết.
Tăng cường quan hệ với các tổ chức của Liên Hợp Quốc và các tổ chức
quốc tế khác. Tích cực hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết
các vấn đề toàn cầu. Ủng hộ cuộc đấu tranh loại trừ vũ khí hạt nhân và các
phương tiện giết người hàng loạt khác.
Phát triển quan hệ với các Đảng sản và công nhân, các lực lượng cách
mạng, độc lập dân tộc và tiến bộ, thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng
cầm quyền và các đảng khác
Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính
phủ, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp
phần thúc đẩy xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển.
Trên đây là những nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại qua từng
thời kỳ tổ chức đại hội, chính sách đổi mới này được áp dụng trong bối cảnh
quốc tế có nhiều biến động và tác động trực tiếp đến Việt Nam. Nhưng tựu
chung lại đây là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương
hoá theo tinh thầm Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới,
phấn đấu vì hoà bình, độc lập dân tộc và phát triển.
2.2. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI ĐỔI MỚI.
Chính sách đối ngoại đổi mới mà đại hội VI đề ra là kiên trì thực hiện
nhiệm vụ chiến lược giữ vững hoà bình, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi,
tập trung cao nhất, nhằm từng bước ổn định và tạo cơ sở cho phát triển kinh tế
trong vòng 25 năm đến 30 năm (tức đến năm 2020), xây dựng chủ nghĩa xã
hội, bảo vệ độc lập của tổ quốc góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung
cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Đây là mục tiêu
chiến lược và ích lợi cao nhất của toàn Đảng và toàn dân ta. Chính sách đối
ngoại đổi mới phải góp sức mình vào sự nghiệp chung đó.
14
Ngay sau khi đưa chính sách đối ngoại vào thực hiện, Đảng và nhà
nước đã “đưa vấn đề Campuchia ra để giải quyết bằng con đường hoà bình”.
Những giải pháp đưa ra trong chính sách để giải quyết vấn đề Campuchia, đã
có tác động thúc đẩy tác động đến một giải pháp chung trong vấn đề
Campuchia đi đến một giải pháp hoà bình toàn diện, đến năm 1989 thì cơ bản
hoàn thành bằng tuyên bố về một giải pháp chính trị toàn diện cho xung đột ở
Campuchia. Việt Nam và ASEAN cùng tìm ra một giải pháp đồng bộ cho vấn
đề này, từ đây 2 nhóm nước hiểu nhau hơn, tin tưởng nhau hơn. Điều đó có ý
nghĩa rất to lớn trong việc mang lại ổn định an ninh cho khu vực và làm giảm
nguy cơ xung đột tại khu vực Đông Nam Á vốn đang tiềm tàng nhiều mâu
thuẫn giữa các nước. Đây chính là thành công đầu tiên của chính sách đối
ngoại đổi mới. Bắt đầu từ thành công này tình hình ở Đông Nam Á được cải
thiện từ đối đầu sang đối thoại, tạo xu thế hoà bình, hữu nghị, hợp tác. Với
các nước Đông Nam Á, nước ta chủ trương mở rộng quan hệ về mọi mặt trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau, hai bên cùng có lợi. Những năm qua cũng đã ghi nhận những cố
gắng to lớn của nhà nước ta trong việc cải thiện quan hệ với các nước khu vực
Đông Nam Á - ASEAN.
Tháng giêng năm 1989, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố “Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẵn sàng quan hệ hữu nghị với các nước
ASEAN và các nước khác trong khu vực6. Từ đây các cuộc đi thăm lẫn nhau
của các nhà lãnh đạo cấp cao Việt Nam và của các nước ASEAN đã đạt được
những thoả thuận quan trọng và đặt nền móng cho một thời kỳ mới trong
quan hệ giữa nước ta với các nước ASEAN. Ngày 22 tháng 7 năm 1992, Việt
Nam tham ký hiệp ước thân thiện Bali và trở thành quan sát viên của ASEAN.
Có thể nói đây là một tiền đề quan trọng cho sự hội nhập của Việt Nam sau
này. Ngày 28/7/1995 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của
6: Trích Lưu Văn Lai: 50 năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995) Tập II - NXB Công an nhân dân trang 251-
252
15
ASEAN, đây là một thành công to lớn của ngoại giao Việt Nam, có ý nghiã
quyết định cho tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam.
Sau khi hội nhập ASEAN, Việt Nam đã trở thành nhân tố rất năng động
của tổ chức này, sau sự tổ chức thành công của hội nghị cấp cao ASEAN
tháng 12/1998 ở Hà Nội, Việt Nam càng chứng tỏ là một hạt nhân tích cực
của tổ chức này. Quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và các
nước ASEAN ngày càng được đẩy mạnh.
Năm 1994 thương mại 2 chiều đạt 2,4 tỷ USD, chiếm 28% tổng kim
ngạch ngoại thương của Việt Nam. Đến năm 1996 tăng lên 6 tỷ USD chiếm
33% kim ngạch xuất khẩu và 27% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Cho
đến năm 1998 khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đang ở đỉnh cao thì các
nước ASEAN vẫn chiếm 25% kim ngạch xuất khẩu và 18% đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam 7.
Sau khi hội nhập ASEAN, chúng ta tham gia vào khu vực mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA). Tuy nhiên, do sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa
Việt Nam và một số nước trong khuôn khổ AETA nên Việt Nam cần có thời
gian để điều chỉnh. Các nước ASEAN đã đồng ý kéo dài thời hạn giảm thuế
quan của Việt Nam đến năm 2006 thay vì 2003 như các thành viên khác.
Mặc dù được đánh giá là khu vực phát triển năng động của Châu Á -
Thái Bình Dương và của thế giới, nhưng cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997
đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển chung của khu vực, đối phó với vấn
đề này là rất khó, đòi hỏi các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng
cần phải nghiên cứu, rút kinh nghiệm và đề ra những giải pháp mang tính
phòng ngừa hữu hiệu, xây dựng mô hình phát triển bền vững hơn, ổn định
hơn cho từng thành viên của toàn khu vực.
Tóm lại, việc gia nhập ASEAN của Việt Nam là hướng đúng. Về kinh
tế, ta có thể tranh thủ được vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các
7: ĐHKTQD kinh tế quốc tế - NXB Thống kê - Hà Nội, 1998 trang 139
16
nước ASEAN tiên tiến. Tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển,
mở rộng thị trường trong khu vực.
Về an ninh, chính trị, Việt Nam tham gia vào diễn đàn khu vực ASEAN
chuyên bàn về những vấn đề an ninh khu vực ASEAN (ARF), khi tham gia
vào ASEAN chúng ta có thể góp phần củng cố môi trường xung quanh mình,
tạo dựng một vành đai an toàn mang tính chiến lược, bên cạnh đó khi tham
gia vào ASEAN tiếng nói của Việt Nam sẽ có thế và lực hơn trên thị trường
quốc tế. Hơn nữa, nếu các nước ASEAN gạt bỏ được những bất đồng tranh
chấp không đáng kể để đi tới một đồng thuận trong việc giải quyết vấn đề
tranh chấp ở Biển Đông đối với Trung Quốc thì tình hình sẽ bớt đi căng
thẳng, nhanh
*Đối với Trung Quốc
Việt Nam - Trung Quốc là hai nước láng giềng gần, có quan hệ hữu
nghị văn hoá và lịch sử lâu dài. Chúng ta luôn quý trọng tình hữu nghị với
nhân dân Trung Quốc, với mong muốn khôi phục lại mối quan hệ hữu nghị
giữa hai dân tộc. Trong yêu cầu để hai bên Việt - Trung có thể đi đến bình
thường hoá quan hệ đó là thế giới đang tích cực chuyển từ đối đầu sang đối
thoại, mọi vấn đề tranh chấp quốc tế, các quốc gia trên thế giới ngày càng đi
theo xu thế giải quyết bằng thương lượng hoà bình. Nhu cầu hoà bình là vấn
đề “tự thân” các nước phải phấn đấu, bởi chỉ có hoà bình mới có thể “dồn”
sức cho phát triển kinh tế và quan hệ Việt - Trung cũng không nằm ngoài quy
luật đó. Trong vấn đề đặt lại quan hệ ngoại giao giữa hai nước, cả hai nước đề
nhằm tới một mục tiêu là gạt bỏ đối đầu, mọi tranh chấp về biên giới lãnh hải
và các vấn đề xung đột giữa hai nước đều giải quyết bằng thương lượng hoà
bình. Ngoài ra hai nước còn muốn khôi phục lại quan hệ ngoại giao truyền
thống có từ lâu do hai lãnh tụ Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh vun đắp cho
tình hữu nghị của hai dân tộc.
17
Cùng với việc nối lại mối quan hệ ngoại giao hai nước còn tìm thấy ở
nhau những tiềm năng có thể hợp tác được trong vấn đề kinh tế, như nhu cầu
thị trường của hai bên đều lớn do hai nước cùng thi hành chính sách phát triển
kinh tế dựa vào xuất khẩu là chính. Việt Nam mong muốn Trung Quốc giúp ta
sửa chữa nâng cấp một số nhà máy, xí nghiệp mà Trung Quốc giúp ta xây
dựng trước kia như nhà máy gang thép Thái Nguyên và các nhà máy xi măng
lò đứng của Trung Quốc. Còn phía Trung Quốc có nhu cầu về nguồn nguyên
liệu lớn nhất là nguồn nguyên liệu than đá, trong khi Việt Nam có thế mạnh ở
điểm này, ngoài ra Trung Quốc cần một thị trường tiêu thụ hàng hoá tiêu
dùng do các địa phương giáp Việt Nam sản xuất... Tính đến khi hai bên cùng
mở cửa biên giới cho hai bên giao lưu buôn bán hàng hoá thì hàng hoá Trung
Quốc tràn vào Việt Nam rất nhiều, nhất là hàng tiêu dùng với giá cả mẫu mã
phong phú.
Có thể đánh giá nhu cầu hai bên về việc bình thường hoá quan hệ là rất
cần thiết. Nhất là đối với Việt Nam, việc bình thường hoá quan hệ với Trung
Quốc giúp nước ta có thêm bạn bè, tạo môi trường thuận lợi để phá vỡ thế bao
vây cô lập... Khôi phục và phát triển quan hệ với Trung Quốc là nhiệm vụ
trọng tâm của nước ta trong chính sách đối ngoại đối nội.
Các cuộc gặp cấp cao Việt Trung từ tháng 9/1990 diễn ra tại Thành Đô
(Trung Quốc)8 đã mở ra một trang sử mới trong việc khai thông quan hệ giữa
hai nước, đến trung tuần tháng 11 năm 1991 tại Bắc Kinh hai bên đã ra thông
cáo chung: việc bình thường hoá quan hệ Việt - Trung phù hợp với lợi căn
bản, lâu dài của nhân dân hai nước, có lợi cho hoà bình ổn định ở khu vực,
đây là sự kiện “khép lại quá khứ, mở ra tương lai” hai nước là đồng chí,
không phải là đồng minh. Tranh chấp giữa hai nước cần được được giải quyết
theo hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế, thông qua thương lượng hoà
bình, không được sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực.
8: Trích Lưu Văn Lợii: 50 năm NGVN Tập II - NXB Công an nhân dân trang 209
18
Tuy nhiên các vấn đề cần giải quyết giữa hai nước là: vấn đề biên giới
trên bộ, tranh chấp ở biển Đông, phân định vịnh Bắc Bộ. Tháng 10 năm 1993
Tổng bí thư Đỗ Mười đã tuyên bố “Việt Nam chủ trương giải quyết tranh
chấp giữa các nước, kể cả tranh chấp về các quần đảo ở Biển Đông, thông qua
thương lượng hoà bình trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn
nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế và Công ước về luật biển năm 1982 và chủ
quyền các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của
họ”9.
Đến ngày 30-12-1999, hai nước đã hoàn thành phân định 164 điểm còn
tranh chấp biên giới trên bộ và ký kết Hiệp định biên giới trên bộ. Còn những
vấn đề còn lại như: phân định vịch Bắc Bộ và những vấn đề khác do lịch sử
để lại. Qua các cuộc gặp gỡ hàng năm, hai bên đã thống nhất về nguyên tắc:
Khai thác những điểm chung, gác lại những bất đồng, cùng nhau thương
lượng, giải quyết từng bước trên cơ sở hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau và cùng
có lợi. Bước sang giai đoạn mới, hai bên thống nhất cần phải đẩy mạnh hơn
nữa quan hệ hữu nghị, hợp tác lên một bước mới về chất cho phù hợp với nhu
cầu lợi ích của hai bên.
Trong chuyến thăm hữu nghị Trung Quốc của Tổng bí thư Đảng cộng
sản Lê Khả Phiêu đầu năm 1999, hai bên đã thảo luận thống nhất về nguyên
tắc quan hệ Việt - Trung từ nay sẽ phát triển theo tinh thần 16 chữ:
“Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện
Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”
Ngày 26 - 12 - 2000 nhân chuyến thăm của Chủ tịch nước Trần Đức
Lương đã ra một thông cáo chung về Hợp tác toàn diện và ký Hiệp ước phân
định vị trí Bắc Bộ
* Đối với Mỹ.
9: Trích Lưu Văn Lợi: 50 năm NGVN Tập II - NXB Công an nhân dân trang 219-220
19