logo

Luận văn tốt nghiệp “Nâng cao hiệu quả thi hành luật doanh nghiệp của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn thành phố Hà nội “

Luật doanh nghiệp đã được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 5 ngày 29/5/1999 thông qua với 84,5% phiếu thuận, tiếp đó được Chủ tịch Quốc hội ký ngày 12/6/1999, được Chủ tịch nước ký quyết định ban hành và đã chính thức có hiệu lực từ 1/1/2000. Đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình tích cực và nhất quán hoàn thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam theo các nguyên tắc kinh tế thị trường, Luật doanh nghiệp là kết quả của sự tập hợp những kinh nghiệm quý báu rút ra từ thực tiễn...
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Nâng cao hiệu quả thi hành luật doanh nghiệp của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội Giáo viên hướng dẫn: Ts. Nguyễn Hữu Khải Họ tên sinh viên: Đỗ Triệu Phong Lớp: A2 – CN9 Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm 2003 CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1. AFTA - Hiệp định tự do thương mại Châu Á 2. ĐKKD - Đăng ký kinh doanh 3. CNĐKKD - Chứng nhận đăng ký kinh doanh 4. CPH - Cổ phần hoá 5. DNNN - Doanh nghiệp nhà nước 6. FDI - Đầu tư nước ngoài trực tiếp 7. GDP - Tổng sản phẩm quốc nội 8. GTGT - Giá trị gia tăng 9. HĐND - Hội đồng nhân dân 10. HNKTQT - Hội nhập kinh tế quốc tế 11. HTX-TCN - Hợp tác xã thủ công nghiệp 12. ISO - Tiêu chuẩn đo lường chất lượng 13. KH-CN&MT - Khoa học - Công nghệ và Môi trường 14. KT-QT - Kinh tế quốc tế 15. KT-XH - Kinh tế – Xã hội 16. NĐ-CP - Nghị định Chính phủ 17. NBIN - Trung tâm thông tin doanh nghiệp 18. NSNN - Ngân sách nhà nước 19. PPP - Tỷ suất ngang giá sức mua 20. QĐ-BTC - Quyết định Bộ Tài chính 21. QĐ-TTg - Quyết định Thủ tướng Chính phủ 22. THCS - Trung học cơ sở 23. TNHH - Trách nhiệm hữu hạn 24. Tp.HCM - Thành phố Hồ Chí Minh 25. TT-BKH - Thông tư Bộ Kế hoạch và Đầu tư 26. TT-NHNN - Thông tư Ngân hàng Nhà nước 27. UBND - Uỷ ban Nhân dân 28. UNDP - Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc 29. VAT - Thuế giá trị gia tăng 30. VCCI - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam 31. VNĐ - Đồng Việt Nam 32. WB - Ngân hàng Thế giới 33. WTO - Tổ chức thương mại quốc tế 34. XHCN - Xã hội chủ nghĩa LỜI MỞ ĐẦU Luật doanh nghiệp đã được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 5 ngày 29/5/1999 thông qua với 84,5% phiếu thuận, tiếp đó được Chủ tịch Quốc hội ký ngày 12/6/1999, được Chủ tịch nước ký quyết định ban hành và đã chính thức có hiệu lực từ 1/1/2000. Đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình tích cực và nhất quán hoàn thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam theo các nguyên tắc kinh tế thị trường, Luật doanh nghiệp là kết quả của sự tập hợp những kinh nghiệm quý báu rút ra từ thực tiễn chuyển đổi cơ chế kinh tế suốt những năm cuối thập kỷ 90, mà trực tiếp là từ việc thực hiện Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân (đã được ban hành từ 1990) và được tiếp thu từ kinh nghiệm quốc tế, trước hết là Luật công ty của các nước ASEAN. Đồng thời, trong cùng bối cảnh chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, khác với Luật doanh nghiệp của Nga đặt trọng tâm vào đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá và tư nhân hoá khu vực doanh nghiệp Nhà nước, và cũng khác với Luật doanh nghiệp của Trung quốc đặt trọng tâm vào thúc đẩy xu hướng công ty hoá các doanh nghiệp Nhà nước và tạo động lực thành lập các doanh nghiệp mới, Luật doanh nghiệp của Việt Nam có đặc trưng nổi bật là thực hiện đột phá trong Đăng ký kinh doanh để tạo thuận lợi dễ dàng cho việc thành lập mới các doanh nghiệp dân doanh... Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã nhấn mạnh trong Diễn văn bế mạc Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra ngày 13/11/2001 vừa qua như sau: "việc nghiêm chỉnh thực hiện Luật doanh nghiệp, chỉ đạo tháo gỡ những vướng mắc cho doanh nghiệp.v.v.. đã đem lại những kết quả rõ rệt, chứng tỏ rằng chúng ta có thể phát huy mạnh mẽ hơn nữa nguồn nội lực để phát triển đất nước". Thực tiễn triển khai Luật doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố Hà Nội (địa phương có số lượng và sự tập trung các doanh nghiệp đứng thứ hai cả nước chỉ sau Thành phố Hồ Chí Minh) thời gian gần đây đã và đang khẳng định tính đúng đắn của kết luận trên. Qua quá trình học tập và nghiên cứu tại trường Đại học Ngoại thương, kết hợp với thực tế công tác của bản thân trong lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh của địa bàn thành phố Hà nội, tôi quyết định chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả thi hành luật doanh nghiệp của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn thành phố Hà nội “. Vì nhiều lý do khách quan và chủ quan nên chắc chắn nội dung khoá luận không tránh khỏi những hạn chế nhất định, rất mong các thầy cô giáo và bạn đọc chân thành góp ý kiến. Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn Khoa Kinh tế Ngoại thương, Khoa Quản lý đào tạo tại chức trường Đại học Ngoại thương, Sở Công An Hà nội, và đặc biệt là thầy giáo hướng dẫn – Ts. Nguyễn Hữu Khải, đã giúp đỡ tôi hoàn thành Khoá luận tốt nghiệp đại học. Hà nội, ngày 19 tháng 5 năm 2003 Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại thương CHƯƠNG I TIẾP CẬN LUẬT DOANH NGHIỆP DƯỚI GÓC ĐỘ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC I. QUAN ĐIỂM, NỘI DUNG CẢI CÁCH NỀN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. 1) Cải cách nền hành chính là trọng tâm của việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Cải cách một bước nền hành chính là trọng tâm của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, trước hết do vị trí của nền hành chính trong hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước: + Với chức năng hành pháp, nền hành chính trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, luật pháp và nghị quyết của Quốc hội. Chính sách và luật pháp đúng là điều kiện tiên quyết, song phải có nền hành chính mạnh, có hiệu quả thì chính sách và luật pháp mới đi vào cuộc sống; hơn nữa, trong quá trình tổ chức thực hiện, nền hành chính còn góp phần tích cực vào việc bổ sung, phát triển chính sách, luật pháp. + Các cơ quan hành chính trực tiếp xử lý công việc hàng ngày của nhà nước, thường xuyên tiếp xúc với nhân dân, giải quyết các yêu cầu của dân, là cầu nối quan trọng giữa Đảng, Nhà nước với dân. Nhân dân đánh giá chế độ, đánh giá Đảng trước hết là thông qua hoạt động của bộ máy hành chính. + Trong toàn bộ cơ cấu nhà nước, bộ máy hành chính là lực lượng đông đảo nhất, với hệ thống tổ chức đồng bộ theo ngành và cấp từ Trung ương tới chính quyền cơ sở. Nền hành chính của nước ta đã hoàn thành tốt nhiệm vụ qua các giai đoạn cách mạng, có bước chuyển biến, tiến bộ trong quá trình đổi mới, nhưng hiện nay đang có nhiều mặt yếu kém, thể hiện tập trung ở bệnh quan liêu, xa dân, xa cấp dưới và cơ sở; tình trạng phân tán, thiếu trật tự, kỷ cương trong hệ thống hành chính và trong xã hội; nạn tham nhũng và Đỗ Triệu Phong - Lớp A2-CN9 1 Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại thương lãng phí của công; bộ máy hành chính cồng kềnh, nặng nề, vận hành trục trặc, ít tạo thuận lợi cho doanh nghiệp; đội ngũ cán bộ, công chức thiếu kiến thức, năng lực, một bộ phận không nhỏ kém phẩm chất, thậm chí hư hỏng. Khắc phục những căn bệnh ấy tức là xây dựng một nền hành chính trong sạch có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hoá để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc cuả nhà nước, được dân tin, dân yêu. Muốn vậy, không thể chỉ sửa đổi cục bộ, chắp vá mà phải tạo ra sự biến đổi căn bản, có hệ thống của nền hành chính trên cơ sở giữ vững sự ổn định chính trị. Với ý nghĩa đó, phải tiến hành một cuộc cải cách sâu sắc và toàn diện, có tính chất cơ bản đối với nền hành chính. Ngoài ra, nhân dân đòi hỏi và mong muốn được yên ổn sinh sống, làm ăn trong môi trường an ninh, trật tự và dân chủ, không bị phiền hà, sách nhiễu; người ngay được bảo vệ, kẻ gian và bọn tham nhũng bị trừng trị. Nền hành chính có trách nhiệm chính và hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu đó. Đồng thời, yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ đổi mới đòi hỏi Nhà nước trực tiếp là nền hành chính phải hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu lực quản lý theo cơ chế mới để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và cuối cùng, yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại đa phương, đa dạng đòi hỏi thể chế hành chính và đội ngũ cán bộ phải thích ứng với luật pháp, tập quán và trình độ quốc tế đồng thời giữ vững độc lập tự chủ, bảo vệ lợi ích quốc gia. Yêu cầu này càng bức xúc khi nước ta gia nhập ASEAN với tư cách thành viên đầy đủ và tham gia một số tổ chức quốc tế khác. Nhiệm vụ đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, một mặt đòi hỏi phải có nền hành chính mạnh để đưa đường lối, chính sách của Đảng vào cuộc sống; mặt khác, việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh là nhân tố quyết định chất lượng và hiệu lực của nền hành chính. Như vậy, cải cách nền hành chính là trọng tâm của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam và trước hết để cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam, tạo thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp, tuân thủ các cam kết HNKTQT và thông lệ quốc tế. 2) Nội dung cải cách một bước nền hành chính. Đỗ Triệu Phong - Lớp A2-CN9 2 Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại thương Cải cách một bước nền hành chính phải tiến hành đồng bộ trên cả ba mặt: cải cách thể chế, chấn chỉnh bộ máyvà xây dựng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, công chức, trong đó cải cách thể chế của nền hành chính có vị trí rất quan trọng. Thể chế bao gồm hiến pháp, luật và các văn bản pháp quy dưới luật tạo khuôn khổ pháp lý cho các cơ quan hành chính thực hiện chức năng quản lý, điều hành mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cũng như cho mọi tổ chức và cá nhân sống và làm việc theo pháp luật; đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, thể chế quốc gia phải đáp ứng được hai yêu cầu cơ bản trong mối quan hệ giữa Nhà nước với doanh nghiệp và nhân dân: Thứ nhất, xây dựng thể chế của nền hành chính dân chủ thực hiện quyền lực của dân phục vụ lợi ích và đáp ứng nguyện vọng của dân, phát huy tiềm năng sức mạnh vật chất và trí tuệ của dân, đòi hỏi nghĩa vụ ở dân và thiết lập trật tự, kỷ cương theo pháp luật trong đời sống xã hội. Thứ hai, đổi mới và hoàn chỉnh thể chế quản lý nhà nước phù hợp với các nguyên tắc kinh tế thị trường, tạo sự thích ứng về thể chế trong quan hệ đối ngoại với luật pháp và tập quán quốc tế. Trong Nghị quyết Trung ương 8 đề ra 5 vấn đề bức xúc cần tập trung giải quyết, đó là: - Cải cách một bước cơ bản các thủ tục hành chính - Đẩy mạnh việc giải quyết các khiếu kiện của dân - Tiếp tục xây dựng hoàn chỉnh thể chế kinh tế mới - Đổi mới quy trình lập pháp và lập quy - Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật Nghị quyết Trung ương 8 cũng nêu rõ ba lĩnh vực cần tập trung xây dựng, bổ sung thể chế theo tinh thần đổi mới. - Một là, thể chế tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường cho việc hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường, cho việc tạo lập môi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp. - Hai là, thể chế quản lý tài chính công (ngân sách, kho bạc, vốn đầu Đỗ Triệu Phong - Lớp A2-CN9 3 Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại thương tư của Nhà nước) và các tài sản khác (đất đai, tài nguyên, công sở, dự trữ quốc gia...). - Ba là, thể chế quản lý các doanh nghiệp nhà nước dựa trên sự phân định hai loại doanh nghiệp: doanh nghiệp có chức năng kinh doanh kiếm lợi nhuận theo cơ chế thị trường và doanh nghiệp có chức năng dịch vụ công ích và phúc lợi xã hội, cung ứng sản phẩm và dịch vụ cho nhu cầu công cộng. Đặc biệt, Cải cách thủ tục hành chính được coi là khâu đột phá của công cuộc cải cách hành chính bởi hai nguyên nhân chính sau: Trước hết, cải cách thủ tục hành chính là trực tiếp giải quyết một lĩnh vực nóng bỏng, đụng chạm nhiều đến nhân dân và các doanh nghiệp có thể và cần phải thu được kết quả thiết thực để tạo niềm tin và khí thế cho cuộc cải cách Hơn nữa, thủ tục hành chính có liên quan đến thể chế quản lý tổ chức bộ máy, chế độ công vụ, quy chế làm việc và phối hợp giữa các cơ quan hành chính, do đó thông qua việc soát xét các thủ tục, có thể phát hiện rõ thêm những bất hợp lý trong nền hành chính để thúc đẩy công cuộc cải cách. Nghị quyết Trung ương 8 đã xác định rõ các thủ tục trong 7 lĩnh vực trọng điểm cần được ưu tiên xử lý là phân bổ ngân sách và cấp vốn đầu tư, cấp đất và cấp giấy phép xây dựng, xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh, xuất nhập cảnh, tiếp dân và giải quyết khiếu tố của dân. Nhất quán với tinh thần đó và thể hiện quyết tâm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong"Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-2010" ban hành theo Quyết định số 136/2001/QĐ- TTg ngày 7/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 có mục tiêu: “Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước”. Đỗ Triệu Phong - Lớp A2-CN9 4 Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại thương Và được cụ thể hoá thành các yêu cầu: - Hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, cơ chế, chính sách phù hợp với thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước hết là các thể chế kinh tế, về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính. Tiếp tục đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, khắc phục tính cục bộ trong quá trình xây dựng thể chế; phát huy dân chủ, huy động trí tuệ của nhân dân để nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật. - Xoá bỏ về cơ bản các thủ tục hành chính mang tính quan liêu, rườm rà, gây phiền hà cho doanh nghiệp và nhân dân; hoàn thiện các thủ tục hành chính mới theo hướng công khai, đơn giản và thuận tiện cho dân. - Các cơ quan trong hệ thống hành chính được xác định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm rõ ràng; chuyển được một số công việc và dịch vụ không cần thiết phải do cơ quan nhà nước thực hiện cho doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đảm nhận. - Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gọn nhẹ, hợp lý theo nguyên tắc Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, thực hiện chức năng chủ yếu là quản lý vĩ mô toàn xã hội bằng pháp luật, chính sách, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện. Bộ máy của các Bộ được điều chỉnh về cơ cấu trên cơ sở phân biệt rõ chức năng, phương thức hoạt động của các bộ phận tham mưu, thực thi chính sách, cung cấp dịch vụ công. - Đến năm 2005, về cơ bản xác định xong và thực hiện được các quy định mới về phân cấp quản lý hành chính nhà nước giữa Trung ương và địa phương; giữa các cấp chính quyền địa phương; định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức bộ máy chính quyền ở đô thị và ở nông thôn. - Đến năm 2005, đội ngũ cán bộ, công chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, chuyên nghiệp, hiện đại. Tuyệt đại bộ phận cán bộ, công chức có phẩm chất tốt và đủ năng lực thi hành công vụ, tận tuỵ phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân. - Đến năm 2005, tiền lương của cán bộ, công chức được cải cách cơ bản, trở thành động lực của nền công vụ, đảm bảo cuộc sống của cán bộ, công chức và gia đình. Đỗ Triệu Phong - Lớp A2-CN9 5 Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại thương Đến năm 2005, cơ chế tài chính được đổi mới thích hợp với tính chất của cơ quan hành chính và tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công. Luật doanh nghiệp được ra đời trong bối cảnh đó và phản ánh phần nào nội dung quan trọng của chương trình cải cách hành chính Nhà nước nêu trên, đặc biệt là vấn đề quản lý kinh tế Nhà nước đối với khu vực doanh nghiệp. II. NỘI DUNG CHỨC NĂNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP Về tổng quát, Luật doanh nghiệp với 10 chương và 124 điều là sự cụ thể hóa thành luật các tư tưởng đổi mới quan trọng của Đảng trên con đường tiến tới kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực thi quyền tự do kinh doanh theo pháp luật đã được khẳng định trong Hiến pháp 1992 (điều 57). Luật doanh nghiệp cũng là một bước tiến theo hướng xây dựng khung khổ pháp luật phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Luật doanh nghiệp quy định 5 loại hình doanh nghiệp thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật là công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, Công ty TNHH một thành viên, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Như vậy, đối tượng điều chỉnh của Luật doanh nghiệp bao gồm cả đối tượng điều chỉnh của Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân trước đây và thêm 2loại hình doanh nghiệp mới (công ty hợp danh và Công ty TNHH một thành viên). Việc thống nhất quản lý các doanh nghiệp dân doanh bằng 1 luật duy nhất đã tạo điều kiện thuận lợi cho cả người quản lý (Nhà nước) và đối tượng bị quản lý (các doanh nghiệp), thể hiện rõ hơn chủ trương tiến tới việc xác lập một môi trường kinh doanh bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế và loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh. Luật doanh nghiệp quy định chức năng quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp gồm 5 nội dung cơ bản sau: 1) Ban hành, phổ biến và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về doanh nghiệp. 2) Tổ chức đăng ký kinh doanh; hướng dẫn việc đăng ký kinh doanh bảo đảm thực hiện chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướng phát Đỗ Triệu Phong - Lớp A2-CN9 6 Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại thương triển KT-XH. 3) Tổ chức thực hiện và quản lý đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao phẩm chất đạo đức kinh doanh cho người quản lý doanh nghiệp; phẩm chất chính trị, đạo đức, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp; đào tạo và xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề. 4) Thực hiện chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp theo định hướng và mục tiêu của chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển KT- XH. 5) Kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp; giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua chế độ báo cáo tài chính định kỳ và báo cáo khác. Nếu xét dưới khía cạnh liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp trên thực tiễn thì các nội dung quản lý Nhà nước trên đây có thể chia thành 3 nhóm công việc: 1) Quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp qua đăng ký kinh doanh 2) Quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp qua chế độ báo cáo, qua kiểm tra, thanh tra (hậu kiểm) 3) Quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp qua các biện pháp khác. Các quy định của Luật doanh nghiệp liên quan đến các nội dung quản lý Nhà nước này đã được cải tiến đáng kể so với các quy định trong Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân trước đây, tạo những điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư khi khởi sự doanh nghiệp cũng như trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Chủ trương tạo điều kiện thuận lợi nhất cho kinh doanh của mọi tổ chức và công dân theo pháp luật, chuyển trọng tâm sự quản lý Nhà nước từ "tiền kiểm" sang "hậu kiểm" và tổ chức sự quản lý, giám sát của Nhà nước cùng với xã hội và công luận theo nguyên tắc minh bạch, công khai đã được thể hiện khá rõ trong Luật doanh nghiệp. 1. Về công tác đăng ký kinh doanh Cơ quan quản lý Nhà nước về đăng ký kinh doanh được Luật doanh nghiệp quy định thống nhất là cơ quan đăng ký kinh doanh do Chính phủ quy định. Các quy định này đã được cụ thể hóa kịp thời trong Nghị định Đỗ Triệu Phong - Lớp A2-CN9 7 Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại thương 02/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 của Chính phủ. Tuy vậy, ngay trong Luật doanh nghiệp đã có những điều, khoản khá cụ thể và rõ ràng liên quan đến công tác quản lý Nhà nước qua đăng ký kinh doanh. Các quy định về thành lập và đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp được quy định trong Chương II của Luật doanh nghiệp với 17 điều (từ điều 9 đến điều 25). Luật Doanh nghiệp đã quy định rõ 8 loại đối tượng không được quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp và 2 loại đối tượng không được quyền góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh. Đây cũng là một bước tiến đáng kể so với quy định trước đây của Luật công ty xác định những đối tượng được phép thành lập công ty (hơn nữa, việc liệt kê các đối tượng này lại chưa đầy đủ và rõ ràng, dễ gây tranh cãi trong quá trình triển khai Luật). Cách quy định này một lần nữa thể hiện sự đổi mới trong tư duy quản lý Nhà nước: quyền tự do kinh doanh theo pháp luật được bảo đảm, mọi tổ chức và công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Đây chính là bước tiến quan trọng về chất trong tư tưởng của Luật doanh nghiệp. Một trong những tiến bộ quan trọng nhất của Luật doanh nghiệp là việc quy định trình tự thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh rất đơn giản và thuận tiện. Nhà đầu tư muốn thành lập doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp được miễn một loại thủ tục hành chính là xin Giấy phép thành lập doanh nghiệp. Thực tế trước đây cho thấy, việc xin giấy phép thành lập doanh nghiệp thường là công đoạn khiến nhà đầu tư tốn nhiều công sức, thời gian và tiền bạc nhất. Muốn có được giấy phép thành lập doanh nghiệp, bộ hồ sơ xin phép của chủ đầu tư phải được sự cho phép của ít nhất 7 cơ quan: từ UBND phường/xã, UBND quận/huyện, phòng công chứng, ngân hàng, sở quản lý chuyên ngành, bộ quản lý chuyên ngành và UBND Thành phố/tỉnh. Chỉ sau khi được UBND Thành phố/tỉnh cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp, nhà đầu tư mới được tiến hành thủ tục đăng ký kinh doanh. Đã có thống kê cho thấy, để thành lập được một doanh nghiệp, nhà đầu tư phải xin được khoảng gần 20 loại giấy tờ với con dấu khác nhau. Đối với mỗi loại giấy chứng nhận, nhà đầu tư ít nhất phải đến cơ quan Nhà nước 2 lần: một lần đến để "xin" và một lần đến để được "cho" (đó là còn chưa tính đến trường hợp nhà đầu tư phải đi lại nhiều lần để bổ sung hồ sơ "xin"). Một số tỉnh, thành phố còn Đỗ Triệu Phong - Lớp A2-CN9 8 Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại thương tuỳ tiện đặt ra những điều kiện và một số trình tự, thủ tục và giấy tờ khác do trong Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân trước đây chưa quy định rõ ràng về hồ sơ thành lập doanh nghiệp. Thời gian cần thiết bình quân để thành lập một công ty phải mất đến vài tháng với những khoản chi phí không nhỏ (mà phần lớn là những khoản chi "không chính thức"). Để xóa bỏ tình trạng này, Luật doanh nghiệp đã có quy định rõ ràng về hồ sơ đăng ký kinh doanh và thời hạn tối đa của việc giải quyết đăng ký kinh doanh của cơ quan quản lý Nhà nước (15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ). Việc đơn giản hóa hồ sơ thành lập doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp có thể thấy rất rõ qua bảng so sánh sau đây: Bảng 1. Hồ sơ thành lập công ty theo quy định của Luật công ty và Luật doanh nghiệp (đối với các doanh nghiệp không thuộc diện kinh doanh có điều kiện) Luật công ty 1990 Luật doanh nghiệp 1999 1. Đơn xin phép thành lập 1. Đơn đăng ký kinh doanh 2. Phương án kinh doanh ban đầu 2. Điều lệ công ty 3. Dự thảo điều lệ công ty 3. Danh sách thành viên (hoặc 4. Các giấy chứng nhận về nhân thân của cổ đông sáng lập) của công ty người đầu tư (chứng nhận không bị bệnh tâm thần, không bị kết án hoặc không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự) 5. Chứng nhận về trụ sở của công ty 6. Chứng nhận về vốn đầu tư của công ty Qua bảng trên, có thể thấy, theo quy định của Luật doanh nghiệp mới, có 4 loại giấy tờ đã được bãi bỏ trong hồ sơ thành lập công ty, đó là phương án kinh doanh ban đầu, chứng nhận về nhân thân của nhà đầu tư, chứng nhận về trụ sở của công ty và chứng nhận về vốn đầu tư của công ty. Đặc biệt, cần nhấn mạnh rằng với quy định mới này, cải cách hành chính trong quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp đã thực sự coi trọng nguyên tắc quản lý mới là "tiền đăng, hậu kiểm" vì thực tế đã cho thấy, những biện pháp "tiền kiểm" trước đây là không hiệu quả. Đỗ Triệu Phong - Lớp A2-CN9 9 Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại thương Thứ nhất, quy định nhà đầu tư phải trình cho cơ quan quản lý Nhà nước phương án kinh doanh ban đầu của công ty về thực chất là không cần thiết. Là người bỏ tiền ra đầu tư kinh doanh, tức là đã sẵn sàng chấp nhận rủi ro, chính nhà đầu tư là người quan tâm nhất đến kế hoạch kinh doanh, và chỉ khi họ dự tính việc kinh doanh mang lại lợi nhuận thì họ mới đầu tư. Chỉ có nhà đầu tư mới là người có đầy đủ thông tin nhất để đánh giá về kế hoạch kinh doanh, còn cán bộ cơ quan quản lý Nhà nước không đủ thông tin và kiến thức để đánh giá tính khả thi của phương án kinh doanh này. Như vậy, việc đệ trình phương án kinh doanh ban đầu như một thủ tục bắt buộc trong hồ sơ thành lập doanh nghiệp chỉ là thủ tục mang tính hình thức, đồng thời có thể tạo ra một số tác hại đối với nhà đầu tư như gây tốn kém thêm, có thể làm cho bí mật kinh doanh bị tiết lộ, ngoài ra, quy định này cũng dễ tạo điều kiện cho một số cán bộ Nhà nước có liên quan tham nhũng, sách nhiễu nhà đầu tư bằng những yêu cầu bổ sung, sửa đổi vô căn cứ, từ chối chấp nhận phương án do nhà đầu tư lập, bắt buộc sử dụng dịch vụ của tổ chức, cá nhân mà họ có liên quan. Thứ hai, việc phải nộp các giấy tờ chứng nhận về nhân thân của nhà đầu tư cũng hầu như không có ý nghĩa trên thực tế mà chỉ làm cho nhà đầu tư tốn thêm thời giờ và chi phí, góp phần làm chậm trễ thêm quá trình thành lập công ty. Bất kỳ giấy chứng nhận nào về người chuẩn bị thành lập công ty (không mắc bệnh tâm thần, có hộ khẩu thường trú nhất định, không thuộc đối tượng bị kết án tù mà chưa được xóa án hoặc đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự) đều có thể có được với một khoản phí nhất định, những người cấp các giấy chứng nhận này sẽ không phải chịu trách nhiệm về xác nhận của mình. Chỉ có các nhà đầu tư và các bạn hàng, các chủ nợ tương lai mới là những người cần và có khả năng tốt nhất để đánh giá về nhân thân của người thành lập công ty. Thứ ba, việc xác nhận về trụ sở công ty để đảm bảo rằng trụ sở đăng ký là có thực là thừa đối với những người có ý định kinh doanh đứng đắn. Công ty được thành lập là để kinh doanh, trụ sở đối với công ty là một địa chỉ quan trọng để giao dịch và nhà đầu tư sẽ luôn phải cố gắng để càng nhiều người biết về trụ sở giao dịch của mình càng tốt và họ chính là người quan tâm nhất đến tính xác thực của trụ sở công ty. Việc kiểm tra tính trung thực của lời khai về trụ sở hay địa chỉ giao dịch của một công Đỗ Triệu Phong - Lớp A2-CN9 10 Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại thương ty phải là trách nhiệm của các bạn hàng nếu họ muốn thiết lập giao dịch với công ty đó. Thứ tư, chứng nhận của ngân hàng về vốn bằng tiền mặt và chứng nhận của công chứng về giá trị tài sản bằng hiện vật xuất phát từ yêu cầu về vốn pháp định của công ty là không cần thiết. Trong kinh tế thị trường, giá trị thực của doanh nghiệp có thể biến động hàng ngày, có thể cao hơn nhưng cũng có thể thấp hơn mức vốn pháp định. Mức vốn pháp định hoàn toàn không phản ánh giá trị vốn thực có của doanh nghiệp. Về thực chất, mức vốn pháp định chỉ có tính chất tượng trưng chứ không còn là công cụ để bảo vệ lợi ích của các bạn hàng và chủ nợ của công ty. Như vậy, cả 4 loại giấy tờ nêu trên trong thực tế đều không đạt được mục tiêu của nó, mà trái lại, có thể gây nên tác hại không nhỏ như: làm tăng thêm chi phí và thủ tục phiền hà cho nhà đầu tư; gây ra những nhầm lẫn đối với các bạn hàng và chủ nợ không có kinh nghiệm, có thể làm thiệt hại cho lợi ích của họ; tạo điều kiện cho người có ý định lừa đảo lợi dụng để thực hiện ý đồ của họ; cũng như tạo điều kiện cho một số cán bộ Nhà nước có liên quan tham nhũng, sách nhiễu nhà đầu tư. Những loại giấy tờ này thể hiện chủ trương "tiền kiểm" rất chặt chẽ, phiền hà nhưng lại kém hiệu lực đối với đa số người kinh doanh lương thiện. Vì vậy, Luật doanh nghiệp 1999 đã bỏ quy định nhà đầu tư phải nộp những giấy tờ này trong hồ sơ đăng ký kinh doanh. Đặc biệt, mục 2 điều 12 của Luật còn quy định: "cơ quan ĐKKD không có quyền yêu cầu người thành lập doanh nghiệp nộp thêm các giấy tờ, hồ sơ khác ngoài hồ sơ quy định tại Luật này". Đây là những quy định hết sức tiến bộ của Luật doanh nghiệp nhằm đơn giản hoá thủ tục thành lập doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho người kinh doanh, mặt khác giảm bớt sự can thiệp của các cơ quan công quyền vào quyền tự định đoạt của chủ doanh nghiệp, làm cơ sở cho việc cải cách thủ tục và bộ máy hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý doanh nghiệp. Cơ quan quản lý nhà nước về đăng ký kinh doanh không chịu trách nhiệm về tính xác thực của các nội dung ĐKKD mà chỉ chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ ĐKKD. Điều này một mặt làm cho công tác cấp giấy đăng ký kinh doanh trở nên đơn giản, thuận tiện, và mặt khác, đòi hỏi công tác hậu kiểm của các cơ quan quản lý nhà nước phải Đỗ Triệu Phong - Lớp A2-CN9 11 Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại thương được tiến hành chặt chẽ và hiệu quả hơn. Luật doanh nghiệp đi vào cuộc sống đã cởi bỏ cho doanh nghiệp những trở ngại ban đầu trong "cửa ải" đầu tiên tham gia thương trường bằng việc cải cách thủ tục đăng ký kinh doanh, bãi miễn nhiều giấy phép con trái với tinh thần của Luật. Có thể nói, những quy định về việc đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp trong Luật là khá chặt chẽ và cụ thể. Tuy nhiên, vẫn còn một số quy định của Luật chưa thực sự rõ ràng, có thể gây khó khăn cho nhà đầu tư khi muốn thành lập doanh nghiệp. Ví dụ như quy định tại khoản 1, điều 24 về tên của doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp quy định nghĩa vụ của cơ quan ĐKKD bảo hộ quyền sở hữu tên doanh nghiệp. Tên doanh nghiệp là tài sản của doanh nghiệp, phải được bảo hộ ngay sau đăng ký. Tuy nhiên, các quy định về tên doanh nghiệp trong Luật lại chưa rõ ràng, vẫn chưa có một quy định pháp lý cụ thể nào khác về việc đặt tên doanh nghiệp và quản lý bảo vệ quyền sở hữu về tên doanh nghiệp. Còn chưa có tiêu chí về sự nhầm lẫn tên (thế nào là gây nhầm lẫn?). Cấu trúc tên doanh nghiệp như thế nào, mối quan hệ giữa nghề nghiệp với tên, giữa tên doanh nghiệp với tên chi nhánh. Tên tiếng Việt, cỡ chữ cái tiếng Việt như thế nào để phù hợp với đầu tư của Việt kiều về nước và người nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, hoặc phiên âm các tiếng dân tộc Việt Nam. Thế nào là tên vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc? Đặc biệt, trong việc đăng ký kinh doanh các ngành nghề kinh doanh có điều kiện, đến nay vẫn còn nhiều vướng mắc làm ảnh hưởng đến công tác đăng ký kinh doanh theo Luật doanh nghiệp. Các điều kiện kinh doanh của nhiều ngành nghề chưa được tiêu chuẩn hoá và quy phạm hoá, vì vậy dễ xảy ra tình trạng không rõ ràng, tạo ra một thực tế là cơ quan quản lý và doanh nghiệp không biết vận dụng như thế nào dẫn đến việc hoặc là doanh nghiệp không thể kinh doanh được hoặc không thể tránh được việc bị quy kết là vi phạm luật. Trong Luật doanh nghiệp và thậm chí cả trong các nghị định hướng dẫn thi hành Luật của Chính phủ vẫn chưa có quy định cụ thể về cơ quan có thẩm quyền xác nhận và cách thức xác nhận vốn pháp định của các doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề cần có vốn pháp định. Việc nhận thức và thực hiện Điều 6 Luật doanh nghiệp còn nhiều Đỗ Triệu Phong - Lớp A2-CN9 12 Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại thương điểm bất cập. Cụ thể, do trong Luật quy định: “danh mục ngành nghề cấm kinh doanh do Chính phủ quy định” nên hiện nay có nhiều nguy cơ danh mục này bị mở rộng vì nhiều bộ đang có ý định trình Chính phủ cấm thêm một số ngành, nghề nữa. Điều này xuất phát từ tư duy hiện nay là: chỉ cho dân kinh doanh những gì mà nhà nước quản lý được, khi cơ quan nhà nước lúng túng trong quản lý thì cấm hoặc tạm dừng đăng ký kinh doanh. Đặc biệt, trong quá trình triển khai thực thi Luật doanh nghiệp, còn có những sự không thống nhất giữa các văn bản hướng dẫn Luật và Luật về thủ tục đăng ký kinh doanh. Chẳng hạn Luật Doanh nghiệp quy định ngoài các giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều 12: Cơ quan đăng ký kinh doanh không có quyền yêu cầu người thành lập doanh nghiệp nộp thêm bất cứ loại giấy tờ, hồ sơ khác... "Nhưng Thông tư số 08/2002/TT-BKH lại quy định : " khi xét thấy cần thiết cơ quan đăng ký kinh doanh có quyền yêu cầu doanh nghiệp xuất trình..." 2. Về công tác hậu kiểm Theo định chế mới, mọi lực lượng xã hội đều có thể giám sát mọi hoạt động của doanh nghiệp trên cơ sở những điều kiện đã tiêu chuẩn hóa rõ ràng. Trên thực tế, doanh nghiệp sẽ chịu "hậu kiểm" của cả 5 đối tượng: Nội bộ Doanh nghiệp, đối tác kinh doanh (chủ nợ, bạn liên doanh, ...), khách hàng, người tiêu dùng và cơ quan Nhà nước. Như vậy, hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp chỉ là một phần của "hậu kiểm". Theo các quy định của Luật doanh nghiệp, công tác “hậu kiểm” của cơ quan quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp chủ yếu được tiến hành thông qua 2 hình thức: thông qua báo cáo về tình hình kinh doanh do doanh nghiệp lập và thông qua các cuộc kiểm tra, thanh tra trực tiếp của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Luật doanh nghiệp về bản chất là thay đổi định chế quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp, chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Song song với việc bãi bỏ các giấy chứng nhận, giấy phép con là việc tăng cường hậu kiểm dựa trên những điều kiện kinh doanh đã được tiêu chuẩn hóa. Đây là định chế quản lý thay thế hình thức thanh kiểm tra trực tiếp bắt nguồn từ cơ chế Nhà nước chịu trách nhiệm một khi đã cấp giấy phép cho doanh nghiệp trước đây. Định chế mới này được xây dựng trên Đỗ Triệu Phong - Lớp A2-CN9 13 Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại thương nguyên tắc nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của nhà kinh doanh trước Nhà nước, khách hàng, đối tác và người tiêu dùng, nghĩa là doanh nghiệp phải tự lớn lên, cam kết và thực hiện đúng những gì đã cam kết. Luật quy định các doanh nghiệp phải có nghĩa vụ kê khai, định kỳ báo cáo chính xác, đầy đủ các thông tin về doanh nghiệp và tình hình tài chính của doanh nghiệp với cơ quan đăng ký kinh doanh (điều 8, khoản 5) cũng như báo cáo về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp khi có yêu cầu của cơ quan đăng ký kinh doanh (điều 116, khoản 3). Luật quy định bắt buộc các doanh nghiệp phải nộp báo cáo tài chính hàng năm của mình cho cơ quan thuế và cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn 30 ngày đối với doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh và 90 ngày đối với công ty TNHH và công ty cổ phần kể từ ngày kết thúc năm tài chính.1 Tuy nhiên, trong Luật doanh nghiệp không quy định và cho đến nay cũng vẫn chưa có một văn bản pháp quy dưới luật nào quy định về chế tài xử lý các vi phạm chế độ báo cáo của doanh nghiệp trừ một quy định là doanh nghiệp bị xử lý thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sau 2 năm liên tiếp không báo cáo về hoạt động kinh doanh của mình với cơ quan đăng ký kinh doanh2. Những quy định này của Luật dễ tạo một kẽ hở trong quản lý các doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh, tạo điều kiện cho một số người lợi dụng để lừa đảo, làm xuất hiện những "công ty ma", gây bất bình trong xã hội. Hơn nữa, các chế độ báo cáo, nhất là biểu mẫu, nội dung báo cáo theo quy định của Quyết định 167/2000/QĐ-BTC còn thiên về yêu cầu quản lý Nhà nước đối với các DNNN và mang tính quy định đồng loạt, chưa phân biệt giữa các nhóm, loại doanh nghiệp, nên dễ gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ. Các mẫu biểu này cũng không tính đến yếu tố là cơ quan thu nhận nó sẽ là cơ quan đăng ký kinh doanh và không có một quy định nào của Luật về trách nhiệm của cơ quan đăng ký kinh doanh phải bảo mật các thông tin trong báo cáo này, nghĩa là không thể loại trừ khả năng những thông tin trong báo cáo có liên quan đến bí mật kinh doanh của doanh nghiệp có thể bị tiết lộ. Ngoài ra, cơ quan đăng ký kinh doanh có thể sẽ không đủ nhân lực và cũng không cần thiết phải xử lý, 1 Điều 118, khoản 3 2 Điều 121, khoản 3, mục c Đỗ Triệu Phong - Lớp A2-CN9 14 Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại thương tổng hợp những thông tin chi tiết này; đó là chưa kể các doanh nghiệp cũng rất dễ e ngại và không báo cáo đủ các thông tin như theo yêu cầu. Báo cáo tài chính doanh nghiệp là một chế định mới của Luật Doanh nghiệp so với hai luật trước đây, tuy nhiên về nội dung này còn một số điểm bất cập: Thứ nhất, chưa có sự thống nhất trong việc xác định trách nhiệm báo cáo của doanh nghiệp, ví dụ: Khoản 5 - Điều 8 - Luật Doanh nghiệp quy định nghĩa vụ của doanh nghiệp: "Kê khai và định kỳ báo cáo chính xác, đầy đủ các thông tin về doanh nghiệp và tình hình tài chính của doanh nghiệp với cơ quan đăng ký kinh doanh; khi phát hiện các thông tin đã kê khai hoặc báo cáo là không chính xác, không đầy đủ hoặc giả mạo, thì phải kịp thời hiệu đính lại các thông tin đó với cơ quan đăng ký kinh doanh". Điều này không đảm bảo mối quan hệ quản lý và xử lý vi phạm giữa cơ quan thuế và cơ quan đăng ký kinh doanh; không thống nhất với quy định tại Khoản 3 - Điều 118 - Luật Doanh nghiệp: "... báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp phải được gửi đến cơ quan thuế và cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền...". Thứ hai, Quyết định số 167/2000/QĐ-BTC đòi hỏi nhiều biểu mẫu hơn quy định của của Luật Doanh nghiệp. Chẳng hạn tại Khoản 2 - Điều 118 - Luật Doanh nghiệp quy định "Báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp bao gồm bản cân đối kế toán và bản quyết toán tài chính", trong khi đó Quyết định số 167/2000/QĐ-BTC hướng dẫn báo cáo tài chính lại gồm tới 4 biểu mẫu: - Bảng cân đối kế toán; - Kết quả hoạt động kinh doanh; - Lưu chuyển tiền tệ; - Thuyết minh báo cáo tài chính. Vì vậy, cơ quan đăng ký kinh doanh thiếu căn cứ để trả lời doanh nghiệp, những thắc mắc và đề nghị chỉ nộp hai bản báo cáo theo quy định của Luật. Tính theo thời hiệu của Luật Doanh nghiệp quy định; thời điểm để áp dụng các biện pháp xử lý những doanh nghiệp vi phạm chế độ báo cáo tài chính đã đến (theo Điểm c, Khoản 3, Điều 121; doanh nghiệp bị thu Đỗ Triệu Phong - Lớp A2-CN9 15 Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại thương hồi giấy CNĐKKD trong trường hợp không báo cáo về hoạt động kinh doanh với cơ quan đăng ký kinh doanh trong hai năm liên tiếp, hoặc không gửi báo cáo theo quy định tại Khoản 3 Điều 116 của Luật này đến cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày có yêu cầu bằng văn bản). Trong Luật doanh nghiệp chưa quy định cụ thể về cơ chế hậu kiểm của các cơ quan quản lý Nhà nước khác (cơ quan quản lý kinh tế - kỹ thuật chuyên ngành), khiến hầu hết các cơ quan quản lý Nhà nước chưa xác định được cơ chế hậu kiểm thích hợp và vì vậy, việc quản lý doanh nghiệp sau đăng ký dễ trở nên lúng túng, bị động, kém hiệu quả. Tại một số Bộ, Ngành vẫn còn quan niệm rằng phương thức quản lý Nhà nước sau đăng ký kinh doanh tốt nhất chỉ có thể thông qua các giấy phép, giấy chứng nhận,... Do trong Luật chưa có các quy định phòng ngừa sự "biến tướng" của các giấy phép và điều kiện kinh doanh cần bãi bỏ thành những dạng "điều kiện khác" xuất phát từ đặc quyền đặc lợi của cơ quan quản lý Nhà nước, nên làm không khéo thì "hậu kiểm" lại hóa ra "hậu hành" và như vậy mục tiêu của Luật doanh nghiệp có nguy cơ không đạt được. Về thanh tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp đã quy định rất cụ thể rằng: "việc thanh tra về tài chính được thực hiện không quá 1 lần trong 1 năm đối với 1 doanh nghiệp. Thời hạn thanh tra tối đa không quá 30 ngày, trong trường hợp đặc biệt thời hạn thanh tra được gia hạn theo quyết định của cơ quan cấp trên có thẩm quyền nhưng không được quá 30 ngày". Những quy định này góp phần tháo gỡ những vướng mắc, nổi cộm trong quá trình thực hiện Nghị định 61/1998/NĐ-CP của Chính phủ trước đây, nhất là vấn đề vận dụng các quy định về thời hạn thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp. Tuy vậy, trong Luật doanh nghiệp chưa có quy định về thanh tra trong các lĩnh vực khác (như bảo vệ môi trường, y tế, an ninh, bảo vệ người tiêu dùng, quan hệ lao động, bảo hiểm xã hội, ...). Luật doanh nghiệp chưa nêu rõ quyền, cấp và cách thức xử lý các yếu tố liên quan đến toàn bộ các lĩnh vực, quy trình và công đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp làm cơ sở pháp lý thống nhất cho việc thực hiện. Thậm chí, trong Luật doanh nghiệp còn chưa có quy định rõ thế nào là thanh tra và kiểm tra, cơ quan Nhà nước nào có thẩm quyền và giới hạn vào những việc, lĩnh vực nhất thiết Nhà nước phải duy trì quyền thanh tra Đỗ Triệu Phong - Lớp A2-CN9 16
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net