logo

Luận văn tốt nghiệp “Các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhập khẩu phân bón hoá học ở Việt Nam và phương pháp giải quyết”

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từ năm 1986 đến nay, nền kinh tế cả nước nói chung và nông nghiệp nói riêng đã đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng. Trong nông nghiệp thành tựu nổi bật là đã sản xuất đủ lương thực cho đất nước và nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Đóng góp vào những thành tựu này, hoạt động nhập khẩu phân bón đóng vai trò rất quan trọng, góp phần vào mức tăng trưởng chung và giữ vững ổn định...
ĐỒ ÁN THỰC TẬP TỐT NGHIỆP Các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhập khẩu phân bón hoá học ở Việt Nam và phương pháp giải quyết TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Tên đề tài: CÁC TRANH CHẤP PHÁT SINH TỪ HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU PHÂN BÓN HOÁ HỌC Ở VIỆT NAM VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT NGƯỜI VIẾT: NGUYỄN THẾ BẬNG LỚP A1 CN9 NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TIẾN SĨ BÙI NGỌC SƠN HÀ NỘI 2003 MỤC LỤC 1 KLTN, Nguyễn Thế Bậng A1 CN9 mục Trang Lời nói đầu 3 Chương I: Khái quát chung về hợp đồng xuất nhập khẩu hàng 7 hoá và những tranh chấp phát sinh từ loại hợp đồng này I Khái niệm về hợp đồng xuất nhập khẩu 7 1 Khái niệm về hợp đồng xuất nhập khẩu 7 2 Điều kiện để hợp đồng xuất nhập khẩu có hiệu lực 8 3 Quy trình ký kết hợp đồng 12 II Nghĩa vụ cơ bản của người mua và người bán 15 1 Nghĩa vụ giao hàng của người bán 16 2 Nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán tiền hàng của người mua 18 3 Quyền ngừng thực hiện nghĩa vụ của người bán và người mua 19 4 Chế tài và các trường hợp miễn trách nhiệm vật chất 20 III Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng xuất nhập khẩu 21 1 Các điều ước quốc tế 21 2 Tập quán thương mại quốc tế 22 3 Luật quốc gia 24 Chương II: Thực trạng tranh chấp và việc giải quyết tranh 25 chấp phát sinh từ hợp đồng nhập khẩu phân bón hoá học ở Việt Nam I Cơ chế điều hành nhập khẩu phân bón hoá học ở Việt Nam 25 1 Tình hình nhập khẩu phân bón hoá học của Việt Nam trước 1990 25 2 Tình hình NK phân bón hoá học của Việt Nam từ 1990 đến nay 26 II Các loại tranh chấp do người mua vi phạm hợp đồng và cách giải 27 quyết 1 Tranh chấp do người mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền hàng 28 2 Tranh chấp do người mua vi phạm nghĩa vụ nhận hàng 39 III Các loại tranh chấp do người bán vi phạm hợp đồng 44 1 Tranh chấp do người bán giao hàng kém phẩm chất 45 2 Người bán vi phạm nghĩa vụ giao hàng 50 IV Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp 60 1 Nguyên nhân khách quan 60 2 Nguyên nhân chủ quan 62 Chương III: Các biện pháp ngăn ngừa và giải quyết có hiệu quả 64 những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhập khẩu phân bón hoá học I Các tổ chức giải quyết tranh chấp 64 1 Trọng tài thương mại 65 2 Toà án thương mại 67 II Những biện pháp ngăn ngừa và giải quyết hiệu quả tranh chấp trong 69 hoạt động nhập khẩu phân bón hoá học 1 Các biện pháp ngăn ngừa tranh chấp 69 2 Các biện pháp giải quyết hiệu quả các tranh chấp phát sinh 79 Kết luận 88 2 KLTN, Nguyễn Thế Bậng A1 CN9 Tài liệu tham khảo 89 Lời nói đầu Tính cấp thiết của đề tài. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từ năm 1986 đến nay, nền kinh tế cả nước nói chung và nông nghiệp nói riêng đã đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng. Trong nông nghiệp thành tựu nổi bật là đã sản xuất đủ lương thực cho đất nước và nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Đóng góp vào những thành tựu này, hoạt động nhập khẩu phân bón đóng vai trò rất quan trọng, góp phần vào mức tăng trưởng chung và giữ vững ổn định chính trị, kinh tế và xã hội. Nhu cầu về sử dụng phân bón hoá học trong nông nghiệp ở nước ta có xu hướng ngày càng tăng, Theo số liệu của Cục Công nghệ thông tin và Thống kê Tổng cục Hải quan năm 1995, 1998, 2002 số lượng nhập khẩu phân bón toàn quốc tương ứng là: 2.085.737, 3.287.900, 3.823.863 tấn. Hiện tại ngành sản xuất phân bón trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu chăm bón. Theo báo cáo đánh giá hiệu quả công tác điều hành giá cả trong 10 năm về xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân bón (1991-2000) của Ban Vật giá Chính phủ thì Việt Nam phải nhập khẩu 100% phân MOP (muriah of potash), 100% phân DAP, 100% SA và 92% phân đạm urea. Ngoài ra nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất phân bón tổng hợp NPK (urea, kali, DAP) là thành phẩm phải nhập khẩu. Thị trường phân bón hóa học trong nước phần lớn phụ thuộc vào thị trường nước ngoài. Từ khi Nghị định thư thương mại giữa Việt Nam và Liên Xô kết thúc (1990) nước ta phải tự nhập khẩu phân bón từ các nước khác ngoài các nước xã hội chủ nghĩa cũ. Dự kiến những năm tới nhu cầu sử dụng phân hoá học tăng lên trên 4 triệu tấn các loại. Kim ngạch nhập khẩu phân bón cũng ngày càng tăng; kim ngạch nhập khẩu năm 1997 là: 427,32 triệu USD, năm 2002 là 477.295,569 triệu USD (số liệu Cục Công nghệ 3 KLTN, Nguyễn Thế Bậng A1 CN9 Thông tin và Thống kê Hải quan), làm cho quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước ngày càng phát triển. Khi ký kết các hợp đồng nhập khẩu phân bón hoá học do có sự khác nhau về ngôn ngữ, tập quán, luật pháp ... và đặc biệt là sự khác nhau về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên nên dễ dẫn đến tranh chấp. Khi xảy ra tranh chấp các nhà nhập khẩu phân bón cần phải biết những phương pháp nào có thể áp dụng để giải quyết những tranh chấp phát sinh từ loại hợp đồng này. Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp đã xảy ra ở Việt Nam, các doanh nghiệp nhập khẩu phân bón nên chọn phương pháp nào để có hiệu quả cao nhất. Do vậy, việc nghiên cứu các loại tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhập khẩu phân bón hóa học và phương pháp giải quyết tranh chấp là hết sức cần thiết, góp phần quan trọng vào sự tồn tại và phát triển doanh nghiệp đang kinh doanh ngành hàng này. Mục đích của đề tài Đề tài sẽ giúp các nhà kinh doanh phân bón hiểu sâu hơn những tranh chấp có thể phát sinh trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu phân bón hoá học ở Việt nam, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết Cùng với mục đích trên khoá luận còn giúp các nhà nhập khẩu phân bón hóa học nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mình, thông qua việc hạn chế và giải quyết tốt nhất các tranh chấp phát sinh trong hoạt động nhập khẩu phân bón, qua đó góp phần thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước và đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trong hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá nói chung và hợp đồng nhập khẩu phân bón hoá học nói riêng thường xảy ra các tranh chấp phát sinh giữa người mua với người bán, giữa người nhập khẩu với người chuyên chở hàng 4 KLTN, Nguyễn Thế Bậng A1 CN9 hoá, giữa người mua, người nhận hàng với cảng, giữa người nhập khẩu với ngân hàng về thanh toán tiền hàng v.v... Song trong phạm vi của khoá luận này, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những tranh chấp phát sinh giữa người mua và người bán trong hoạt động nhập khẩu phân bón hoá học. Đây là tranh chấp phổ biến phát sinh trong thời gian qua, thực tiễn áp dụng các phương pháp giải quyết tranh chấp này ở Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận áp dụng các phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê Nin. Bên cạnh đó có áp dụng các phương pháp thống kê, phân tích-tổng hợp, phương pháp đối chiếu- so sánh, phương pháp mô tả khái quát hoá đối tượng nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu - Đề tài hệ thống hoá lý luận về tranh chấp và giải quyết tranh chấp trong kinh doanh xuất nhập khẩu, cụ thể là trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu phân bón hoá học giữa các doanh nhiệp Việt Nam với thương nhân nước ngoài. - Đề tài chỉ ra ưu, nhược điểm trong thực tiễn giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhập khẩu phân bón trong thời gian qua ở Việt Nam. Qua đó giúp các nhà nhập khẩu phân bón có được những bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào việc giải quyết tranh chấp nếu gặp phải trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng. - Đề tài đề xuất một số biện pháp nhằm hạn chế, ngăn ngừa các tranh chấp và một số phương pháp giải quyết hiệu quả các tranh chấp giữa người bán và người mua trong trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu phân bón hoá học. Kết cấu của khoá luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận có kết cấu gồm 3 chương: 5 KLTN, Nguyễn Thế Bậng A1 CN9 Chương 1: Khái quát chung về hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá và các tranh chấp thường phát sinh từ loại hợp đồng này Chương 2: Thực trạng các tranh chấp và việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhập khẩu phân bón hoá học ở Việt Nam Chương 3: Các giải pháp ngăn ngừa và giải quyết có hiệu quả những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhập khẩu phân bón hoá học Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu đề tài này, nhưng với năng lực có hạn nên khoá luận không thể tránh khỏi những hạn chế và sai sót nhất định. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp và phê bình để khoá luận hoàn chỉnh hơn. Cuối cùng tôi xin chân thành cám ơn thầy giáo Tiến sĩ Bùi Ngọc Sơn cùng các thầy các cô trường đại học Ngoại thương, cũng xin cám ơn Tổng công ty Vật tư Nông nghiệp và một số doanh nghiệp nhập khẩu phân bón khác đã tận tình cung cấp tài liệu để tôi hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này. 6 KLTN, Nguyễn Thế Bậng A1 CN9 CHƯƠNG I KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ VÀ CÁC TRANH CHẤP PHÁT SINH TỪ LOẠI HỢP ĐỒNG NÀY I - KHÁI NIỆM VỀ HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU 1. Khái niệm về hợp đồng xuất nhập khẩu 1.1. Khái niệm chung Hợp đồng xuất nhập khẩu còn gọi là hợp đồng mua bán quốc tế hoặc hợp đồng mua bán ngoại thương là sự thoả thuận giữa các bên có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau, theo đó một bên gọi là bên xuất khẩu (bên bán) có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu của một bên khác gọi là bên nhập khẩu (bên mua) một tài sản nhất định, gọi là hàng hoá; bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền hàng. 1.2. Khái niệm theo luật Thương mại Việt Nam 1997 Hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá hay còn gọi là hợp đồng mua bán quốc tế, hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp đồng mua bán với thương nhân nước ngoài. Theo quy định tại điều 80 của luật Thương mại Việt Nam năm 1997, hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài là hợp đồng mua bán hàng hoá được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam với một bên là thương nhân nước ngoài. 1.3. Đặc điểm của hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá: So với một số loại hợp đồng khác thì hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá có những đặc điểm quan trọng sau đây: - Chủ thể của hợp đồng xuất nhập khẩu là những bên có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau. 7 KLTN, Nguyễn Thế Bậng A1 CN9 - Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng xuất nhập khẩu là hàng có thể được chuyển qua biên giới của một nước, tức là có thể được chuyển từ nước này sang nước khác. - Tiền tệ dùng để thanh toán giữa hai bên, người mua và người bán, có thể là ngoại tệ đối với một trong hai bên. - Nguồn luật điều chỉnh và cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này cũng có yếu tố nước ngoài. 2. Điều kiện để hợp đồng xuất nhập khẩu có hiệu lực Hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá cũng như các loại hợp đồng khác muốn có điều kiện hiệu lực phải thoả mãn 4 điều kiện sau: Chủ thể của hợp đồng phải có đủ tư cách pháp lý Nội dung của hợp đồng phải hợp pháp Hình thức của hợp đồng phải hợp pháp Hợp đồng phải được ký kết trên nguyên tắc tự nguyện 2.1. Chủ thể của hợp đồng xuất nhập khẩu phải có đủ tư cách pháp lý Chủ thể của hợp đồng xuất nhập khẩu có thể là các cá nhân, pháp nhân có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau. Luật các nước khác nhau quy định khác nhau về địa vị pháp lý của các chủ thể. Vì thế, khi đàm phán ký kết hợp đồng cần tìm hiểu địa vị pháp lý của đối tác, thẩm quyền người ký hợp đồng, người đó nhân danh mình hay đại diện cho người khác. Cá nhân hay còn gọi là tự nhiên nhân (natural person) khi ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu phải có đủ năng lực pháp lý và năng lực hành vi theo quy định của pháp luật. Năng lực pháp luật của cá nhân bắt đầu từ khi sinh ra đến khi họ chết đi. Còn năng lực hành vi của cá nhân chỉ bắt đầu khi công dân đến tuổi trưởng thành theo quy định của pháp luật. Năng lực hành vi của tự nhiên nhân nước ngoài, về nguyên tắc chung, do luật quốc tịch của người đó 8 KLTN, Nguyễn Thế Bậng A1 CN9 quy định. Ví dụ: ở Việt Nam năng lực hành vi của cá nhân từ 18 tuổi, ở Mỹ năng lực hành vi đối với nữ từ 19 tuổi, nam từ 21 tuổi. Pháp nhân (legal person) là một tổ chức được thành lập theo pháp luật và được dùng danh nghĩa này của mình trong quan hệ kinh doanh. Muốn xem xét một tổ chức nước ngoài có đủ tư cách pháp nhân hay không thì trước tiên phải tìm hiểu xem tổ chức đó có quốc tịch nước nào, sau đó dựa vào luật nước đó, sẽ tìm hiểu xem tổ chức đó có đủ tư cách pháp nhân hay không Một pháp nhân theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam (điều 94) phải có đủ bốn điều kiện sau: (1). Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, đăng ký hoặc công nhận; (2). Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; (3). Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; (4). Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Ở Việt Nam hiện nay thẩm quyền ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu đối với các thương nhân đã được mở rộng, nghị định 33/CP ngày 19 tháng 4 năm 1994 không còn phù hợp. Theo tinh thần của nghị định này các doanh nghiệp chưa có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu không phải là chủ thể của hợp đồng xuất nhập khẩu. Mọi hợp đồng xuất nhập khẩu do các doanh nghiệp này ký đều không có hiệu lực pháp luật, vì theo pháp luật Việt Nam chủ thể không có năng lực hành vi ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu. Nghị định 57/1998/NĐ- CP ngày 31 tháng 7 năm 1998 được ban hành, điều 8 khoản 1 quy định “Thương nhân là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật được phép xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề đã đăng ký trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”. Như vậy, theo tinh thần của Nghị định này các doanh nghiệp không cần có giấp phép kinh doanh xuất nhập khẩu, cũng có thẩm quyền ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá. 9 KLTN, Nguyễn Thế Bậng A1 CN9 2.2. Hình thức của hợp đồng xuất nhập khẩu phải hợp pháp Luật các nước cũng quy định khác nhau về vấn đề này. Theo luật Mỹ - Anh thì bắt buộc hợp đồng phải bằng văn bản khi giá trị hợp đồng trên 10 bảng Anh (luật Anh); hoặc 500 Đôla theo Bộ luật thương mại thống nhất Mỹ. Nhìn chung, theo tập quán thương mại quốc tế hầu hết các hợp đồng được lập dưới dạng văn bản. Tuy nhiên, Công ước Viên 1980 lại quy định: “hợp đồng mua bán không cần phải được ký kết hoặc xác nhận bằng văn bản hay tuân thủ một yêu cầu nào khác về hình thức của hợp đồng. Hợp đồng có thể chứng minh bằng mọi cách, kể cả bằng những lời khai của nhân chứng” (điều 11 Công ước Viên). Đây là điều khoản Công ước Viên cho phép bảo lưu. Vì vậy, nhiều nước khi tham gia Công ước này đã tuyên bố không áp dụng điều 11. Luật Thương mại Việt Nam năm 1997, điều 81 khoản 4 quy định: “Hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài phải được lập thành văn bản”. Ngoài ra, luật Việt Nam còn quy định cụ thể thêm rằng mọi sửa đổi, bổ sung hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá cũng phải được làm bằng văn bản. Điều 49 khoản 3 luật Thương mại Việt Nam quy định: “Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó; điện báo, telex, fax, thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác cũng được coi là hình thức văn bản”. Do điều ước quốc tế cũng như luật pháp các nước quy định khác nhau về hình thức của hợp đồng nên trong khi đàm phán ký kết hợp đồng các bên cần ký kết hợp đồng bằng văn bản để tránh tranh chấp phát sinh sau này. 2.3. Nội dung của hợp đồng xuất nhập khẩu phải hợp pháp Nội dung của hợp đồng chính là những điều khoản mà các bên đã thoả thuận với nhau. Các điều khoản này là “luật” cao nhất đối với các bên và có thể chia làm 3 loại điều khoản: Điều khoản chủ yếu; điều khoản thông thường và điều khoản tuỳ nghi. Điều khoản chủ yếu là những điều khoản bắt buộc phải có trong hợp đồng, nếu thiếu một trong các điều khoản này thì hợp đồng 10 KLTN, Nguyễn Thế Bậng A1 CN9 không có giá trị pháp lý. Luật pháp các nước cũng quy định khác nhau về vấn đề này. - Theo luật Anh-Mỹ điều khoản chủ yếu của hợp đồng xuất nhập khẩu là đối tượng của hợp đồng còn các điều khoản khác có thể quy định sau. - Theo luật Pháp, Đức, Nhật thì điều khoản chủ yếu của hợp đồng xuất nhập khẩu gồm hai điều khoản là đối tượng và giá cả. - Luật các nước Đông Âu quy định điều khoản chủ yếu của hợp đồng gồm đối tượng, giá cả và thời gian giao hàng. - Theo Luật Thương mại Việt Nam 1997, điều 50 quy định điều khoản chủ yếu của hợp đồng bao gồm: a) Tên hàng b) Số lượng c) Quy cách chất lượng d) Giá cả e) Phương thức thanh toán f) Địa điểm và thời gian giao hàng Như vậy, theo luật Việt Nam hợp đồng do các tổ chức, cá nhân Việt Nam có thẩm quyền ký kết với thể nhân, pháp nhân nước ngoài, phải có 6 điều khoản chủ yếu trên thì mới coi là phù hợp về mặt nội dung. - Theo Công ước Viên 1980 quy định nội dung chủ yếu của hợp đồng gồm: Tên hàng, số lượng và giá cả; giá cả có thể quy định một cách gián tiếp hoặc trực tiếp. Có thể thấy luật các quốc gia cũng như Công ước Viên 1980 quy định về nội dung chủ yếu của một hợp đồng xuất nhập khẩu không giống nhau, nếu thiếu một trong những điều khoản này thì hợp đồng coi như chưa được giao kết, vì vậy chưa làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan. 2.4. Hợp đồng phải được ký kết trên nguyên tắc tự nguyện 11 KLTN, Nguyễn Thế Bậng A1 CN9 Hợp đồng phải ký đúng nguyên tắc của pháp luật. Cũng giống như các loại hợp đồng khác, hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá được giao kết trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng tôn trọng lợi ích của nhau và không trái pháp luật. Luật Thương mại Việt Nam (điều 81 khoản 2) còn đề cập hàng hoá phải được phép mua bán theo quy định của pháp luật bên mua và bên bán. Bản chất của hợp đồng là sự thoả thuận, do đó về nguyên tắc khi nào các bên thống nhất với nhau về nội dung của hợp đồng thì khi đó hợp đồng được hình thành. Nhưng phụ thuộc vào cách thức bày tỏ ý chí của các bên mà pháp luật quy định hợp đồng được coi là hình thành ở những thời điểm khác nhau. 3. Quy trình ký kết hợp đồng 3.1. Nghiên cứu tìm hiểu khách hàng Khi ký kết hợp đồng với các thương nhân nước ngoài trước hết phải xem xét thẩm quyền của người ký hợp đồng. Người có thẩm quyền ký kết là các cá nhân có tên trong đăng ký kinh doanh (ở Việt Nam) hoặc có tên trong sổ đăng ký thương nhân, trong sổ đăng ký thương mại (ở các nước phương Tây) hoặc những người được các chủ doanh nghiệp, các cá nhân đăng ký kinh doanh uỷ quyền. Những trường hợp ký hợp đồng không đúng thẩm quyền, về mặt pháp lý, sẽ không có giá trị. Do đó, khi ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá, cần kiểm tra xem đối phương ký kết hợp đồng với mình là người như thế nào. Lựa chọn đối tác khi giao kết hợp đồng cũng cần nghiên cứu những vấn đề sau: uy tín, khả năng tài chính của họ trong kinh doanh. Có thể tìm hiểu qua các bản tin thị trường về phân bón, như: Bản tin thị trường phân bón châu Á (Asia Fertilizer Week), bản tin Fetercon, FMB, The Market ... hoặc tìm hiểu thông tin trên thông qua các cơ quan Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài. Phương pháp thứ hai là có thể gặp trực tiếp thương nhân nước ngoài. Phương pháp này tuy tốn kém nhưng mang lại hiệu quả cao. Để tránh tranh chấp phát 12 KLTN, Nguyễn Thế Bậng A1 CN9 sinh sau này, nghiên cứu và tìm hiểu khách hàng là vấn đề hết sức quan trọng trước khi ký hợp đồng. Trong những năm vừa qua một số doanh nghiệp Việt Nam do tìm hiểu đối tác không kỹ đã ký hợp đồng với công ty “ma” ở nước ngoài. Đây là các thương nhân có ý đồ lừa đảo chiếm đoạt tiền hoặc hàng của các doanh nghiệp Việt Nam mà không thực hiện nghĩa vụ của mình, lúc đó các doanh nghiệp Việt Nam không thể khiếu nại hoặc đi kiện họ được. 3.2. Cách thức đàm phán, giao dịch và ký kết hợp đồng Thông thường có hai hình thức ký kết hợp đồng đó là: Ký kết gián tiếp và ký kết trực tiếp. Ký kết trực tiếp là các bên trực tiếp gặp gỡ nhau để bàn bạc và đi đến thống nhất nội dung của hợp đồng. Hình thức ký kết này tuy tốn thời gian và tiền bạc nhưng hiệu quả cao, các bên gặp gỡ trực tiếp nên có điều kiện để bày tỏ đầy đủ ý chí của mình và hợp đồng được coi là hình thành khi các bên có mặt đã ký trên cùng một văn bản hợp đồng. Lúc này, ngày và nơi ký kết hợp đồng được xác định theo ngày và nơi các bên cùng ký vào hợp đồng đó. Ký kết gián tiếp là các bên ở xa nhau, không có điều kiện trực tiếp đàm phán, hợp đồng được ký bằng cách các bên gửi cho nhau công văn, tài liệu chứa đựng nội dung cần giao dịch đề nghị ký kết hợp đồng (chào hàng) và chấp nhận ký kết hợp đồng (chấp nhận chào hàng). Để ký hợp đồng theo phương thức này trước hết phải xác định khi nào đơn chào hàng cũng như chấp nhận chào hàng có hiệu lực pháp luật và hợp đồng khi nào được coi là ký kết. 3.3. Chào hàng và chấp nhận chào hàng 3.3.1. Chào hàng Chào hàng theo luật Việt Nam (điều 51 luật Thương mại Việt Nam), có thể là chào bán hoặc chào mua được chuyển cho một hay nhiều người đã xác định và phải có các nội dung xác thực, nghĩa là phải có các nội dung tối thiểu bao gồm các điều khoản chủ yếu của một hợp đồng xuất nhập khẩu. 13 KLTN, Nguyễn Thế Bậng A1 CN9 Chào hàng phải được gửi tới người được chào hàng và người chào hàng không huỷ đơn chào hàng. Người chào hàng chỉ có thể huỷ được chào hàng khi thông báo huỷ đến trước hoặc đến cùng chào hàng. Đơn chào hàng gồm hai loại là chào hàng cố định và chào hàng tự do. Chào hàng tự do là lời đề nghị không chắc chắn về việc ký kết hợp đồng, chào hàng này không có đầy đủ điều khoản chủ yếu của một hợp đồng và không có thời hạn hiệu lực của đơn chào hàng, vì vậy, nó không ràng buộc trách nhiệm của người chào hàng. Vì thế, việc chấp nhận chào hàng của người được chào hàng cũng không làm cho hợp đồng được ký kết. Còn chào hàng cố định là một lời đề nghị chắc chắn về việc ký kết hợp đồng, nó ràng buộc trách nhiệm của người chào hàng đối với cam kết của mình trong thời hạn hiệu lực của chào hàng. Người đựơc chào hàng chấp nhận vô điều kiện trong thời hạn hiệu lực của chào hàng thì coi như hợp đồng được ký kết. Tóm lại một chào hàng cố định ràng buộc người chào hàng phải có đủ 3 điều kiện; Thể hiện ý muốn ký kết hợp đồng của người chào hàng, có đủ các điều khoản chủ yếu của một hợp đồng, và chuyển đi cho bên được chào hàng trong thời hạn hiệu lực của chào hàng. Phần hai Công ước Viên đề cập về chào hàng và chấp nhận chào hàng tại điều 16 mục a “chào hàng không thể bị huỷ bỏ nếu nó chỉ rõ một thời hạn xác định để chấp nhận hay bằng cách khác rằng nó không bị thu hồi”. Tuy nhiên dù là loại chào hàng cố định đều có thể bị huỷ bỏ, nếu thông báo về việc bị huỷ bỏ đến người được chào hàng trước hoặc cùng lúc với chào hàng hoặc trước khi người được chào hàng chấp nhận. Công ước Viên cũng cho phép sửa đổi bổ sung, nhưng không làm thay đổi nội dung cơ bản của đơn chào hàng. Nếu sửa đổi, bổ sung làm khác thì được coi là từ chối chào hàng và cấu thành một hoàn giá. 3.3.2. Chấp nhận chào hàng 14 KLTN, Nguyễn Thế Bậng A1 CN9 Chấp nhận chào hàng là sự thể hiện ý muốn ký kết hợp đồng của người được chào hàng đối với người chào hàng. Hợp đồng được ký kết khi người được chào hàng chấp nhận vô điều kiện nội dung đơn chào hàng trong thời hạn hiệu lực của đơn chào hàng. Nếu người được chào hàng sửa đổi, bổ sung nội dung chủ yếu của đơn chào hàng thì chấp chào hàng đó sẽ trở thành một chào hàng mới từ phía người được chào hàng ban đầu. Cũng giống như chào hàng chấp nhận chào hàng phải được truyền đạt đến tay người chào hàng và người chấp nhận không huỷ chấp nhận. 3.3.3. Thời điểm hiệu lực của hợp đồng Khi ký kết hợp đồng mua bán quốc tế theo phương thức gián tiếp thì việc xác định thời điểm ký hợp đồng rất quan trọng. Trong thực tiễn thương mại quốc tế hiện có hai thuyết để giải quyết vấn đề này là thuyết tống phát và thuyết tiếp thu. Thuyết Tống phát xác định thời điểm ký kết hợp đồng là thời điểm người được chào hàng gửi đi lời chấp nhận chào hàng. Thuyết tiếp thu xác định thời điểm ký kết hợp đồng là thời điểm người chào hàng nhận được thư chấp nhận chào hàng từ người được chào hàng. Theo luật Việt Nam, điều 403 khoản 1 Bộ luật Dân sự, điều 55 luật Thương mại Việt Nam quy định theo thuyết tiếp thu, hợp đồng mua bán hàng hoá được giao kết vào thời điểm bên chào hàng nhận được trả lời chấp nhận chào hàng trong thời hạn trách nhiệm của bên chào hàng, nếu các bên không có thoả thuận khác. Điều 23 Công ước Viên “Hợp đồng được coi là ký kết kể từ lúc sự chấp nhận chào hàng có hiệu lực...” Như vậy về thời điểm ký kết hợp đồng Công ước Viên cũng theo thuyết tiếp thu. Luật pháp các nước và các điều ước quốc tế có quy định khác nhau nên các bên khi tham gia ký kết hợp đồng rất dễ gặp phải tranh chấp. Vì thế, khi các doanh nghiệp Việt Nam ký kết hợp đồng với thương nhân nước ngoài cần 15 KLTN, Nguyễn Thế Bậng A1 CN9 lưu ý: với thương nhân Anh, Mỹ, Nhật ... thường theo thuyết tống phát; với thương nhân Pháp, Đức, Áo ... thường áp dụng thuyết tiếp thu. II - NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI MUA VÀ NGƯỜI BÁN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ Trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá cũng như hoạt động thương mại khác, người bán có nghĩa vụ giao cho người mua đúng loại hàng, số lượng, chất lượng, quy cách, bao bì, đúng thời hạn và địa điểm theo thoả thuận trong hợp đồng cùng các chứng từ liên quan đến hàng hoá. Người bán có thể trực tiếp giao hàng cho người mua tại địa điểm giao hàng, người bán uỷ quyền cho người thứ ba; người bán uỷ quyền cho người chuyên chở theo các điều kiện đã thoả thuận. Người mua có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán tiền hàng. 1. Nghĩa vụ giao hàng của người bán 1.1. Giao đúng loại hàng Người bán không được giao các loại hàng khác hoặc thực hiện các nghĩa vụ khác thay thế loại hàng đã thoả thuận, nếu bên mua không chấp thuận. Nếu hàng hoá giao không đúng chủng loại, không phù hợp với hợp đồng bên mua có một trong các quyền sau đây: a) Không nhận hàng, huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại; b) Nhận hàng và thanh toán theo giá do các bên thoả thuận; c) Không nhận hàng, yêu cầu giao đúng chủng loại và đòi bồi thường thiệt hại. 1.2. Giao đúng số lượng Tuỳ từng đặc điểm hàng hoá, các bên thoả thuận cụ thể số lượng, đơn vị đo lường, cách thức đo lường như trọng lượng tịnh, trọng lượng cả bì, mức độ dung sai, mức độ hao hụt tự nhiên. Nếu người bán giao hàng thừa so với thoả thuận, người mua có quyền từ chối không nhận phần dôi ra, trong trường 16 KLTN, Nguyễn Thế Bậng A1 CN9 hợp này người mua phải nhận lại số hàng thừa và chịu mọi chi phí liên quan; hoặc người mua có quyền nhận lại số hàng thừa và thanh toán phần dôi ra đó theo giá thoả thuận. Nếu người bán giao thiếu hàng so với thoả thuận, người mua có quyền: a) Từ chối không nhận hàng, yêu cầu người bán thực hiện đúng hợp đồng và đền bù thiệt hại; b) Từ chối không nhận hàng, huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại; c) Nhận phần đã giao và thanh toán tương ứng với phần đã nhận; d) Nhận phần đã giao và định thời hạn hợp lý để bên bán giao tiếp phần còn thiếu. 1.3. Giao hàng đúng thời hạn Thời hạn giao hàng cũng thuộc những nội dung chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hoá, mà nếu thiếu thoả thuận về nó hợp đồng sẽ coi là như chưa giao kết. Tuỳ từng loại hàng, các bên có thể thoả thuận hàng được giao toàn bộ hoặc từng phần theo một lịch trình nhất định. Người bán chỉ được giao trước thời hạn hoặc giao từng phần nếu người mua chấp thuận. Nếu người bán giao hàng sau thời hạn thoả thuận, tuỳ vào từng loại hàng khác nhau mà hậu quả pháp lý cũng khác nhau. Nếu hàng hoá được dùng cho một thời điểm nhất định, mà sau thời điểm đó hàng trở nên không cần thiết nữa, bên mua có quyền từ chối nhận hàng giao chậm và yêu cầu bồi thường thịêt hại. Trong những trường hợp khác, bên mua thường gia hạn thêm một thời gian hợp lý để bên bán có thể thực hiện nghĩa vụ giao hàng và yêu cầu bên bán đền bù thiệt hại hoặc phạt hợp đồng theo những quy định liên quan đến trách nhiệm vật chất khi vi phạm hợp đồng. 1.4. Giao hàng đúng chất lượng 17 KLTN, Nguyễn Thế Bậng A1 CN9 Người bán có nghĩa vụ giao hàng cho người mua đúng chất lượng đã thoả thuận. Điều khoản chất lượng là một nội dung chủ yếu cần được các bên thoả thuận trong hợp đồng mua bán hàng hoá. Có nhiều cách để xác định chất lượng hàng hoá, ví dụ dựa vào một tiêu chuẩn chất lượng nhất định; dựa vào mô tả tỷ mỷ các lý, hoá tính, đặc trưng, công dụng của hàng hoá; dựa vào mẫu hàng; dựa vào thông số kỹ thuật của hàng hoá. Nếu các bên không thoả thuận cụ thể về chất lượng hàng hoá rất dễ dẫn đến tranh chấp. 1.5. Giao hàng đúng quy cách bao bì Tuy không phải là chất lượng, song quy cách, bao bì ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và khả năng tiêu thụ của hàng hoá. Nếu không được quy định cụ thể thì người bán phải giao hàng với bao bì thường dùng cho loại hàng này, bảo đảm an toàn, có tính đến khả năng chuyển tải trong điều kiện bốc dỡ vận chuyển mà hai bên đã thoả thuận. 2. Nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán tiền hàng của người mua Nếu việc giao hàng là nghĩa vụ cơ bản của người bán, thì nhận hàng và thanh toán tiền mua hàng là nghĩa vụ cơ bản tương ứng của người mua. Nhận hàng được hiểu là hành vi thực tế của người mua, tiếp nhận quyền chiếm hữu hàng hoá từ người bán hoặc người vận chuyển. Hành vi nhận hàng không đồng nghĩa với hành vi chấp nhận hàng. Sau khi nhận hàng và kiểm tra hàng hoá trong một thời gian hợp lý, người mua vẫn có quyền thông báo về việc hàng không phù hợp với hợp đồng và không chấp nhận hàng. Nhận hàng là một nghĩa vụ của người mua, việc vi phạm nghĩa vụ đó sẽ kéo theo những hậu quả pháp lý. Nếu người bán đã sẵn sàng giao hàng mà người mua chậm nhận hoặc không nhận hàng, thì người bán phải có các biện pháp cần thiết để bảo quản hàng hoá và yêu cầu bên mua thanh toán những chi phí hợp lý. Nếu hàng có nguy cơ hư hỏng ( thực phẩm, hoa quả), người bán có quyền bán hàng hoá đó để ngăn chặn thiệt hại. 18 KLTN, Nguyễn Thế Bậng A1 CN9 Người mua phải thanh toán tiền mua hàng theo thoả thuận trong hợp đồng. Trong hợp đồng mua bán hàng hoá các bên thường thoả thuận điều khoản giá cả (giá cố định, giá có thể điều chỉnh được, các nguyên tắc tính giá trượt), đồng tiền thanh toán, thời hạn thanh toán, nơi thanh toán, phương thức thanh toán, lãi suất phải trả khi thanh toán chậm, giảm giá nếu thanh toán trước thời hạn ... Nếu người mua thanh toán chậm, thì người bán có quyền đòi tiền lãi trên số trả chậm theo lãi suất tại thời điểm, nếu các bên không có thoả thuận khác. 3. Quyền ngừng thực hiện nghĩa vụ của người bán, người mua Nếu có bằng chứng về việc một bên có hành vi lừa dối hoặc không có khả năng thực tế để thực hiện nghiã vụ, thì bên kia có quyền đình chỉ thực hiện các nghiã vụ tương ứng của mình (điều 412 Bộ luật Dân sự về quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng song vụ). Người bán có quyền ngừng giao hàng hoặc giữ lại hàng nếu: người mua vi phạm điều khoản thanh toán đã thoả thuận; người mua mất khả năng thanh toán hoặc bị tuyên bố phá sản trước thời hạn giao hàng, điều 67 khoản b luật Thương mại quy định: “Nếu trước thời điểm giao hàng người mua hàng bị tuyên bố phá sản hoặc mất khả năng thanh toán thì người bán có quyền không giao hàng và được định đoạt số hàng này”. Người mua có quyền ngừng thanh toán hoặc giữ lại tiền hàng nếu hàng bị hư hỏng, có khuyết tật khi nhận; có bằng chứng về người bán có hành vi lừa dối, không có khả năng giao hàng hoặc giao thiếu phần hàng đó thì không thể sử dụng được. 4. Chế tài và các trường hợp miễn trách nhiệm vật chất Người bán phải chịu trách nhiệm về việc hàng không phù hợp với hợp đồng, trừ trường hợp chứng minh được là mình không có lỗi (điều 68 luật Thương mại). Lỗi trong quan hệ thương mại là lỗi suy đoán. Bên vi phạm 19 KLTN, Nguyễn Thế Bậng A1 CN9
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net