Luận văn tốt nghiệp "Biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy bia Đông Nam Á"
Các doanh nghiệp thuộc các thành phần khác nhau tham gai vào nền kinh tế ngày càng nhiều và phức tạp. Điều đó đã tạo điều kiện cho người tiêu dùng có nhiều cơ hội để lựa chọn các sản phẩm khác nhau theo nhu cầu riêng. Do vậy, để có thể tiêu thụ được sản phẩm của mình các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau về nhiều phương diện. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, chất lượng sản phẩm được coi là phương tiện cạnh tranh hiệu quả nhất để giành thắng lới. Có thể nói, từ...
LỜI NÓI ĐẦU
Từ sau Đại hội VI, nền kinh tế Việt Nam bước sang một giai đoạn
mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước.
Các doanh nghiệp thuộc các thành phần khác nhau tham gai vào nền
kinh tế ngày càng nhiều và phức tạp. Điều đó đã tạo điều kiện cho người
tiêu dùng có nhiều cơ hội để lựa chọn các sản phẩm khác nhau theo nhu
cầu riêng. Do vậy, để có thể tiêu thụ được sản phẩm của mình các doanh
nghiệp phải cạnh tranh với nhau về nhiều phương diện. Đặc biệt trong
điều kiện hiện nay, chất lượng sản phẩm được coi là phương tiện cạnh
tranh hiệu quả nhất để giành thắng lới. Có thể nói, từ khi có chính sách mở
cửa nền kinh tế thì sản xuất kinh doanh đã thực sự trở thành "trận chiến
nóng bỏng" với sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp.
Thêm vào đó, đời sống xã hội ngày càng được nâng cao, nhu cầu của
con người đối với các sản phẩm, hàng hoá không chỉ dừng lại ở số lượng
mà cả chất lượng sản phẩm cũng ngày càng được người tiêu dùng quan
tâm nhiều. Để đạt được các mục tiêu của mình, các doanh nghiệp phải tiêu
thụ được sản phẩm của mình. Tuy nhiên, việc tiêu thụ sản phẩm phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, đáng kể nhất vẫn là chất lượng sản phẩm, hàng
hoá dịch vụ. Do vậy, các doanh nghiệp cần phải tìm ra cho mình những
giải pháp tối ưu để có được sản phẩm có chất lượng cao, thoả mãn một
cách tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng - đó chính là con đường duy nhất
để doanh nghiệp tồn tại và phát triển lâu dài.
Nhà máy bia Đông Nam Á, tiền thân là Hợp tác xã Ba Nhất, trải qua
hơn 30 năm phát triển Nhà máy đã từng bước vươn lên thành một doanh
nghiệp có uy tín trên thị trường. Nhà máy luôn luôn đặt mục tiêu chất
lượng sản phẩm lên hàng đầu. Vì hơn bao giờ hết Nhà máy biết rằng
không chỉ có các doanh nghiệp Việt Nam, mà còn có cả các hãng nước
ngoài cùng tham gia vào việc cung ứng loại nước giải khát này trên thị
trường. Chính vì vậy mà Công ty luôn đầu tư vào việc cải tiến đổi mới
công nghệ, trang thiết bị, đào tạo nhân tố con người ... nhằm nâng cao chất
lượng của mình. Trong quá trình thực tập tại Nhà máy bia Đông Nam Á em
đã chọn đề tài:
1
"Biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy bia Đông
Nam Á"
Nhằm góp phần vào việc tìm ra những quan điểm hướng đi và biện
pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm của Nhà máy.
Đề tài được xây dựng và triển khai theo các phần sau:
Phần I : Cơ sở lý luận về chất lượng sản phẩm.
Phần II : Phân tích thực trạng chất lượng sản phẩm của Nhà máy bia
Đông Nam Á.
Phần III: Biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm của Nhà máy bia
Đông Nam Á.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo
PGS.TS Hoàng Đức Thân, cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ
làm việc tại Nhà máy bia Đông Nam Á đã giúp đỡ em trong quá trình hoàn
thành chuyên đề này.
PHẦN I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM
2
I-CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CHẤT
LƯỢNG SẢN PHẨM.
1. Khái niệm về chất lượng sản phẩm.
Trong cuộc sống hàng ngày, thuật ngữ chất lượng thường xuyên
được nhắc tới, nhưng không phải ai cũng có thể hiểu được thấu đáo và sử
dụng đúng các thuật ngữ này.
Có rất nhiều các quan điểm khác nhau được các nhà nghiên cứu đưa
ra trên cơ sở nghiên cứu ở các góc độ khác nhau.
Theo Philip.B.Groby cho rằng: "Chất lượng là sự phù hợp với những
yêu cầu hay đặc tính nhất định".
J.Jujan lại cho rằng: : "Chất lượng là sự phù hợp với các mục đích và
việc sử dụng".
Các khái niệm trên được nhìn nhận một cách linh hoạt và gắn liền
nhu cầu, mục đích sử dụng của người tiêu dùng.
Theo từ điển Tiếng Việt phổ thông: " Chất lượng là tổng thể những
tính chất, những thuộc tính cơ bản của sự vật.. làm cho sự vật này phân
biệt với sự vật khác".
Theo tiêu chuẩn số 8402-86 (Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ISO) và tiêu
chuẩn số TCVN 5814-94 (Tiêu chuẩn Việt nam): "Chất lượng là tập hợp
các đặc tính của 1 thực thể, đối tượng; tạo cho chúng khả năng thoả mãn
những nhu cầu đã nêu ra hoặc tiềm ẩn":
Các khái niệm đưa ra trên đây cho dù được tiếp cận dưới góc độ nào
đều phải đảm bảo được 2 đặc trưng chủ yếu.
-Chất lượng luôn luôn gắn liền với thực thể vật chất nhất định,
không có chất lượng tách biệt khỏi thực thể. Thực thể được hiểu theo
nghĩa rộng, không chỉ là sản phẩm mà còn bao hàm cả các hoạt động, quá
trình, doanh nghiệp hay con người.
-Chất lượng được đo bằng sự thoả mãn nhu cầu. Nhu cầu bao gồm
cả những nhu cầu đã nêu ra và những nhu cầu tiềm ẩn được phát hiện
trong quá trình sử dụng.
Trong những năm trước đây, quan điểm của các quốc gia thuộc hệ
thống XNCN cho rằng chất lượng sản phẩm đồng nhất với giá trị sử dụng
của sản phẩm. Họ cho rằng, :"Chất lượng sản phẩm là tổng hợp các đặc
3
tính kỹ thuật, kinh tế của sản phẩm phản ánh giá trị sử dụng và chức năng
của sản phẩm đó". Quan điểm này được xem xét dưới góc độ của nhà sản
xuất. Theo đó, chất lượng sản phẩm được xem xét biệt lập, tách rời với
nhu cầu, sự biến động của thị trường, hiệu quả kinh tế và các điều kiện
của một doanh nghiệp. Tuy nhiên, quan điểm này lại phù hợp với hoàn
cảnh lúc bấy giờ. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung mọi vấn đề
đều được thực hiện theo chỉ tiêu kế hoạch, sản phẩm sản xuất ra không đủ
đáp ứng nhu cầu thị trường. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng ít chú ý tới
vấn đề chất lượng sản phẩm, mà nếu có cũng chỉ trên giấy tờ, khẩu hiệu
mà thôi.
Nhưng năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường, các doanh nghiệp phải tự hạch toán kinh doanh, cũng như chịu mọi
trách nhiệm về sự phát triển của công ty mình. Cùng tồn tại trong một môi
trường, điều kiện, các doanh nghiệp vừa bình đẳng vừa cạnh tranh với
nhau để vươn lên tồn tại, phát triển, suy cho cùng vấn đề tiêu thụ sản
phẩm là yếu tố quyết định đến sự tồn tại cảu doanh nghiệp trong cơ chế
thị trường. Chính vì vậy, mà nảy sinh nhiều quan điểm khác nhau về chất
lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm theo hướng công nghệ là tập hợp các đặc tính
kỹ thuật, công nghệ và vận hành sản phẩm, có thể đo được hoặc so sánh
được, nó phản ánh giá trị sử dụng và chắc năng của sản phẩm đáp ứng
được nhu cầu của người tiêu dùng khi sử dụng sản phẩm. Trong những
điều kiện xác định về kinh tế xã hội, quan điểm này đã phản ánh đúng bản
chất của sản phẩm về mặt kỹ thuật. Nhưng ở đây, nó chỉ là 1 chỉ tiêu kỹ
thuật, không gắn liền với những biến đổi của nhu cầu thị trường, cũng như
điều kiện sản xuất và hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, mỗi
nước mỗi khu vực cụ thể. Do vậy, điều đó sẽ dẫn đến nguy cơ chất lượng
sản phẩm không cải tiến kịp thời, khả năng tiêu thụ kém và không phù hợp
với nhu cầu người tiêu dùng. Tuy nhiên quan điểm này để dùng đánh giá
được chất lượng sản phẩm, đồng thời có thể cải tiến, hoàn thiện sản
phẩm (về mặt kỹ thuật) thông qua việc xác đinh rõ những đặc tính hoặc
chỉ tiêu của sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm tiếp cận theo hướng khách hàng là các đặc
tính của sản phẩm phù hợp với yêu cầu của khách hàng và có khả năng
thoả mãn nhu cầu của họ. Theo cách tiếp cận này thì chỉ có những đặc tính
của sản phẩm đáp ứng nhu cầu của khách hàng mới được coi là chất lượng
4
sản phẩm. Mức độ thoả mãn nhu cầu là cơ sở để đánh giá chất lượng sản
phẩm . ở đây, chất lượng sản phẩm không cần thiết phải tốt nhất, cao
nhất mà chỉ cần nó phù hợp và đáp ứng được các nhu cầu của người tiêu
dùng. Khách hàng chính là người xác định chất lượng của sản phẩm chứ
không phải nhà sản xuất hay nhà quản lý. Do đó, sản phẩm hàng hoá cần
phải được cải tiến, đổi mới một cách thường xuyên và kịp thời về chất
lượng để thoả mãn 1 cách tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng. Đây cũng
chính là khó khăn lớn mà nhà sản xuất- kinh doanh phải tự tìm ra câu trả lời
và hướng đi lên của doanh nghiệp.
Theo các hướng tiếp cận trên đây, để giảm đi những hạn chế của
từng quan niệm, tổ chức ISO đã đưa ra khái niệm về chất lượng sản phẩm
như sau: "Chất lượng sản phẩm là một tập hợp các đặc tính của một thực
thể (đối tượng); tạo cho thực thể (đối tượng) đó có khả năng thoả mãn nhu
cầu xác định hoặc tiềm ẩn". Quan niệm này phản ánh được chính xác, đầy
đủ, bao quát nhất những vấn đề liên quan tới chất lượng sản phẩm, từ các
yếu tố, đặc tính cơ lý hoá liên quan đến nội tại sản phẩm tới nhứng yếu tố
chủ quan trong quá trình mua sắm và sử dụng của người tiêu dùng: đó là
khả năng thoả mãn nhu cầu. Chính vì sự kết hợp này mà khái niệm trên đây
được chấp nhận khá phổ biến.
Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, doanh nghiệp
phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhưng trái lại, việc
nâng cao chất lượng sản phẩm lại bị giới hạn bởi công nghệ và các điều
kiện kinh tế xã hội khác. Do đó, chất lượng sản phẩm trong nền kinh tế thị
trường được coi là hệ thống những đặc tính nội tại của sản phẩm, được
xác định bằng những thông số có thể đo được hoặc so sánh được và phù
hợp với những điều kiênj kinh tế - xã hội và kỹ thuật hiện tại, thoả mãn
được nhu cầu nhất định của xã hội. Gắn liền với quan niệm này là khái
niệm chất lượng tối ưu và chất lượng toàn diện. Điều này có nghĩa là lợi
ích thu được từ chất lượng sản phẩm nằm trong mối tương quan chặt chẽ
với những chi phí lao động xã hội cần thiết.
Ngày nay, chất lượng sản phẩm còn gắn liền với các yếu tố giá cả
và dịch vụ sau khi bán hàng. Vấn đề giao hàng đúng lúc, đúng thời hạn,
thanh toán thuận tiện ngày càng trở nên quan trọng hơn. Và khi các phương
pháp sản xuất mới: Just in time; Non stock production ngày càng phát triển
đến 1 hình thái mới là chất lượng tổng hợp phản ánh 1 cách trung thực
5
trình độ quản lý của mỗi doanh nghiệp thông qua 4 yếu tố chính được thể
hiện trên mô hình sau.
Từ các phân tích trên ta có thể rút ra một số đặc điểm sau đây của
chất lượng.
Chất lượng được đo bởi thoả mãn nhu cầu. Nếu một sản phẩm vì lý
do nào đó mà không được nhu cầu chấp nhận thì phải được coi là sản
phẩm chất lượng kém, dù trình độ công nghệ để chế tạo ra sản phẩm đó
có thể rất hiện đại. Đây là một kết luận then chốt và là cơ sở để các nhà
sản xuất định ra chính sách, chiến lược kinh doanh của mình.
Do chất lượng được đo bởi sự thoả mãn mà nhu cầu, không gian,
điều kiện sử dụng.
Khi đánh giá chất lượng của một đối tượng, ta phải xét và chỉ xét đến
mọi đặc tính của đối tượng có liên quan đến sự thoả mãn những nhu cầu
cụ thể.
Nhu cầu có thể được công bố rõ ràng dưới dạng các quy định, tiêu
chuẩn nhưng cũng có những nhu cầu không thể miêu tả rõ ràng, người sử
dụng có thể đảm nhận chúng, hoặc có khi chỉ phát hiện được chúng trong
quá trình sử dụng.
Chất lượng không phải chỉ là thuộc tính của sản phẩm, hàng hoá như
ta vẫn hiểu hàng ngày. Chất lượng còn áp dụng cho mọi thực thể, đó có
thể là sản phẩm, hay một hoạt động, một quá trình, một doanh nghiệp hay
một con người.
Mặt khác, khi nói đến chất lượng chúng ta không thể bỏ qua các yếu
tố giá cả và dịch vụ sau khi bán. Đó là những yếu tố mà khách hàng nào
cũng quan tâma sau khi thấy sản phẩm của họ định mua thoả mãn nhu cầu
của họ. Ngoài ra vấn đề giao hàng đúng lúc, đúng thời hạn là yếu tố vô
6
cùng quan trọng trong sản xuất hiện đại, nhất là các phương pháp dự trữ
bằng không đang phát triển rất nhanh trong thời gian gần đây.
2. Phân loại chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là 1 phạm trù tổng hợp cả về kinh tế-kỹ thuật,
xã hội gắn với mọi mặt của quá trình phát triển. Do đó, việc phân loại chất
lượng sản phẩm được phân theo hai tiêu thức sau tuỳ thuộc vào các điều
kiện nghiên cứu thiết kế, sản xuất, tiêu thụ...
a) Phân loại chất lượng theo hệ thống ISO 9000.
Theo tiêu thức này, chất lượng sản phẩm được chia thành các loại
sau:
-Chất lượng thiết kế.
Chất lượng thiết kế của sản phẩm là bảo đảm đúng các thông số
trong thiết kế được ghi lại bằng văn bản trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu thị
trường, các đặc điểm của sản xuất, tiêu dùng và tham khảo các chỉ tiêu
chất lượng cả các mặt hàng cùng loại.
-Chất lượng tiêu chuẩn
Là mức chất lượng bảo đảm đúng các chỉ tiêu đặc trưng của sản
phẩm do các tổ chức quốc tế, nhà nước hay các cơ quan có thẩm quyền
quy định.
+Tiêu chuẩn quốc tế: Là tiêu chuẩn do các tổ chức chất lượng quốc
tế nghiên cứu, điều chỉnh và triển khai trên phạm vi thế giới và được chấp
nhận ở các nước khác nhau.
+Tiêu chuẩn quốc gia: Là tiêu chuẩn do Nhà nước ban hành, được xây
dựng trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật của thế giới phù
hợp với điều kiện kinh tế của đất nước.
+Tiêu chuẩn ngành: Là chất lượng do các bộ, ngành ban hành được áp
dụng trong phạm vi nội bộ ngành
+Tiêu chuẩn doanh nghiệp: Là chỉ tiêu chất lượng do doanh nghiệp tự
nghiên cứu và áp dụng trong doanh nghiệp mình.
-Chất lượng thực tế
Là mức chất lượng sản phẩm thực tế đạt được do các yếu tố nguyên
vật liệu, máy móc thiết bị, phương pháp quản lý chi phối.
-Chất lượng cho phép
7
Là mức chất lượng có thể chấp nhận được giữa chất lượng thực tế
và chất lượng tiêu chuẩn, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế- kỹ thuật, trình
độ lành nghề của công nhân, phương pháp quản lý của doanh nghiệp...
-Chất lượng tối ưu:
Là mức chất lượng mà tại đó lợi nhuận đạt được do nâng cao chất
lượng lớn hơn chi phí đạt mức chất lượng đó.
Ngày nay, các doanh nghiệp phấn đầu đưa chất lượng của sản phẩm
hàng hoá đạt mức chất lượng tối ưu là một trong những mục đích quan
trọng của quản lý doanh nghiệp nói riêng và quản lý kinh tế nói chung. Tuy
nhiên, mức chất lượng tối ưu tuỳ thuộc vào đặc điểm tiêu dùng cụ thể của
từng nước, từng vùng trong những thời điểm khác nhau. Nâng cao chất
lượng sản phẩm trên cơ sở giảm tỷ suất lợi nhuận trên từng đơn vị sản
phẩm với mức chi phí hợp lý, tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh
của sản phẩm và thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng.
b) Phân loại theo mục đích công dụng của sản phẩm.
-Chất lượng thị trường
Là giá trị các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm đạt được mức độ hợp lý
nhất trong điều kiện kinh tế-xã hội nhất định. Nói cách khác, chất lượng là
thị trường, là khả năng sản phẩm thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng có
khả năng cạnh tranh trên thị trường, sức tiêu thụ nhanh hiệu quả cao.
-Chất lượng thị hiếu
Là mức chất lượng của sản phẩm phù hợp với ý thích sở trường, tâm
lý của người tiêu dùng.
-Chất lượng thành phần.
Là mức chất lượng có thể thoả mãn nhu cầu mong đọi của một số
người hay một số nhóm người. Đây là mức chất lượng hướng vào một
nhóm người nhất định, một số bộ phận tạo nên chất lượng toàn diện, đáp
ứng nhu cầu theo sở thích cá nhân.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
a) Nhóm nhân tố khách quan
-Thị trường
Nói đến thị trường là đề cập tới các yếu tố: Cung, cầu, giá cả, quy
mô thị trường, cạnh tranh... Chất lượng sản phẩm luôn gắn liền với sự vận
động và biến đổi của thị trường, đặc biệt là nhu cầu thị trường, tác động
8
trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường
doanh nghiệp xác định được khách hàng của mình là đối tượng nào? Quy
mô ra sao? và tiêu thụ ở mức như thế nào?
Từ đó doanh nghiệp có thể xây dựng chiến lược sản phẩm, kế hoạch
sản xuất để có thể đưa ra những sản phẩm với mức chất lượng phù hợp,
giá cả hợp lý với nhu cầu và khả năng tiêu dùng ở những thời điểm nhất
định. Bởi vì sản phẩm có chất lượng cao không phải lúc nào cũng tiêu thụ
nhanh và ngược lại chất lượng có thể không cao nhưng người tiêu dùng lịa
mua chúng nhiều. Điều này có thể do giá cả, thị hiếu của người tiêu dùng ở
các thị trường khác nhau là khác nhau, hoặc sự tiêu dùng mang tính thời
điểm. Điều này được phản ánh rõ nét nhất với các sản phẩm mốt hoặc
những sản phẩm sản xuât theo mùa vụ.
Thông thường, khi mức sống xã hội còn thấp, sản phẩm khan hiếm
thì yêu cầu của người tiêu dùng chưa cao, người ta chưa quan tâm nhiều tới
mặt xã hội của sản phẩm. Nhưng khi đời sống xã hội tăng lên thì đòi hỏi
về chất lượng cũng tăng theo. Đôi khi họ chấp nhận mua sản phẩm với giá
cao tới rất cao để có thể thoả mãn nhu cầu cá nhân của mình.
Chính vì vậy, các doanh nghiệp không chỉ phải sản xuất ra những sản
phẩm có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu thị trường mà còn phải
quan tâm tới khía cạnh tẩm mỹ, an toàn và kinh tế của người tiêu dùng khi
tiêu thụ sản phẩm.
-Trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật.
Ngày nay, không có sự tiến bộ kinh tế xã hội nào không gắn liền với
tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới. Trong vài thập kỷ trở lại đây,
trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy mạnh mẽ sự tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Tiến bộ khoa học kỹ thuật đã tạo ra những
bước đột phá quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực mới: Tự động hoá,
điện tử, tin học, công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, robot... đã tại ra
những thay đổi to lớn trong sản xuất cho phép rút ngắn chu trình sản xuất,
tiết kiệm nguyên vật liệu nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản
phẩm.
Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng đặt ra những
thách thức không nhỏ cho các doanh nghiệp trong việc quản lý, khai thác và
vận hành công nghệ có hiệu quả cao. Bởi vì, cùng với sự phát triển của
khoa học kỹ thuật thì thời gian để chếtạo công nghệ mới thay thế công
nghệ cũ dần dần được rút ngắn lại. Sự ra đời của một công nghệ mới
9
thường đồng nghĩa với chất lượng sản phẩm cao hơn, hoàn thiện hơn. Bên
cạnh đó, đào tạo nhân lực để thích ứng với sự thay đổi liên tục của khoa
học công nghệ không thể ngày một ngày hai mà phải có thời gian. Đây cũng
là những khó khăn của các doanh nghiệp Việt Nam trong khi nguồn kinh
phí cho đào tạo, bồi dưỡng không nhiều.
-Cơ chế chính sách quản lý của Nhà nước
Cơ chế chính sách của Nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng trong quá
trình thúc đẩy cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm của mỗi doanh
nghiệp. Việc ban hành các hệ thống chỉ tiêu chất lượng sản phẩm, các quy
định về sản phẩm đạt chất lượng, xử lý nghiêm việc sản xuất hàng giả,
hành kém chất lượng, không bảo đảm an toàn vệ sinh, thuế quan, các chính
sách ưu đãi cho đầu tư đổi mới công nghệ là những nhân tố hết sức quan
trọng, tạo động lực phát huy tính tự chủ, sáng tạo trong cải tiến và nâng
cao chất lượng sản phẩm.
Rõ ràng, các doanh nghiệp không thể tồn tại một cách biệt lập mà
luôn có mối quan hệ chặt chẽ và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tình hình
chính trị, kinh tế, xã hội, đặc biệt phải kể đến là cơ chế quản lý kinh tế
của Nhà nước. Cơ chế quản lý vừa là môi trường, vừa là điều kiện cần
thiết tác động đến phương hướng, tốc độ cải tiến và nâng cao chất lượng
sản phẩm.
-Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên có tác động mạnh mẽ đến việc bảo quản và nâng
cao chất lượng sản phẩm, đặc biệt là đối với những nước có khí hậu nhiệt
dới, nóng ẩm mưa nhiều như Việt Nam. Nó tác động tới các đặc tính cơ lý
hoá của sản phẩm, làm giảm đi chất lượng của sản phẩm, của hàng hoá
trong quá trình sản xuất cũng như trong trao đổi, lưu thông và tiêu dùng.
Khí hậu, thời tiết, các hiện tượng tự nhiên như: gió, mưa, bão, sét...
ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng các, nguyên vật liệu dự trữ tại các kho
tàng, bến bãi. Đồng thời, nó cũng ảnh hưởng tới hiệu quả vận hành các
thiết bị, máy móc, đặc biệt đối với các thiết bị, máy móc hoạt động ngoài
trời. Khí hậu, nóng ẩm cũng tạo điều kiện cho côn trùng, vi sinh vật hoạt
động làm cho sản phẩm bị phân huỷ, nấm mốc, thối rữa... ảnh hưởng tới
hình thức và chất lượng của sản phẩm. Điều này dễ dàng gặp ở các sản
phẩm có nguồn gốc từ nông nghiệp,ngư nghiệp.
-Văn minh và thói quen tiêu dùng
10
Trình độ văn hoá, thói quen và sở thích tiêu dùng của mỗi người là
khác nhau. Điều này phụ thuộc vào rất nhiều các nhân tố tác động như:
Thu nhập, trình độ học vấn, môi trường sống, phong tục, tập quán tiêu
dùng... của mỗi quốc gia, mỗi khu vực. Do đó, đòi hỏi các doanh nghiệp
cần phải nghiên cứu, phân đoạn thị trường theo các tiêu thức lựa chọn khác
nhau trên cơ sở các nhân tố ảnh hưỏng để xác định các đối tượng mà sản
phẩm mình phục vụ với chất lượng đáp ứng phù hợp với từng nhóm khách
hàng riêng biệt.
Tuy nhiên, khi kinh tế càng phát triển, đời sống ngày càng được nâng
cao thì văn minh và thói quen tiêu dùng cùng đòi hỏi ở mức cao hơn. Vì thế,
doanh nghiệp cần phải nắm bắt được xu hướng đó, hoàn thiện và nâng cảo
sản phẩm của mình để đáp ứng nhu cầu luôn thay đổi của người tiêu dùng.
b) Nhóm các nhân tố chủ quan.
Là nhóm các nhân tố thuộc môi trường bên trong của doanh nghiệp,
mà doanh nghiệp có thể( hoặc coi như có thể) kiểm soát được. Nó gắn liến
với các điều kiện của doanh nghiệp như: lao động, thiết bị, công nghệ,
nguyên vật liệu, trình độ quản lý... Các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp tới
chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp.
-Trình độ lao động của doanh nghiệp
Trong tất cả các hoạt động sản xuất, xã hội, nhân tố con người luôn
luôn là nhân tố căn bản, quyết định tới chất lượng của các hoạt động đó.
Nó được phản ánh thông qua trình độ chuyên môn, tay nghề, kỹ năng, kinh
nghiệm, ý thức trách nhiệm của từng lao động trong doanh nghiệp. Trình
độ của người lao động còn được đánh giá thông qua sự hiểu biết, nắm
vững về phương pháp, công nghệ, quy trình sản xuất, các tính năng, tác
dụng của máy móc, thiếtbị, nguyên vật liệu, sự chấp hành đúng quy trình
phương pháp công nghệ và các điều kiện đảm bảo an toàn trong doanh
nghiệp.
Để nâng cao chất lượng quản lý trong doanh nghiệp cũng như nâng
cao trình độ năng lực của lao động thì việc đầu tư phát triển và bồi dưỡng
cần phải được coi trọng.
Mỗi doanh nghiệp phải có biện pháp tổ chức lao động khoa học, đảm
bảo và trang bị đầy đủ các điều kiện, môi trường làm việc an toàn, vệ sinh
cho người lao động. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải có các chính sách
động viên, khuyến khích nhằm phát huy khả năng sáng tạo trong cải tiến,
11
nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua chế độ thưởng phạt nghiêm
minh. Mức thưởng phạt phải phù hợp, tương ứng với phần giá trị mà
người lao động làm lợi hay gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
-Trình độ máy móc, công nghệ mà doanh nghiệp sử dụng
Đối với mỗi doanh nghiệp, công nghệ luôn là một trong những yếu tố
cơ bản, quyết định tới chất lượng sản phẩm.
Trình độ hiện đại, tính đồng bộ và khả năng vận hành công nghệ...
ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng sản phẩm. Trong điều kiện hiện nay,
thật khó tin rằng với trình độ công nghệ, máy móc ở mức trung bình mà có
thể cho ra đời các sản phẩm có chất lượng cao. Ngược lại, cũng không thể
nhìn nhận rằng cứ đổi mới công nghệ là có thể có được những sản phẩm
chất lượng cao, mà chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
Nguyên vật liệu, trình độ quản lý, trình độ khai thác và vận hành máy móc,
thiết bị...
Đối với các doanh nghiệp tự động hoá cao, dây chuyền và tính chất
sản xuất hàng loạt thì chất lượng sản phẩm chịu ảnh hưởng rất nhiều. Do
đó, trình độ của các doanh nghiệp về công nghệ, thiết bị máy móc phụ
thuộc vào rất nhiều và không thể tách rời trình độ công nghệ thế giới. Bởi
nếu không, các nước, các doanh nghiệp sẽ không thể theo kịp được sự phát
triển trên thế giới trong điều kiện đa dạng hoá, đa phương hoá. Chính vì lý
do đó mà doanh nghiệp muốn sản phẩm của mình có chất lượng đủ khả
năng cạnh tranh trên thị trường thì doanh nghiệp đó cần có chính sách công
nghệ phù hợp và khai thác sử dụng có hiệu quả các công nghệ và máy móc,
thiết bị hiện đại, đã đang và sẽ đầu tư.
-Trình độ tổ chức và quản lý sản xuất của doanh nghiệp.
Các yếu tố sản xuất như nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, lao
động... dù có ở trình độ cao song không được tổ chức một cách hợp lý, phối
hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các khâu sản xuất thì cũng khó có thể tạo ra
những sản phẩm có chất lượng. Không những thế, nhiều khí nó còn gây
thất thoát, lãng phí nhiên liệu, nguyên vật liệu... của doanh nghiệp. Do đó,
công tác tổ chức sản xuất và lựa chọn phương pháp tổ chức sản xuất trong
doanh nghiệp đóng một vai tròn hết sức quan trọng.
Tuy nhiên, để mô hình và phương pháp tổ chức sản xuất được hoạt
động có hiệu quả thì cần phải có năng lực quản lý. Trình độ quản lý nói
chung và quản lý chất lượng nói riêng một trong những nhân tố cơ bản góp
phần cải tiến, hoàn thiện chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Điều
12
này gắn liều với trình độ nhận thức, hiểu biết của cán bộ quản lý về chất
lượng, chính sách chất lượng, chương trình và kế hoạch chất lượng nhằm
xác định được mục tiêu một cách chính xác rõ ràng, làm cơ sở cho việc
hoàn thiện, cải tiến.
Trên thực tế, sự ra đời của hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu
chuẩn quốc tế ISO 9000 đã khẳng định vai trò và tầm quan trọng của quản
lý trong qúa trình thiết kế, tổ chức sản xuất, cung ứng và các dịch vụ sau
khi bán hàng.
-Chất lượng nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu là yếu tố chính tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất, cấu thành thực thể sản phẩm. Chất lượng sản phẩm cao hay thấp
phụ thuộc trực tiếp vào chất lượng nguyên vật liệu đầu vào. Quá trình
cung ứng nguyên vật liệu đầu vào. Quá trình cung ứng nguyên vật liệu có
chất lượng tốt, kịp thời, đầy đủ, đồng bộ sẽ bảo đảm cho quá trình sản
xuất diễn ra liên tục , nhịp nhàng; sản phẩm ra đời với chất lượng cao.
Ngược lại, không thể có được những sản phẩm có chất lượng cao từ
nguyên liệu sản xuất không bảo đảm, đồng bộ hơn nữa nó còn gây ra sự
lãng phí, thất thoát nguyên vật liệu.
Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào mà doanh nghiệp có thể bảo đảm
được việc cung ứng nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất với chất lượng
cao, kịp thời, đầy đủ và đồng bộ ? Điều này chỉ có thể thực hiện được, nếu
như doanh nghiệp xác lập thiết kế mô hình dự trữ hợp lý; hệ thống cung
ứng nguyên vật liệu thích hợp trên cơ sở nghiên cứu đáng giá nhu cầu về
thị trường (cả đầu vào và đầu ra), khả năng tổ chức cung ứng, khả năng
quản lý...
-Quan điểm lãnh đạo của doanh nghiệp.
Theo quan điểm quản trị chất lượng sản phẩm hiện đại, mặc dù công
nhân là người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm nhưng người quản lý lại là
người phải chịu trách nhiệm đối với sản phẩm sản xuất ra. Trong thực tế,
tỷ lệ tỷ lệ liên quan đến những vấn đề trong quản lý chiếm tới 80%.
Do vậy, họ phải nhận thức được rằng đó không chỉ do lỗi ở trình độ
tay nghè người công nhân mà còn do chính bản thân mình. Trên thực tế,
liệu đã có nhà quản lý nào đặt cho chính họ những câu hỏi như: Họ bố trí
lao động đã hợp lý chưa? Việc bố trí có phát huy được khả năng, trình độ
tay nghề của người công nhân hay không? Sản phẩm sản xuất với chất
13
lượng kém có phải do con người, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay do
nguyên nhân nào khác...
Thêm vào đó, chính sách chất lượng và kế hoạch chất lượng được
lập ra dựa trên những nghiên cứu, thiết kế của các lãnh đạo doanh nghiệp.
Quan điểm của họ có ảnh hưởng rất lớn tới việc thực hiện chất lượng
trong toàn công ty. Điều này chứng tỏ rằng, chỉ có nhận thức được trách
nhiệm của lãnh đạo doanh nghiệp thì mới có cở sở thực hiện việc cải tiến
và nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp.
4. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm
Chỉ tiêu chất lượng sản phẩm là đặc tính, định lượng của tính chất
cấu thành hiện vật sản phẩm. Có rất nhiều các chỉ tiêu phản ánh chất
lượng sản phẩm. Chúng được phân thành hai loại:
-Nhóm các chỉ tiêu không so sánh được.
-Nhóm các chỉ tiêu so sánh được.
a) Nhóm các chỉ tiêu không so sánh được
-Chỉ tiêu công dụng: Đây là chỉ tiêu đặc trưng cho các thuộc tính, xác
định những chức năng chủ yếu của sản phẩm, quy định giá trị sử dụng của
sản phẩm.
-Chỉ tiêu độ tin cậy: Phản ánh sự ổn định của các đặc tính sử dụng
của sản phẩm, khả năng sản phẩm và dịch vụ có thể tiếp tục đáp ứng các
yêu cầu của người tiêu dùng.
-Chỉ tiêu công nghệ: Là những chỉ tiêu đặc trưng cho phương pháp,
quy trình sản xuất nhằm tiết kiệm các yếu tố vật chất trong quá trình sản
xuất (tối thiểu hoá các chi phí sản xuất) sản phẩm:
-Chỉ tiêu lao động học: Phản ánh mối quan hệ giữa con người với sản
phẩm, đặc biệt là sự thuận lợi mà sản phẩm đem lại cho người tiêu dùng
trong quá trình sử dụng.
-Chỉ tiêu thẩm mỹ: Đặc trưng cho mức độ truyền cảm, hấp dẫn của
sản phẩm, sự hài hoà về hình thức, nguyên vẹn về kết cấu.
-Chỉ tiêu độ bền: Đây là chỉ tiêu phản ánh khoảng thời gian từ khi sản
phẩm được hoàn thiện cho tới khi sản phẩm không còn vận hành, sử dụng
được nữa.
14
-Chỉ tiêu dễ vận chuyển: Phản ánh sự thuận tiện của các sản phẩm
trong quá trình di chuyển, vận chuyển trên các phương tiện giao thông.
-Chỉ tiêu an toàn: Chỉ tiêu đặc trưng cho mức độ an toàn khi sản xuất
hay tiêu dùng sản phẩm.
-Chỉ tiêu sinh thái: Phản ánh mức độ gây độc hại, ảnh hưởng đến môi
trường xung quanh trong quá trình sản xuất và vận hành sản phẩm.
-Chỉ tiêu tiêu chuẩn hoá, thống nhất hoá. Đặc trưng cho khả năng lắp
đặt và thay thế của sản phẩm khi sử dụng.
-Chỉ tiêu kinh tế: Phản ánh các chi phí cần thiết từ khi thiết kế, chế
tạo đến khi cung ứng sản phẩm và các chi phí liên quan sau khi tiêu dùng
sản phẩm.
b) Nhóm chỉ tiêu có thể so sánh được
-Tỷ lệ sai hỏng: Đánh giá tình hình thực hiện chất lượng sản phẩm
trong các doanh nghiệp sản xuất các loại sản phẩm không phân thứ hạng
chất lượng sản phẩm:
+Sử dụng thước đo hiện vật
Số lượng sản phẩm sai hỏng
Tỷ lệ sai hỏng = x 100%
Tổng sản phẩm sản xuất
+Sử dụng thước đo giá trị:
Chi phí cho các sản phẩm hỏng
Tỷ lệ sai hỏng = x 100%
Tổng chi phí cho toàn bộ sản phẩm
-Hệ số phẩm cấp bình quân: áp dụng đối với những doanh nghiệp
sản xuất có phân hạng chất lượng sản phẩm.
H=
∑ (qi. pi)
∑ (qi. p1)
Trong đó
H: Hệ số sản phẩm bình quân
qi: Số lượng sản phẩm loại i
15
pi: Đơn giá sản phẩm loại i
p1: Đơn giá sản phẩm loại 1
-Trong quản lý chất lượng sản phẩm người ta chủ yếu tính toán độ
lệch chuẩn và tỷ lệ đạt chất lượng để biết được chất lượng sản phẩm
+Độ lệch chuẩn (ọ)
∑
n
( xi − x)
ọ= i =1
n −1
Trong đó
xi: Chất lượng sản phẩm thứ i
x : Chất lượng sản phẩm trung bình
n: Số lượng sản phẩm.
+Tỷ lệ đạt chất lượng.
Số sản phẩm đạt chất lượng
Tỷ lệ đạt chất lượng = x 100%
Tổng sản phẩm sản xuất
Để sản xuất kinh doanh một sản phẩm nào đó, doanh nghiệp phải
xây dựng được hệ thống các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, phải
đăng ký và được các cơ quan quản lý, chất lượng sản phẩm Nhà nước ký
duyệt. Tuỳ từng loại sản phẩm, điều kiện của doanh nghiệp mà xây sựng
tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. Trong quá trình thực hiện doanh nghiệp
phải đảm bảo đúng các thông số mức chất lượng đã ký của sản phẩm, đó
là thông số mức độ chất lượng đã ký của sản phảm, đó là cơ sở để kiểm
tra đánh giá sản phẩm sản xuất. Trên thực tế, việc đánh giá chất lượng sản
phẩm được căn cứ vào hệ thống các chỉ tiêu do Nhà nước, các bộ ngành
ban hành hay do chính doanh nghiệp xây dựng. Điều này đảm bảo cho việc
kiểm tra đánh giá được chính xác, tập trung, bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng.
16
II- QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM.
1. Một số quan điểm về quản lý chất lượng sản phẩm và các giai
đoạn phát triển nhận thức về quản lý chất lượng sản phẩm.
a) Một số quan điểm về quản trị chất lượng sản phẩm
Chúng ta biết rằng, để đạt được "chất lượng" như mong muốn, nó
đòi hỏi phải có sự kết hợp hàng loạt các yếu tố có liên quan chặt chẽ với
nhau. Một trong những yếu tố hết sức quan trọng là "quản lý chất lượng".
Phải có hiểu biết đúng đắn về chất lượng và quản lý chất lượng thì mới
có thể giải quyết tốt vấn đề chất lượng. Quản lý chất lượng đã được áp
dụng trong nhiều ngành, nhiều loại hình doanh nghiệp với quy mô lớn nhỏ
khác nhau. Nhờ có nó mà các doanh nghiệp có thể xác định đúng đắn những
nhiệm vụ quan trọng và phương pháp nâng cao khả năng cạnh tranh.
Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể hiểu và vận dụng đúng nghĩa
của nó. Từ các khía cạnh, góc độ khác nhau mỗi nhà nghiên cứu có những
cách tiếp cận riêng.
Theo nhà quản lý người Anh A.G. Robetson: "Quản lý chất lượng
sản phẩm là ứng dụng các biện pháp , thủ tục, kỹ thuật, đảm bảo cho sản
phẩm phù hợp với thiết kế, yêu cầu trong hợp đồng kinh tế bằng con
đưòng hiệu quả nhất, kinh tế nhất".
Theo Ishikawa - nhà nghiên cứu chất lượng người Nhật cho rằng:
"Quản lý chất lượng sản phẩm có nghĩa là nghiên cứu - thiết kế- triển khai
sản xuất và bảo dưỡng, một sản phẩm có chất lượng phải kinh tế nhất và
bao giờ cũng thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng".
Quản lý chất lượng sản phẩm theo định nghĩa của tổ chức tiêu
chuẩn quốc tế ISO là một hoạt động có chức năng quản lý nhằm đề ra các
chính sách, mục tiêu, trách nhiệm và thực hiện chúng bằng các biện pháp
như: Hoạch định chất lượng, kiểm soát chất lượng, đảm bảo chất lượng
và cải tiến chất lượng.
Nhìn chung các khái niệm trên đây đều có những điểm giống nhau:
Quản lý chất lượng là hệ thống các biện pháp nhằm đảm bảo chất lượng
thoả mãn nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất, có hiệu quả kinh tế cao
nhất được tiến hành ở tất cả các công đoạn hình thành chất lượng sản
phẩm từ nghiên cứu-thiết kế-triển khai sản xuất-bảo quản và vận
chuyển... đến tiêu dùng. Quản lý chất lượng cần được bảo đảm trong tất
cả các khâu, đó là trách nhiệm của toàn bộ nhân sự trong công ty từ cán bộ
17
lãnh đạo cho tới các nhân viên, công nhân trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh.
b) Các giai đoạn phát triển nhận thức về quản lý chất lượng sản
phẩm
Trong lịch sử phát triển của sản xuất, chất lượng sản phẩm, dịch vụ
đã không ngừng tăng lên do tính chất cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
ngày càng trở nên khốc liệt. Cùng với sự phát triển đó thì khoa học quản lý
được phát triển và hoàn thiện ngày càng đầy đủ hơn bản chất tổng hợp,
phức tạp của vấn đề chất lượng, phản ánh sự thích ứng với môi trường và
điều kiện kinh doanh mới. Quá trình nhận thức và ứng dụng về quản lý
chất lượng sản phẩm đã vận động qua các giai đoạn khác nhau:
-Kiểm tra chất lượng.
Các sản phẩm sau quá trình sản xuất mới tiến hành kiểm tra các
khuyết tật. Khi phát hiện ra các khuyết tật mới đề ra các biện pháp xử lý,
thông thường phương pháp này không phát hiện ra được nguyên nhân đích
thực.
Tuy nhiên, để khắc phục những sai sót này thì các doanh nghiệp đã
tăng cường các cán bộ KCS. Đi kèm với việc này là việc tăng chi tiêu rất
nhiều mà công tác kiểm tra không đảm bảo, trong nhiều trường hợp độ tin
cậy rất thấp.
-Kiểm soát chất lượng
Là việc đề ra các biện pháp đề phòng ngừa các sai sót, hay khuyết tật
có thể xảy ra trong quá trình sản xuất thông qua
+Kiểm soát con người.
+Kiểm soát phương pháp và quy trình sản xuất.
+Kiểm soát người cung ứng ( nguyên, nhiên vật liệu...)
+Kiểm soát trang thiết bị dùng trong thử nghiệm và sản xuất.
+Kiểm soát thông tin.
-Đảm bảo chất lượng.
Sau khi kiểm soát được chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp cần
phải duy trì mức chất lượng đã đạt được thông qua việc đảm bảo chất
lượng sản phẩm. Đây là quá trình cung cấp các hồ sơ chứng minh việc
kiểm soát chất lượng và các bằng chứng việc kiểm soát chất lượng sản
phẩm cho khách hàng.
18
Đảm bảo chất lượng là mọi hoạt động có kế hoạch và hệ thống,
được kiểm định nếu cần để đem lại lòng tin thoả đnág sản phẩm thoả mãn
các yêu cầu đã định đối với chất lượng.
Quan điểm đảm bảo chất lượng lần đầu tiên được áp dụng đối với
các ngành công nghiệp đòi hỏi độ tin cậy cao sau đó phát triển rộng sang
các sản phẩm bình thường khác độ tin cậy không cao.
-Quản lý chất lượng
Là việc xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng, đồng thời tính toán
hiệu quả kinh tế để có thể có được giá thành rẻ nhất. Bằng việc đề ra các
chính sách thích hợp, quản lý chất lượng cho phép tiết kiệm tối đa và giảm
thiểu các chi phí không cần thiết.
-Quản lý chất lượng toàn diện
Đây là giai đoạn phát triển cao nhất của quản lý chất lượng sản
phẩm bao gồm có 4 quá trình trên
Quản lý chất lượng toàn diện là một phương phá quản lý trong một
tổ chức định hướng vào chất lượng, dựa trên sự tham gia của mọi thành
viên và nhằm đến sự thành công dài hạn thông qua sự thoả mãn khách
hàng và lợi ích của mọi thành viên trong công ty và xã hội.
Chất lượng (sản phẩm) toàn diện là sự thoả mãn sự mong đợi của
người tiêu dùng có liên quan đến doanh nghiệp cả bên trong và bên ngoài.
Quản lý chất lượng toàn diện được thực hiện trên quy mô tổng thể với sự
tham gia của mọi thành viên trong doanh nghiệp, nhằm đạt được: "chất
lượng toàn diện" trên cơ sở đảm bảo đầy đủ các điều kiện cần thiết để có:
+Chất lượng thông tin
+Chất lượng đào tạo
+ Chất lượng trong hành vi thái độ cư xử trong nội bộ doanh nghiệp
cũng như đối với khách hàng bên ngoài
2. Nội dung công tác quản lý chất lượng trong doanh nghiệp.
a) Quản lý chất lượng trong khâu thiết kế.
Công tác thiết kế có tầm quan trọng rất lớn thể hiện ý đồ có tính
chất quyết định trong chiến lược sản phẩm, chính sách chất lượng của một
doanh nghiệp. Các sản phẩm được thiết kế một cách đúng đắn, phù hợp
với nhu cầu của người tiêu dùng sẽ góp phần rất lớn trong thành quản
hoạt động, khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường. Công tác thiết kế
được hiểu là sự kết hợp giữa nghiên cứu của bộ phận Marketing và triển
19
khai thực hiện của phòng quản lý sản xuất. Nó được xem như cầu nối
giữa chức năng marketing và chức năng tác nghiệp trong một doanh nghiệp.
Do đó, công tác thiết kế phụ thuộc rất nhiều vào kết quả, hiệu quả, chất
lượng của các hoạt động nghiên cứu thị trường. Hoạt động này có ảnh
hưởng rất nhiều tới khả năng tiêu thụ, cạnh tranh của sản phẩm trong
tương lai, nó đưa ra những đề xuất cho thiết kế sản phẩm mới phù hợp
hơn với nhu cầu thị trường.
Các công việc cần thực hiện trong giai đoạn này:
-Tập hợp và chuyển hoá những nhu cầu của khách hàng thành đặc
điểm của sản phẩm thông qua nghiên cưú đề xuất của tất cả các bộ phận
trong doanh nghiệp: marketing, tài chính, tác nghiệp, cung ứng nhằm thiết
kế sản phẩm. Thiết kế là quá trình bảo đảm thực hiện những đặc điểm
sản phẩm đã xác định để thoả mãn nhu cầu khách hàng. Kết quả của các
quá trình này là các bản sơ đồ thiết kế, ích lợi mà người tiêu dùng nhận
được từ đặc điểm của sản phẩm.
-Đưa ra các phương án khác nhau cho quá trình thiết kế để đáp ứng
được nhu cầu thị trường. Các đặc điểm sản phẩm có thể lấy từ sản phẩm
cũ hay cải tiến cho phù hợp với những đòi hỏi mới, hoặc đưa ra những đặc
điểm hoàn toàn mới.
-Thử nghiệm, kiểm tra các phương án nhằm lựa chọn phương án tối
ưu.
-Quyết định những đặc điểm đã lựa chọn. Đáp ứng nhu cầu thích
hợp với khả năng, bảo đảm tính cạnh tranh, tối ưu hoá chi phí.
-Phân tích kinh tế: đánh giá mối quan hệ giữa những lợi ích mà sản
phẩm đem lại với chi phí để sản xuất sản phẩm.
Những chỉ tiêu cần kiểm tra trong giai đoạn này bao gồm:
-Trình độ chất lượng sản phẩm thiết kế
-Chỉ tiêu tổng hợp về tài liệu thiết kế, công nghệ và chất lượng chế
thử.
-Hệ số khuyết tật của sản phẩm chế thử và các biện pháp điều
chỉnh.
-Hệ số chất lượng của chuẩn bị thiết bị, công nghệ sản xuất hàng
loạt sau đó.
20