Luận văn - Thách thức đối với Việt Nam về vấn đề xuất khẩu khi Trung Quốc gia nhập WTO
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng “ núi liền núi sông liền sông”. Quan hệ ngoại giao, kinh tế, văn hoá, thương mại giữa hai nước đã hình thành từ lâu, như một tất yếu khách quan. Đối với nhân dân hai nước, quan hệ láng giềng, quan hệ giao lưu văn hoá và thương mại đã trở thành truyền thống bền vững. Vì thế, mỗi một thay đổi hay biến động trên đất Trung Quốc đều sẽ được truyền đến Việt Nam một cách trực tiếp nhất, nhanh nhất....
Luận Văn
Thách thức đối với Việt Nam
về vấn đề xuất khẩu khi
Trung Quốc gia nhập WTO
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng “ núi liền núi sông liền sông”.
Quan hệ ngoại giao, kinh tế, văn hoá, thương mại giữa hai nước đã hình thành từ lâu, như
một tất yếu khách quan. Đối với nhân dân hai nước, quan hệ láng giềng, quan hệ giao lưu
văn hoá và thương mại đã trở thành truyền thống bền vững. Vì thế, mỗi một thay đổi hay
biến động trên đất Trung Quốc đều sẽ đ ược truyền đến Việt Nam một cách trực tiếp nhất,
nhanh nhất.
Trong năm 2001, việc Trung Quốc gia nhập WTO được đánh giá là một trong
nh ững sự kiện quan trọng đối với nước này. Mặc dù sẽ phải đương đầu với không ít khó
khăn và thử thách cũng hết sức nghiệt ngã, nhưng cơ hội để Trung Quốc đẩy nhanh phát
triển cũng vô cùng to lớn. Nếu vượt qua được những thách thức, tranh thủ được những cơ
hội do việc gia nhập WTO đưa lại, thì chẳng bao lâu nữa Trung Quốc sẽ trở thành một
cường quốc kinh tế trên thế giới.
Sự kiện này chắc chắn sẽ có ảnh h ưởng sâu rộng và lâu dài đến đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hoá của Trung Quốc. Hơn thế, nó cũng sẽ tác động đến tình hình
phát triển kinh tế cũng như quan hệ kinh tế - thương mại giữa Trung Quốc với các nước
Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Điều này không ch ỉ có ảnh hưởng đến quan hệ song
phương của hai nước, đến đầu tư nước ngoài mà còn ảnh hưởng lớn đến vấn đề xuất khẩu
của Việt Nam trong những năm tới. Đó cũng chính là lý do mà em chọn đề tài “Thách
thức đối với Việt Nam về vấn đề xuất khẩu khi Trung Quốc gia nhập WTO”.
Thông qua tìm hiểu sách báo, các phương tiện thông tin đại chúng, qua mạng
Internet và sự hướng dẫn tận tình của PGS - TS Nguyễn Duy Bột đã giúp em hoàn thành
bài viết này. Tuy nhiên, đây là vấn đề hết sức lớn đòi hỏi phải có sự tham gia tìm hiểu
nghiên cứu của nhiều người, nhiều ngành với nhiều thời gian hơn. Do vậy, bài viết của em
cũng không tránh khỏi những thiếu sót, mong được sự chỉ dẫn và góp ý của thầy cô.
Em xin trân trọng cảm ơn!
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
PHẦN I : TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI VÀ SỰ GIA NHẬP CỦA TRUNG
QUỐC
I/Tính tất yếu của việc hội nhập
1.Khái niệm c ủa việc hội nhập:
Hội nhập là một trong những xu thế chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Cuộc
cách mạnh khoa học kỹ thuật và công nghệ đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình
chuyên môn hoá và hợp tác giữa các quốc gia, làm cho lực lượng sản xuất được quốc tế
hoá cao độ. Điều này đã đ ưa các quốc gia gắn kết lại gần nhau, dẫn tới sự h ình thành
mạng lưới toàn cầu hay hội nhập kinh tế quốc tế. Vậy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là
một quá trình điều chỉnh chính sách kinh tế, xây dựng một nền kinh tế thị trường mạnh để
thực hiện tự do hoá trong lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư, hợp
tác tài chính, tiền tệ.
2. Lợi ích của việc hội nhập :
Tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế làm tăng khả năng phối hợp chính sách,
giúp các quốc gia có thể vượt qua đ ược thử thách to lớn và giải quyết các vấn đề kinh tế
mang tính toàn cầu. Mặt khác nó còn tạo khả năng phân bổ một cách hợp lý và có hiệu
quả nguồn tài nguyên, trình độ khoa học, công nghệ của nhân loại và nguồn tài chính trên
phạm vi toàn cầu góp phần đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia. Quá tr ình
hội nhập giúp các nước sẵn sàng tận dụng ưu đãi của các thành viên khác đem lại cho
mình để phát triển sản xuất mở rộng thị trường hàng hoá và đầu tư nước ngoài. Chính vì
thế mà tham gia hội nhập kinh tế là một tất yếu, khách quan, là đòi hỏi cấp thiết đối với
mỗi quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng.
+ Thứ nhất, xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá trên cơ sở lợi ích kinh tế của các
bên tham gia đã trở thành nhân tố góp phần ổn đ ịnh khu vực, tạo điều kiện cho các n ước
giảm bớt các khoản chi về an ninh, quốc phòng để tập trung các nguồn lực cho việc phát
triển kinh tế, chính trị, xã hội. Sự ổn định này chính là điều kiện kiên quyết để thu hút đầu
tư nước ngoài.
+ Thứ hai, nhờ quá trình hội nhập mà mỗi quốc gia có thể học hỏi kinh nghiệm
trong việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế của các nước đi trước, tránh được
nh ững sai sót, từng bước điều chỉnh các chính sách và chế độ kinh tế phù hợp chuẩn mực
của các tổ chức, các định chế kinh tế quốc tế tạo ra môi trường chuyển giao các công
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
nghệ kỹ thuật cao, rút ngắn thời gian và khoảng cách đuổi kịp các nước trong khu vực và
quốc tế.
+ Thứ ba, quá trình hội nhập tạo ra mối kinh tế, chính trị đa dạng, đan xen, phụ
thuộc lẫn nhau , góp phần nâng cao vị thế quốc tế cho các quốc gia tham gia b ình đẳng
trong giao lưu và quan hệ kinh tế quốc tế. Mặt khác sự giảm dần các hàng rào thuế quan
và phi thuế quan, các phân biêt đối xử chính thức và phi chính thức, kinh tế và phi kinh tế
sẽ tạo c ơ hội không chỉ cho các công ty lớn, các nền kinh tế lớn mà còn cho cả các công ty
nhỏ, nền kinh tế nhỏ tham gia bình đẳng và rộng rãi vào guồng máy kinh tế thế giới.
+ Thứ tư, các quốc gia có môi trường quan trọng để có thể tổ chức chấn chỉnh quản
lý sản xuất, đổi mới công nghệ, nắm vững thông tin, tăng c ường khả năng cạnh tranh
không những trên thị trường quốc tế mà cả trên th ị trường nội địa.
+Thứ năm, nhờ quá trình này còn tạo điều kiện để mở rộng thị trường thương mại
dịch vụ và đầu tư do được hưởng những ưu đãi cho các nước đang phát triển và chậm phát
triển. Các quốc gia được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN), đãi ngộ quốc gia (NT) và
mức thuế quan thấp cho các nước đối tác.
+ Xu thế hội nhập xuất hiện từ những năm 1950, đã và đang phát triển mạnh mẽ
cho tới ngày nay với sự ra đời của hơn 40 tổ chức trong một khu vực và trên thế giới.
Nhận thức được xu thế của thời đại và để động viên được mọi nguồn lực cho sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước, trong đại hội IX của Đảng đã đề ra chủ trương “ Tiếp tục mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế theo lộ trình phù h ợp với điều kiện của nước ta và đảm bảo thực hiện
nh ững cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định
thương mại Việt- Mỹ, tiến tới gia nhập WTO”. Mặt khác “ Tiếp tục chính sách mở cửa và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển, tích cực để chuẩn bị các điều kiện về
kinh tế, thể chế, cán bộ để thực hiện thành công quá trình h ội nhập trên cơ sở phát huy nội
lực, đảm bảo độc lập, tự chủ, bình đẳng và cùng có lợi ”.
+ Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập cũng tạo ra những khó khăn, đặc biệt là đối
với những nước đang phát triển và chậm phát triển về các vấn đề như: giảm thuế quan,
khả năng cạnh tranh các mặt hàng, các chính sách, hệ thống pháp luật.. Do vậy, vấn đề là
ở chỗ các quốc gia phải ứng toán, vận dụng khéo léo các nguyên tắc của tổ chức để vận
dụng vào việc thực thi chính sách vừa phù hợp với quốc tế, vừa bảo hộ và kích thích sự
phát triển của các ngành sản xuất trong từng lĩnh vực cụ thể.
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
II/ Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
1.Khái niệm về tổ chức WTO :
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thành lập ngày 01-01-1995 là kết quả của
vòng đàm phán U-ru-goay kéo dài trong suốt tám năm. Đây là tổ chức quốc tế duy nhất
quản lý luật lệ giữa các quốc gia trong thương mại quốc tế. Nó đ ược thừa kế và mở rộng
phạm vi điều kiện thương mại quốc tế của tổ chức tiền thân là Hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại (GATT). Sự ra đời của tổ chức WTO đã góp phần tiếp tục thể chế
hoá vầ thiết lập trật tự mới của hệ thống thương mại đa phương của thế giới.
2.Cơ cấu của tổ chức WTO :
WTO có một cơ cấu tổ chức hoàn thiện gồm 3 cấp: các cơ quan lãnh đạo chính trị
(decision - making power) bao gồm Hội nghị Bộ trưởng, Đại hội đồng WTO, Cơ quan giải
quyết tranh chấp và Cơ quan kiểm điểm chính sách thương mại; các cơ quan thi hành và
giám sát việc thực hiện các hiệp định thương mại đa phương, bao gồm Hội đồng Thương
mại hàng hoá, Hội đồng Thương mại dịch vụ và Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến
Thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.
+ Hội nghị Bộ trưởng WTO: là cơ quan lãnh đạo chính trị cao nhất của WTO, họp
ít nhất 2 năm 1 lần, thành viên là đại diện cấp Bộ trưởng của tất cả các thành viên. Hội
nghị Bộ trưởng WTO cũng có quyền quyết định về tất cả các vấn đề trong khuôn khổ bất
kỳ một hiệp định đa ph ương nào của WTO.
+ Đại hội đồng WTO: Trong thời gian giữa các khoá họp của Hội nghị Bộ trưởng
WTO, các chức năng của Hội nghị Bộ trưởng WTO do Đại hội đồng (General Council)
đảm nhiệm. Đại hội đồng có quyền thành lập các uỷ ban giúp việc và báo cáo trực tiếp lên
Đại hội đồng là: Uỷ ban về thương mại và phát triển; Uỷ ban về các hạn chế cán cân thanh
toán; Uỷ ban về ngân sách, tài chính và quản trị; Uỷ ban về các hiệp định thương mại khu
vực. Đại hội đồng WTO cũng đồng thời là "Cơ quan giải quyết tranh chấp" (DSB -
Dispute Settlement Body) khi thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp và là "Cơ quan
kiểm điểm chính sách thương mại" (TPRB - Trade Policy Review Body) khi thực hiện
ch ức năng kiểm điểm chính sách thương mại.
+ Các Hội đồng giám sát việc thực thi các hiệp định thương mại đa phương WTO
có 3 Hội đồng (Council) được thành lập để giám sát việc thực thi 3 hiệp định th ương mại
đa phương là Hội đồng GATT, Hội đồng GATS và Hội đồng TRIPS.
+ Tổng giám đốc và Ban Thư ký WTO
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Khác với GATT 1947, WTO có một Ban Thư ký rất quy mô, bao gồm khoảng 500
viên chức và nhân viên thuộc biên chế chính thức của WTO. Đứng đầu Ban Thư ký WTO
là Tổng giám đốc WTO. Tổng giám đốc WTO Bộ trưởng bổ nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm.
Ngoài vai trò điều hành, Tổng giám đốc của WTO còn có một vai trò c hính trị rất quan
trọng trong hệ thống th ương mại đa phương. Chính vì vậy mà việc lựa chọn các ứng cử
viên vào chức vụ này luôn là một cuộc chạy đua ác liệt giữa các nhân vật chính trị quan
trọng, cấp bộ trưởng, Phó Thủ tướng hoặc Tổng thống (Trong số các ứng cử viên vào
ch ức vụ Tổng giám đốc đầu tiên của WTO có ông Salinas, cựu Tổng thống Mê-hi-cô).
3.Thủ tục khi tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO
+ Để có thể tham gia vào tổ chức này thì các quốc gia phải thoả mãn các điều kiện
như: độc lập về chính sách thương mại quốc tế, công khai rõ ràng các số liệu kinh tế,
quốc gia đó phải có nền kinh tế thị trường và có nguyện vọng tham gia trở thành thành
viên và có khả năng đáp ứng yêu cầu trong việc thực hiện các hiệp định trong WTO.
+ Thủ tục gia nhập WTO:
- Hội đồng nội các lập uỷ ban xét duyệt giao cho nước muốn tham gia dự một danh
mục các câu hỏi và d ự thảo nghị định gia nhập WTO.
- Trên cơ sở báo cáo trả lời câu hỏi, chủ tịch uỷ ban sẽ triệu tập các thành viên và
nước muốn tham dự để bàn bạc, tìm hiểu và đặt thêm các câu hỏi (nếu có).
- Nước muốn tham gia đàm phán về điều kiện gia nhập và ưu đãi thuế quan với các
nước thành viên. Các nước muốn tham gia nộp đ ơn lên tổng giám đốc WTO. Uỷ ban xét
duyệt đệ trình lên hội đồng chung để phê duyệt. Quốc gia nộp đơn trở thành thành viên
khi được sụ đồng ý của ít nhất 2/3 số thành viên hiện có và được quốc hội nước đó thông
qua.
+ Lợi thế của các nước khi là thành viên của WTO
WTO với tư cách là một tổ chức quốc tế của tất cả các nước trên thế giới vói mục
đích là nâng cao mức sống của nhân đân thành viên các nước, sử dụng một cách có hiệu
quả nhất các nguồn lực của thế giới, đảm bảo việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
thương mại.
- Các thành viên khi tham gia vào tổ chức này sẽ đ ược hưởng quy chế tối huệ quốc
(MFN) quy chế đối xử quốc gia (NT), mức thuế quan đặc biệt đối với từng thành viên khi
xuất nhập khẩu. Như vậy, các quốc gia này có thể chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu
các mặt hàng có lợi thế, thúc đẩy tăng trưởng hành hoá, dịch vụ. Đối với các nước đang
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
phát triển được chế độ ưu đãi do WTO quy định, được phép bảo hộ những ngành nghề
còn non yếu cao hơn các nước đang phát triển.
- Mặt khác, các thành viên của tổ chức còn được giải quyết mọi bất đồng, tranh
chấp thương mại trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa phương, phù hợp với các
nguyên tắc c ơ bản của công pháp quốc tế, đảm bảo cho các n ước đang phát triển và các
nước kém phát triển nhất được hưởng những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương
mại quốc tế phù h ợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước này và khuyến khích các
nước ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
- Hơn nữa, WTO có chức năng là cơ chế kiểm điểm các chính sách thương mại của
các nước thành viên để đảm bảo thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hoá thương mại, tuân
thủ các quy định của WTO và quy định này được áp dụng đối với tất cả các thành viên.
Điều này giúp cho các thành viên của tổ chức thuận lợi cho việc thoả thuận thương mại,
giao lưu buôn bán, thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, du lịch và đem lại lợi ích
cho đông đảo người dân được hưởng những thành quả của tiến bộ khoa học công nghệ với
giá rẻ nhất.
4/ Nền kinh tế của Trung Quốc trước khi gia nhập WTO :
Trung Quốc là một đất nước có diện tích 9.597.000 km2, đứng thứ tư sau Liên
Bang Nga (17.075.000 km2), Canada (9.971.000 km2) và Mỹ (9.629.000 km2), gấp 30 lần
so với diện tích nước ta. Dân số giữa năm 2000 khoảng 2.264,5 triệu người, đông nhất
thế giới, chiếm 20,8% dân số toàn cầu, gấp hơn 15 lần dân số Việt Nam. Tỷ lệ dân số
thành thị năm 2000 của Trung Quốc là 31% cao hơn tỷ lệ 23,5% của Việt Nam. Tỷ lệ lao
động nông nghiệp năm 1998 của Trung Quốc là 47,5% thấp h ơn tỷ lệ 70% của Việt Nam.
Sau 20 năm cải cách kinh tế, ngoại thương của Trung Quốc đã vươn lên từ vị trí thứ
32 lên vị trí thứ 7 trên thế giới, kim ngạch xuất khẩu tăng 10 lần. Năm 2001 vừa qua,
tổng thu nhập quốc dân (GNP) của Trung Quốc đạt 1.190 tỷ USD. Theo số liệu của hải
quan Trung Quốc, riêng năm 2000, kim ngạch xuất khẩu ngoại thương của Trung Quốc
đạt 474 tỷ USD với mức xuất siêu 24 tỷ USD. Trung Quốc cũng đứng đầu về xuất khẩu
trong nhóm các nước đang phát triển. Khoảng một nửa kim ngạch đ ược thực hiện dưới
hình thức “ thầu lại” nghĩa là Trung Quốc mua nguyên vật liệu để chế biến rồi tái xuất.
Trong 20 năm qua, GDP c ủa Trung Quốc đ ã tăng 16 lần. Tổng sản phẩm trong n ước
(GDP) của Trung Quốc năm 1999 đạt 8.205,4 tỷ NDT, tính theo tỷ giá hối đoái bình quân
(được duy trì trong 5 năm liền ) là 8,28 NDT/USD thì GDP của Trung Quốc đạt xấp xỉ
1.000 USD, gấp hơn 35 lần của Việt Nam (28,54 tỷ USD).
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Trung Qu ốc là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất Châu A', quốc gia
có thị trường nội địa lớn nhất thế giới. Năm 2000, thu nhập hàng năm trên một đầu người
của Trung Quốc chỉ đạt 850 USD so với 9.000 USD của Hàn Quốc và 35.000 USD c ủa
Nhật Bản. Trung Quốc có tương đối nhiều lợi thế: lao động dồi dào, quy mô dân số lớn
cho nên nhu cầu còn rất lớn; tài n guyên phong phú, đa dạng, có chế độ chính trị ổn định;
có hệ thống chính sách theo hướng cởi mở.
Từ đầu những năm 90, Trung Quốc đã chiếm vị trí thứ hai trên thế giới về thu hút
đầu tư nư ớc ngoài, chỉ sau Mỹ. Trung Quốc là nơi thu hút được nhiều vốn đầu tư nước
ngoài, bình quân thời kỳ 1995 -2000 lên đến 41 tỷ USD/năm, chiếm 70% tổng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài từ Châu Âu, Bắc Mỹ vào Đông Á. Trung Quốc cũng là nước có tỷ lệ
vốn đầu tư phát triển so với GDP khá cao. Cộng kim ngạch xuất khẩu với đầu tư nước
ngoài, Trung Quốc trở thành nước đứng thứ hai thế giới về dự trữ ngoại tệ (sau Nhật Bản)
với hơn 165 tỷ USD.
Theo cơ quan thống kê, trong nửa đầu năm nay, nền kinh tế Trung Quốc tăng 7,9%
so với cùng kỳ năm ngoái. Ông Yiping Huang - một chuyên gia kinh tế của Salomon
Smith Barney (tập đoàn cung cấp các dịch vụ quản lý tài sản, đầu tư ngân hàng và môi
giới chứng khoán toàn cầu), tại Hồng Kông cho biết: "Việc đầu tư trực tiếp tăng cùng với
khả năng gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong tương lai gần cũng có thể
giúp tăng trưởng kinh tế tăng thêm 1%. Khi Trung Quốc gia nhập WTO sẽ giúp cho các
nhà xuất khẩu lớn của Trung Quốc thâm nhập thị trường nước ngoài. Nó cũng sẽ cho phép
nhiều công ty nước ngoài giành được lợi thế ”.
Với việc thành công trong cuộc đua giành quyền đăng cai Olympic 2008 sẽ giúp tỷ
lệ tăng trưởng kinh tế Trung Quốc tăng thêm từ 0,3% đến 0,4%. Đây là một dấu hiệu
đáng mừng về tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc. Để thúc đẩy tiêu dùng nội địa,
Chính phủ Trung Quốc hiện đang tăng chi tiêu xây dựng các công trình công cộng và tăng
lương cho các viên chức.. Nhà nước có kế hoạch phát hành 150 tỷ NDT trái phiếu nội địa
trong năm nay cho các quỹ việc làm công cộng, hy vọng tạo được nhiều việc làm và duy
trì chi tiêu xã h ội
5/ Những thuận lợi và khó khăn đối với Trung Quốc khi là thành viên c ủa -WTO
a/ Nh ững thuận lợi đối với Trung Quốc khi gia nhập WTO :
Tự do hoá thương mại và đầu tư, về lý thuyết, luôn là động lực phát triển cho bất
kỳ nền kinh tế nào tham gia vào quá trình đó. Nền kinh tế Trung Quốc không phải là một
ngoại lệ. Mặc dù cần có thời gian để có những tính toán định lượng chính xác những lợi
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
ích và thách thức do việc trở thành thành viên WTO đem lại, song hiện thời, bằng quan sát
thực chứng đã có thể thấy những ảnh hư ởng lớn trên cả cấp độ vĩ mô và vi mô.
+ Trung Quốc sẽ được tham gia quy tắc mậu dịch quốc tế và được hưởng quy chế
tối huệ quốc một cách rộng rãi. Sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO có thể làm
giảm sự hạn chế về tính kỳ thị đơn phương của các nước phương tây góp phần cải thiện
môi trư ờng bên ngoài và xúc tiến quan hệ mậu dịch. Có thể thâm nhập tham gia phân
công quốc tế, điều này có lợi cho quốc tế hoá sản phẩm.
+ Lợi ích tiếp theo mà Trung Quốc thu được từ việc gia nhập WTO là nâng cao
hiệu quả nền kinh tế trên cơ sở hình thành một môi trường cạnh tranh bình đẳng. Một thị
trường kinh doanh lành mạnh, không phân biệt các chủ thể kinh tế tham gia vào đó là
động lực khiến cho nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng nâng cao khả
năng cạnh tranh và phát huy tối đa những lợi thế so sánh mà Trung Quốc vốn có.
+ Ba là, xét trên góc độ ngắn hạn và trung hạn, tự do hoá thương mại và đầu tư sẽ
góp phần đẩy nhanh thêm tiến trình tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc. Tự do hoá
thương mại, cũng có nghĩa là giảm thuế nhập khẩu và các hạn chế nhập khẩu khác khiến
giá cả trên thị trường nội địa sẽ rẻ hơn, người tiêu dùng Trung Quốc sẽ có lợi và kích
thích nhu cầu đầu tư và nhu cầu trong nước. Hệ quả là, nhu cầu đầu tư và tiêu dùng sẽ
kích thích sản xuất trong nước phát triển.
+ Một thuận lợi khác của việc gia nhập này là nền kinh tế Trung Quốc sẽ ít bị tổn
thương, b ị tấn công bởi những hành vi bảo vệ mậu dịch hoặc trừng phạt kinh tế bởi các
quốc gia khác trong trưòng hợp có tranh chấp kinh tế , thương mại hay những lý do chính
trị nào đó.
+Việc gia nhập và các cam kết thực hiện các nguyên tắc tự do hoá th ương mại,
Trung Quốc đã khẳng định đường lối nhất quán trong công cuộc cải cách mở cửa, tiến
thêm một b ước mới về chất trong việc hoàn thiện môi trường đầu tư kinh doanh của mình.
b/ Khó khăn đối với Trung Quốc khi gia nhập WTO :
Tuy vậy, không thể phủ nhận được rằng gia nhập WTO, cũng nh ư những nền kinh
tế đang phát triển khác Trung Quốc sẽ gặp phải những bất lợi nhất định.
+ Khi gia nhập, toàn bộ thể chế kinh tế sẽ có sự chuyển đổi về căn bản. Mặc d ù 20
năm qua là bước chuẩn bị khá lớn, nh ưng những chuẩn bị đó chủ yếu tập trung vào những
lĩnh vực có liên quan đến hoạt động kinh tế đối ngoại, phục vụ cho chiến lược kinh tế
hướng vào xuất khẩu. Trung Quốc sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi đối mặt với các đối thủ
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
cạnh tranh hùng mạnh khác. Chẳng hạn, nếu khuôn khổ pháp lý của Trung Quốc không
phù hợp với khuôn khổ pháp lý quốc tế, các doanh nghiệp của Trung Quốc sẽ không đ ược
bảo vệ khi xảy ra tranh chấp thương mại.
+ Thách thức lớn tiếp theo là nh ững vấn đề nảy sinh từ việc thúc đẩy nhanh chóng
tiến trình cải cách khu vực kinh tế quốc doanh, chủ yếu là trong lĩnh vực công nghiệp và
dịch vụ. Cải cách sẽ khiến cho tốc độ tăng trưởng trong công nghiệp chậm lại trong một
thời gian, một phần đầu tư do nhà nước vào khu vực này giảm, phần nữa là những xí
nghiệp yếu kém sẽ phải thu hẹp sản xuất, đóng cửa hoặc chuyển đổi sang những lĩnh vực
kinh doanh mới.
+ Những thách thức trong nông nghiệp thậm chí có thể còn nghiêm trọng hơn trong
công nghiệp. Khi các rào cản thương mại bị loại bỏ hoặc giảm thiểu, nông sản nhập khẩu
từ Mỹ và Châu Âu với giá thấp hơn sẽ khiến nền kinh tế nông thôn Trung Quốc bị một
sức ép rất lớn, hàng triệu hộ nông dân với tư cách là các đơn vị kinh doanh nông nghiệp
có thể bị phá sản. Số người này sẽ đi chuyển về các thành phố công nghiệp, càng gia tăng
sức ép lên vấn đề thất nghiệp. Chính phủ sẽ phải đối phó với các vấn đề xã hội gay gắt mà
hiện có chưa thể đánh giá một cách đầy đủ.
6/ Những ảnh hưởng đối với quan hệ kinh tế - thương mại Việt - Trung khi
Trung Quốc gia nhập WTO:
Đối với Việt Nam, việc Trung Quốc gia nhập WTO có ảnh h ưởng nhất định đến
tình hình phát triển kinh tế của kinh tế Việt Nam, trong đó có vấn đề xuất khẩu v à thu hút
vốn đầu tư nước ngoài, cũng như quan hệ song phương giữa hai nước:
+ Một là, về quan hệ song phương giữa hai nước. Từ khi bình thường hoá quan hệ
năm 1991 đến nay, mối quan hệ Việt - Trung đã có b ước phát triển vượt bậc. Nhìn về cơ
cấu hàng hoá xuất khẩu trong thời gian qua giữa hai n ước cho thấy: Việt Nam chủ yếu
xuất khẩu nguyên vật liệu, nông, lâm, hải sản chưa qua chế biến; còn ch ưa nhập khẩu chủ
yếu là máy móc thiết bị, hàng tiêu dùng và hàng hoá đã gia công chế biến. Cơ cấu hàng
hoá nói trên có tính bổ sung cho nhau tương đối rõ nét. Vì vậy, sau khi Trung Quốc gia
nhập WTO, tính bổ sung trên vẫn còn duy trì trong một thời gian. Tuy nhiên, do Việt Nam
chưa được hưởng những ưu đãi của nước thành viên nên nếu muốn tăng tổng kim ngạch
buôn bán hai chiều lên gấp đôi trong thời gian 2001 - 2005 thì các ngành hữu quan hai
nước cần phải có chính sách, biện pháp hữu hiệu h ơn mới thực hiện được. Điều đáng chú
ý ở đây là ngoài buôn bán chính ngạch, giữa hai nước còn có buôn bán tiểu ngạch biên
giới, tỷ lệ giữa hai hình th ức này c ũng dao động trong khoảng 50% - 60%. Với đ ường
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
biên giới đất liền dài 1350 km và đường biên giới biển, đi lại dễ dàng, nếu không có sự
quản lý tốt thì hàng hoá phương Tây với ưu thế về chất lượng và giá cả một khi đã thâm
nhập thị trường Trung Quốc sẽ rất dễ dàng tràn qua biên giới vào Việt Nam, gây nhiều
khó khăn cho các nhà sản xuất Việt Nam.
+ Hai là, ảnh hưởng đến lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam. Theo các chuyên gia,
hiện tại cả Việt Nam và Trung Quốc cùng có một số mặt hàng xuất khẩu chủ chốt được
tiêu thụ tại các thị trường Mỹ, Nhật, EU, ASEAN v.v..như: hàng dệt may, giầy dép, gốm
sứ và hàng điện tử .. Đây là những mặt hàng Trung Quốc chiếm ưu thế cả về khối lượng
lẫn thị phần, còn hàng Việt Nam có điểm yếu là giá thành cao do giá đầu vào cao. Khi
Trung Quốc gia nhập WTO, nước này sẽ được hưởng ưu đãi thuế quan, hạn ngạch xuất
khẩu, nhất là tại các thị trường Mỹ, Nhật, EU, thì những mặt hàng cùng chủng loại của
Việt Nam sẽ rất khó cạnh tranh với hàng hoá Trung Quốc. Đó là chưa tính đến việc khi
đồng Nhân Dân Tệ (NDT) nếu được tự do chuyển đổi, tỷ giá hối đoái của nó sẽ th ường
xuyên dao động, làm cho sức cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc càng được nâng cao ở
trên thị trường thế giới.
+ Ba là, ảnh hưởng trong lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài. Hơn 20 năm qua, nhờ
thực hiện chính sách cải cách mở cửa, Trung Quốc đã trở thành quốc gia lớn nhất trong số
các nước đang phát triển và thứ hai trên thế giới trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Khi
gia nhập WTO, môi trường đầu tư của Trung Quốc cả về “môi trường cứng” (cơ sở hạ
tầng) lẫn “môi trường mềm” (cơ chế chính sách) sẽ được cải thiện h ơn nữa, Trung Quốc
sẽ trở thành một “điểm nóng ” thu hút đầu tư nước ngoài của thế giới. Đây cũng là một cơ
hội tốt cho các nhà đầu tư của một số n ước Đôn g Nam Á khi đến đầu tư tại Trung Quốc.
Khi các nhà đầu tư nước ngoài đến Trung Quốc nhiều hơn, thị trường Trung Quốc cũng sẽ
cần nhiều hơn các nguyên liệu cho sản xuất. Như vậy, các nước Đông Nam Á có điều kiện
xuất khẩu nhiều h ơn các nguyên liệu như xăng dầu, than đá, cao su.. cho thị trường khổng
lồ này. Nhưng mặt khác, cũng cần thấy rằng sức “hấp dẫn” của Trung Quốc cũng sẽ tao
nên một sự cạnh tranh đối với các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
PHẦN II: THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM VỀ VẤN ĐỀ XUẤT KHẨU KHI
TRUNG QUỐC GIA NHẬP WTO
I/ Thực trạng về xuất khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc trong những năm
gần đây:
Là một quốc gia lớn mạnh có nhiều điểm tương đồng trong cơ cấu phát triển kinh
tế trong nhiều năm trở lại đây, Trung Quốc đã và đang là mộ t đối tác quan trọng nhưng
đồng thời cũng là một đối thủ cạnh tranh khá mạnh của các nước ASEAN, trong đó có
Việt Nam. Việc quốc gia này chính thức trở thành thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) trong thời gian này sẽ là một thách thức không nhỏ đối với các
ngành kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là đối với hoạt động xuất khẩu.
- Nhìn chung, vấn đề xuất khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc tăng mạnh trong 10
năm qua. Hoạt động ngoại thương giữa hai nước được thực hiện thông qua nhiều ph ương
thức khác nhau như buôn bán chính ngạch, buôn bán tiểu ngạch, tạm nhập tái xuất, trong
đó buôn bán chính ngạch và tiểu ngạch là hai phương thức chính.
+ Về xuất nhập khẩu chính ngạch: Kể từ năm 1991 đến nay, quan hệ buôn bán
giữa hai nước tăng khá đều từ 272 triệu USD năm 1991 lên 1400 triệu USD năm 2000.
Kim ngạch này bằng khoảng 0,4% tổng kim ngạch ngoại th ương của Trung Quốc nhưng
lại xấp xỉ 10% tổng kim ngạch ngoại th ương của Việt Nam. Năm 2000, tổng kim ngạch
buôn bán hai chiều đạt 2,957 tỷ USD (thoả thuận giữa hai chính phủ là 2 tỷ USD), tăng 78
lần so với năm 1991, trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 1,534 tỷ
USD.
Riêng 6 tháng đầu năm 2001, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc
đạt 794,1 triệu USD với mức tăng trưởng là 30%. Cùng với việc phát triển các mối quan
hệ Việt Nam và Trung Quốc, c ơ cấu xuất nhập khẩu cũng phất triển theo. Hàng hoá của
Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc gồm 4 nhóm chính: nhóm h àng nguyên liệu, nhóm
hàng nông sản, nhóm hàng thuỷ sản tươi sống, thuỷ sản đông lạnh và nhóm hàng tiêu
dùng. Trong 7 thàng đầu năm 2001, Việt Nam đã xuất sang Trung Quốc 153 triệu USD
hàng hải sản, 126 triệu USD hàng rau quả, 11 triệu USD hàng dệt may và 3,2 triệu USD
hàng giầy dép. Hàng hoá của Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc gồm 5 nhóm mặt hàng
chính là: Dây chuyền sản xuất đồng bộ; máy móc thiết bị; nguyên nhiên liệu; mặt hàng
nông sản và hàng tiêu dùng như sản phẩm điện tử, xe máy, quần áo, đồ chơi trẻ em..
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Kim ngạch XNK hàng hoá Việt Nam - Trung Quốc thời kỳ
1991 -2000 (Đơn vị: Triệu USD)
Tổng kim Việt Nam Việt Nam
Năm
ngạch xuất nhập
1991 37.7 19.3 18.4
1992 127.4 95.6 31.8
1993 221.3 135.8 85.5
1994 439.9 295.7 144.2
1995 691.6 361.9 329.7
1996 669.2 340.2 329
1997 878.5 471.1 407.4
1998 989.4 478.9 510.5
1999 1542 .3 858.9 683.4
2000 2957 1534 1423
Nguồn: Hải quan Việt Nam (Trung tâm tin học v à thống kê)
+ Về xuất khẩu tiểu ngạch: Buôn bán qua biên giới là một bộ phận đáng kể trong
tổng kim ngạch giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong 10 năm qua, ở những năm đầu tỷ lệ
dao động giữa buôn bán chính ngạch và buôn bán tiểu ngạch thường là ở mức từ 50% -
60%. Vào thời gian này, không chỉ chiếm tỷ trọng lớn, xuất nhập khẩu tiểu ngạch còn góp
phần đáp ứng trao đổi của dân cư hai nước, cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân khu vực
biên giới.
+ Về đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam, tính đến hết 9 tháng năm
2001, Trung Quốc mới có 136 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 196 triệu USD,
đứng thứ 28 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào nước ta. Vốn đầu tư bình quân
của một dự án Trung Quốc mới chỉ ở mức 1,4 triệu USD, tương đương 10% mức bình
quân của các dự án n ước ngoài tại Việt Nam.
II/ Thách thức đối với việc xuất khẩu của Việt Nam:
1.Xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc và các thị trường thứ ba
khác khi Trung Quốc gia nhâp WTO:
a/ Ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường thứ ba: Ngay cả
khi Trung Quốc chưa ký được thoả thuận thương mại với Mỹ và Châu Âu thì hàng hoá
xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc và các thị trường khác trong khu vực cũng bị
hàng Trung Quốc cạnh tranh quyết liệt. Theo ban thư ký của ASEAN, kết quả chung của
nh ững ảnh hưởng này là kim ngạch xuất khẩu Việt Nam sẽ giảm khoảng 8 triệu USD, tức
là gần 0,05%kim ngạch xuất khẩu năm 2000. Nếu chia đều cho các nhóm hàng thì bị cạnh
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
tranh nhiều nhất là hàng dệt may và giầy dép, kim ngạch của các ngành này sẽ giảm
khoảng 0,3%.
Đối với các mặt hàng tiềm năng của Việt Nam ngoài sản phẩm điện tử thông
thường, mặt hàng điện tử viễn thông và tin học. Mặc dù những sản phẩm này trên thị
trường quốc tế, song cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt. Trong cơ cấu xuất khẩu
của Việt Nam, xuất khẩu vào thị trường Mỹ chỉ chiếm 4%, trong khi tỷ trọng n ày của
Trung Quốc khi chưa ký thoả thuận thương mại là 30% tổng kim ngạch xuất khẩu. Việc
Trung Quốc là thành viên của WTO càng giúp cho Trung Quốc có thêm khả năng cạnh
tranh tăng nhanh xuất khẩu, trở thành đối thủ nặng ký trong việc thu hút đầu tư nước
ngoài vào khu vực.
Với tư cách là nước đang phát triển, khi vào WTO, Trung Quốc sẽ được hưởng ưu
đãi khi xuất khẩu hàng hoá vào thị trường các nước phát triển. Điều này cũng có nghĩa là
Việt Nam sẽ vấp phải sự cạnh tranh mạnh khi xuất khẩu sang Trung Quốc cũng như 141
thành viên khác của WTO, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp ngành may mặc, giầy dép,
hải sản, gạo, gốm sứ, chè, rau quả, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm điện tử, sản phẩm gỗ.
Việt Nam chưa là thành viên của WTO nhưng Việt Nam cũng đạt được các thoả thuận về
quy chế tối huệ quốc với những nước này. Đối với thị trường Hoa Kỳ, bất lợi cạnh trạnh
không phải là do Trung Quốc gia nhập WTO mà do hàng hoá Trung Qu ốc được h ưởng
thuế suất tối huệ quốc còn Việt Nam thì ch ưa. Vì vậy Hiệp định Việt - Mỹ được phê
chuẩn vào tháng 12/2001 vừa qua thì những bất lợi trên bị triệt tiêu.
Một thuận lợi khác mà Trung Quốc có được với tư cách là thành viên của WTO, họ
sẽ có một vị thế ngang hàng với các nước khác khi có các vụ tranh chấp liên quan đến
hoạt động xuất khẩu mà gần đây nhiều nước tiên tiến, nhất là Mỹ, thường tố cáo Trung
Quốc bán phá giá khi hàng xuất khẩu của nước này tăng mạnh. Đối với Việt Nam không
phải từ năm 2005 trở đi thì Việt Nam mới chịu sức ép của việc Trung Quốc gia nhập
WTO mà ngay trong một, hai năm tới nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam sẽ “cảm
nhận” được ngay áp lực này.
Trước hết, để đ ược gia nhập WTO Trung Quốc đã phải chấp nhận đẩy mạnh cải
cách pháp luật, cải cách hành chính, cải cách thuế, tạo thuận lợi cho môi trường kinh
doanh. Hơn n ữa, thị trường Trung Quốc mở rộng cho hàng hoá nước ngoài vào nhiều hơn,
buộc các doanh nghiệp Trung Quốc phải cơ cấu lại sản xuất, chấp nhận cạnh tranh để sinh
tồn. Có thể nói, mở cửa, chấp nhận cạnh tranh, mới là biện pháp hữu hiệu nhất bảo hộ cho
nền kinh tế của mỗi nước. Tất cả những điều trên sẽ “mài dũa” bản lĩnh, khả năng cạnh
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
tranh trên bình diện quốc tế của các doanh nghiệp Trung Quốc. Đây cũng là một sức ép
đối với Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như giầy dép, dệt may
đều là thế mạnh xuất khẩu của Trung Quốc. Cho dù hạn ngạch của các n ước dành cho
Việt Nam không giảm nhưng nếu sức cạnh tranh của hàng Trung Quốc tốt hơn, phù hợp
với thị hiếu hơn th ì các nhà nhập khẩu có thể sẽ chuyển đơn đặt hàng từ doanh nghiệp
Việt Nam sang doanh nghiệp Trung Quốc. Khi Trung Quốc gia nhập WTO th ì các thị
trường lớn như EU, Nhật Bản không có lý do gì để sử dụng hàng rào mậu dịch đối với
hàng Trung Quốc.
Trong cuộc hội thảo bàn về những tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO
ngày 05/ 03/ 2001 tại Hà Nội TS Nguyễn Trí Thành - Viện nghiên cứu quản lý trung ương
cho biết: “Thực chất cuộc cạnh tranh giữa hàng hoá Việt Nam và Trung Quốc là cuộc
cạnh tranh để đạt đến một thể chế kinh tế tốt h ơn. Đó là cuộc cạnh tranh để giảm những
chi phí không trực tiếp, tăng cường tính minh bạch và gảm thiểu tham nhũng. Một vấn đề
khác được đặt ra là trong trường hợp Việt Nam và Trung Quốc cùng được hưởng một điều
kiện mậu dịch tương tự, cùng tiêu thụ ở một thị trường nh ư nhau thì dường như Trung
Quốc chiếm ưu thế tuyệt đối về cạnh tranh đối với những mặt hàng chủ chốt. Những lợi
thế của Trung Quốc đ ược nhìn nhận là vốn, nguồn tài nguyên, nguồn nhân lực”. Từ đây
có thể dự đoán trước rằng, hàng hoá kể cả những mặt hàng có thế mạnh ở Việt Nam như
thu ỷ sản, nông sản, chế biến, dệt may, da -giầy... cạnh tranh rất vất vả với hàng hoá Trung
Quốc khi xuất khẩu sang nước thứ ba.
b/ Ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc:
Khi Trung Quốc gia nhập WTO thì các nước thành viên của tổ chức này có thể xuất
khẩu sang thị trường Trung Quốc một cách dễ dàng hơn bởi mức thuế giảm. Điều này gây
khó khăn cho Việt Nam khi xuất khẩu sang Trung Quốc bởi Việt Nam chưa là thành viên
của WTO và hàng hoá của Việt Nam cũng khó có thể cạnh tranh được với hàng hoá các
nước khác. Một thách thức không nhỏ khác là hàng Trung Quốc nhập khẩu vào Việt Nam
sẽ gia tăng trong thời gian vừa qua. Hàng Trung Quốc với giá rẻ, mẫu mã đẹp, hợp túi tiền
và thị hiếu của đa số dân cư Việt Nam. Nay để cạnh tranh với hàng hoá nước ngoài, Trung
Quốc phải nâng cao hiệu quả, giá cả lại rẻ hơn th ì lại càng dễ xâm nhập vào thị trường
Việt Nam. Mặt khác, quy mô kinh tế của Trung Quốc cũng tiếp tục tăng nhanh làm cho
quy mô xuất khẩu cũng gia tăng theo và Việt Nam cũng là thị trường để Trung Quốc xuất
khẩu thuận lợi.
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Kinh nghiệm của Trung Quốc về việc xuất khẩu trong thời gian qua là không quá
coi trọng thu lãi quá việc bán với giá cao mà lại coi trọng việc sản xuất, tiêu thụ đ ược
nhiều sản phẩm để tận dụng công suất thiết bị, lao động, vốn vay, kho tàng, chi phí quản
lý để giảm chi phí khấu hao, tiền công, tiền lãi vay, chi phí quản lý, bảo quản trên một đơn
vị sản phẩm, quay vòng vốn nhanh, khi cần có thể bán dưới giá chịu lỗ còn hơn là không
thu hồi được vốn. Điều này c ũng làm cho các ngành sản xuất của Việt Nam phải khốn đốn
nhiều phen. Một số mặt hàng của Trung Quốc nếu tiêu th ụ trong nước thì phải nộp thuế,
nếu bán ở nước ngoài thì không phải nộp thuế nên giá rẻ hơn khi bán trong nước. Mặc dù
vậy, trong bối cảnh về xuất khẩu, Việt Nam cũng có những mặt hàng có lợi thế riêng như
nông sản nhiệt đới, chế biến hải sản, một số cây công n ghiệp như cao su, cà phê. Vì thế
trong buôn bán song phương giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc cũng không bị ảnh
hưởng nhiều.
Theo bà Pan-Jine - Học viện kinh tế chính trị thế giới - Viện sỹ khoa học xã hội
Trung Quốc cho biết: “Kim ngạch buôn bán giữa hai nước là hơn 2 tỷ đô la, thực ra th ì
theo tôi những người làm công tác nghiên cứu kinh tế hai nước thì không gian phát triển
kinh tế mậu dịch còn rất lớn. Trung Quốc gia nhập WTO thì với Việt Nam có thể có cơ
hội nhiều hơn thách thức vì Trung Quốc xuất hàng sang Việt Nam tức là cũng phát triển
khả năng nhập hàng của Việt Nam”. Việt Nam còn có lợi thế riêng vì là thành viên của
ASEAN, cụ thể là về thuế quan khi đang nằm trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA). Vì Trung Quốc không phải là thành viên của AFTA mặc dù ý tưởng thành lập
AFTA mở rộng Trung Quốc đã đề xuất nhưng cho đến nay chưa thực hiện được thì có
nh ững mặt khi vào WTO trong khuôn khổ AFTA chỉ còn 5% ví dụ như là hàng điện tử
trong khi đó WTO là 25% cho nên Việt Nam hoàn toàn là có lợi thế để có thể vượt Trung
Quốc trong lĩnh vực này.
“ Sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc quá cao” đã gây ra sức ép cạnh tranh to
lớn về nhiều mặt đối với nền kinh tế các nước Đông-Á, vùng kinh tế các nước ASEAN
phải đứng mũi chịu sào, tranh giành với Trung Quốc sự đầu tư trực tiếp từ phía bên ngoài
và giao chiến trực diện với Trung Quốc để giành lấy thị trường xuất khẩu hàng hoá. Mọi
người đều biết sự tăng trưởng xuất khẩu mạnh như vũ bão của Trung Quốc là một bộ phận
không thể thiếu được của sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của nó. Nói một cách rõ hơn, sự
mở rộng mậu dịch nhanh chóng của Trung Quốc là kết quả của sự đầu tư to lớn, trực tiếp
từ bên ngoài vào, nhất là sau năm 1990, Trung Quốc thu hút đầu tư thành công khi còn
chưa là thành viên c ủa WTO, quy mô thu hút vốn của Trung Quốc đã hơn hẳn tổng số của
các nước Châu-Á gộp lại. Theo ông Pi-chai - n gười sẽ là tổng thư ký WTO trong nhiệm
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
kỳ tới dự đoán: “sau khi Trung Quốc gia nhập WTO sẽ có khoảng 10% d òng chảy FDI
chuyển từ ASEAN sang Trung Quốc”. Vấn đề này cũng là một thách thức không nhỏ đối
với Việt Nam. Vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam kém sức cạnh tranh hơn là vào Trung
Quốc để sản xuất hàng hoá xuất khẩu vào các nước thành viên WTO.
Trong thực tế, Trung Quốc đã có sức cạnh tranh lớn h ơn do giá đất ở đây rẻ hơn
nhiều nước. Vấn đề đầu tư này ảnh hưởng đến c ơ cấu sản xuất, do vậy ảnh hưởng đến vấn
đề xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới. Ngay như Nhật Bản, nền kinh tế đứng thứ
hai trên thế giới cũng phải thực hiện các biện pháp thuế quan để ngăn chặn các “đợt lũ”
hàng Trung Quốc. Cùng với những cộng hưởng tích cực của việc Trung Quốc trở thành
thành viên của WTO sẽ là một nhân tố bất ngờ tác động đến nền kinh tế của các nước láng
giềng nói chung và Việt Nam nói riêng.
Trong cuộc cạnh tranh về vấn đề xuất khẩu, Trung Quốc có nhiều lợi thế so sánh
mà các nhân tố tạo nên lợi thế so sánh của Trung Quốc bao gồm điều kiện tự nhiên và
điều kiện xã hội:
+ Theo nghiên c ứu gần đây của Viện nghiên cứu kinh tế thế giới, Trung Quốc hiện
có khá nhiều lợi thế so sánh tương đồng với Việt Nam, dồi dào về đất đai, tài nguyên tự
nhiên, nhân lực, có quy mô thị trường lớn do đông dân. Hai nước có những nét tương
đồng về lịch sử, văn hoá, chính trị, kinh tế, xã hôi.. nên những biến động của Trung Quốc
đều được người dân Việ t Nam cảm thụ và tiếp nhận một cách dễ dàng. Tuy nhiên, Trung
Quốc vượt h ơn hẳn về quy mô và số lượng so với Việt Nam, cộng với mức vốn tích luỹ
trong nước luôn tăng mạnh khoảng xấp xỉ 40% GDP.
+ Mặt khác, xét về cơ cấu sản xuất, Trung Quốc có khá nhiều mặt trùng với Việt
Nam, đãng chú ý là các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Trung Quốc như dệt may, giầy
dép, hàng điện tử, đồ gốm sứ cũng lại là những mặt hàng xuất khẩu chủ chốt của Việt
Nam với thị trường tiêu thụ trọng điểm Nhật, Liên minh Châu Âu (EU), Mỹ..
+ Chi phí sản xuất các mặt hàng xuất khẩu nói chung tại Việt Nam thường cao hơn
so với Trung Quốc bởi phần lớn nguyên vật liệu Việt Nam phải nhập khẩu trong khi
Trung Quốc hầu như tự túc hoàn toàn. Chẳng hạn như mặt hàng may, đến nay Việt Nam
mới chỉ sử dụng khoảng 15%-20% nguyên liệu trong nước, còn hàng dệt thì hầu như là
phải nhập nguyên vật liệu ngoại hoàn toàn.
+ Một vấn đề nữa mà Việt Nam cũng cần quan tâm đó là sự dao động tỷ giá của
đồng nhân dân tệ (NDT), tức thời sẽ biến động đột ngột so với giá đô la, mà thông thường
lại là giảm. Khả năng cạnh tranh hàng Trung Quốc tăng vọt, thị phần hàng xuất khẩu theo
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
đó cũng tăng theo, còn về lâu dài khi đồng tiền chuyển đổi tự do tỷ giá NDT sẽ thường
xuyên dao động trên thị trường thế giới, tạo ra những biến động khó dự đoán về thị trường
hàng hoá.
Trên đây là những lý do chính góp phần lý giải phần nào câu hỏi vì sao Trung Qu ốc
gia nhập WTO lại ảnh hưởng tới Việt Nam, đặc biệt là về vấn đề xuất khẩu.
2. Thách thức đối một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam:
a/ Dệt may :
Dệt may là một trong những ngành chịu nhiều áp lực nhất của Việt Nam sau khi
Trung Quốc gia nhập WTO. Theo dự báo của Bộ Thương mại, từ nay đến năm 2005 việc
Trung Qu ốc gia nhập WTO chưa làm thay đổi nhiều tới xuất khẩu hàng may mặc của Việt
Nam. Tuy nhiên, từ năm 2005 trở đi, hàng may mặc Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt
với hàng may mặc Trung Quốc ở các thị trường lớn như EU, Mỹ.
Năm 2001 xuất khẩu hàng dệt may đạt 2,150 tỷ USD, trong đó tập trung chủ yếu
vào thị trường EU và Nhật Bản, còn với thị trường Mỹ thì rất khiêm tốn (chỉ vào khoảng
70 triệu USD). Đến năm 2005, ngành dệt may quyết tâm đạt được kim ngạch xuất khẩu 4
- 4,5 tỷ USD (trong đó thị trường Mỹ đạt từ 1 - 1 ,5 tỷ USD, thị trường Nhật 1 - 1,2 tỷ
USD, thị trường Châu Âu 1 -1,2 tỷ USD); tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm xuất khẩu
đạt từ 45%- 50% bằng cách đẩy mạnh sản xuất bông tơ đạt 30.000 tấn, tơ sợi poliester
60.000 tấn, vải đạt 800 triệu m2 (trong đó có 50% để phục vụ may xuất khẩu) và tăng
cường sản xuất phụ liệu may mặc, thu dụng thêm 500.000 -700.000 lao động vào các cơ
sở sản xuất mới và các cơ sở mở rộng
Đối với thị trường EU hiện chiếm 40% kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của
Việt nam, sau đó đến nhật bản 23%; và Mỹ khoảng 2%. Với cả ba thị trường này, Trung
Quốc hiện đứng đầu về xuất khẩu hàng may mặc. Chế độ thương mại hiện nay đối với
hàng may mặc của Việt Nam và Trung Quốc tại các thị trường chính như sau:
+ Thị trường Nhật Bản: Hiện Nhật Bản không áp dụng hạn ngạch với hàng dệt
may. Hàng may mặc của Việt Nam và Trung Quốc đều đ ược hưởng thuế suất tối huệ quốc
(MNF).Tuy nhiên,việc Nhật Bản đang xem xét đưa vào áp dụng chế độ hạn ngạch đối với
hàng dệt may Việt Nam nhằm hạn chế lượng nhập khẩu trong thời gian tới cũng là mối lo
ngại lớn tiếp theo bởi đâ y được coi là thị trường giàu tiềm năng với nhu cầu nhập khẩu
ngày càng tăng.
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
+ Thị trường EU: Hiện hàng may mặc của Việt Nam và Trung Quốc đều đ ược
hưởng thuế suất MNF và chịu hạn ngạch ở thị trường EU. Trên thực tế từ nay đến hết năm
2004, EU chỉ loại nh ững nhóm hàng nào ít nhạy cảm ra khỏi danh mục áp dụng hạn
ngạch, còn những nhóm hàng nhạy cảm vẫn bị áp dụng hạn ngạch. Mặc d ù hạn ngạch
xuất khẩu mà EU dành cho Việt Nam năm 2001 tăng 20% so với năm 2000, song trị giá
lại chỉ tăng 9%, tức là có sự giảm giá khá lớn đối với các mặt hàng xuất khẩu.
Cũng liên quan đến vấn đề hạn ngạch, hiện nay một trở ngại lớn đối với Việt nam
là trong năm nay, EU sẽ thực hiện việc xoá bỏ thuế quan và chế độ hạn ngạch cho 48
nước nghèo và các nước thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), trong đó có
Trung Quốc và một số n ước ASEAN đang cạnh tranh khá gay gắt với Việt Nam. Vì vậy ,
hàng dệt may việt Nam không những phải đối đầu với việc bị thu hẹp thị trường mà còn
phải chấp nhận sự cạnh tranh quyết liệt hơn trong điều kiện kém ưu thế do không được
hưởng các ưu đãi về thuế quan và nhiều ưu đãi khác. Nếu Trung Quốc gia nhập WTO thì
hàng may mặc Trung Quốc cũng hầu như không thuận lợi h ơn hàng Việt Nam ở thị
trường EU cho đến hết năm 2004. Từ năm 2005 trở đi khi EU loại bỏ hạn ngạch hàng dệt
may với các nước thành viên WTO thì hàng may mặc của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh
gay gắt với hàng dệt may của Trung Quốc.
+ Thị trường Mỹ: Hiện nay hàng may mặc của Việt Nam không bị Mỹ áp dụng hạn
ngạch nhưng chưa được hưởng thuế suất MNF. Hàng may mặc Trung Quốc bị Mỹ áp
dụng hạn ngạch nhưng đã được hưởng thuế suất MNF từ nhiều năm nay (thuế suất MNF
đối với hàng may mặc là 13,4%, thuế suất phổ thông là 68,9%).
Theo dự kiến của các chuyên gia kinh tế thì nhờ quy chế mậu dịch b ình thường,
kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào Mỹ có thể đạt tới 1 tỷ USD trong
vài năm tới và với các nước EU cũng đạt kim ngạch 2 tỷ USD cho dù có sự cạnh tranh của
Trung Quốc. Muốn thế Việt Nam phải tăng cường đầu tư trang thiết bị nâng cao chất
lượng sản phẩm, hạ giá thành, cải tiến mẫu mã để đủ sức cạnh tranh với hàng Trung
Quốc. Tuy nhiên, cơ hội cho Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ vẫn
còn nhiều sau khi Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được phê chuẩn vào tháng 12/2002
vừa qua. Thuế suất dành cho hàng dệt may sẽ hạ hơn nhiều (chỉ còn khoảng 5% - 7%,
trước đây là khoảng 18% - 19%).
Hơn nữa, với chính sách ưu tiên mới đây của Mỹ dành cho các nước châu Phi và
vùng Caribê, thì hàng dệt may của Việt Nam không những sẽ bị thu hẹp thị ph ần ngay
chính trên th ị trường Mỹ, mà còn mất rất nhiều bạn hàng trong cùng khu vực do các nhà
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
nhập khẩu sẽ chuyển hướng sang châu Phi và vùng Caribê để kinh doanh trên lĩnh vực
này. Nhằm tháo gỡ những khó khăn trên và hỗ trợ tối đa ngành dệt trong các quý tới, theo
các chuyên gia thương mại, Chính phủ cần áp dụng các ưu đãi về chính sách và hỗ trợ mở
rộng thị trường.
Ngoài ra hàng dệt may của Trung Quốc còn cạnh tranh rất mạnh với hàng dệt may
của Việt Nam ở các thị trường Hồng kông, Đài Loan do Trung Quốc thông qua hợp tác
sản xuất và được hạn ngạch của các thị trường này. Nhiều nhà kinh doanh trên thế giới dự
đoán khi tiến trình hội nhập WTO của Trung Quốc được thực hiện đầy đủ, n ước này sẽ
đẩy lùi nhiều nhà xuất khẩu dệt may khác dế chiếm 60% thị phần thế giới. Đó là nỗi lo
của nhiều nước xuất khẩu hàng dệt may, Việt Nam cũng vậy. Ngay cả các xí nghiệp may
mặc hiện đại nhất của Việt Nam cũng đang cảm thấy e ngại về sức cạnh tranh rất lớn từ
phía Trung Quốc. Ông Trần Văn Hữu, Giám đốc Xí nghiệp may 10 cho b iết "Hiện nay
Trung Quốc là một đối thủ cạnh tranh quyết liệt. Thứ nhất về giá cả nói chung là rất rẻ, từ
nguyên liệu, phụ liệu cho đến giá gia công. Hiện nay chúng tôi chỉ còn một con đường là
làm thế nào để sản xuất hàng hoá đạt chất lượng tốt hơn, đẹp hơn thì mới có thể chiếm
lĩnh được thị trường"
Như vậy, việc Trung Quốc gia nhập WTO trước mắt chưa ảnh hưởng nhiều đến
hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam vào các thị trường. Tuy nhiên, Bộ Thương mại
cũng khuyến cáo do các doanh nghiệp ngành dệt chưa đáp ứng được nhu cầu về nguyên
liệu của ngành may nên hiện nay giá hàng may mặc xuất khẩu của ta đang cao hơn nhiều
so với hàng Trung Quốc. Thêm vào đó, do công nghệ thiết kế mẫu của Việt Nam chưa
phát triển nên hàng may mặc xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam vẫn là gia công cho nước
ngoài.
Để ngành dệt may Việt Nam có thể vươn lên và cạnh tranh với các nước khu vực
và quốc tế, trong chiến lược tăng tốc 10 năm của ngành dệt may (2001 - 2010) được
Chính phủ phê duyệt vừa qua đã đặt ra nhiều vấn đề cấp bách. Cụ thể là các doanh nghiệp
phải đầu tư nguyên liệu tốt, có khả năng sản xuất những tơ sợi tổng hợp, sản xuất các loại
vải tốt, sản phẩm may mặc có chất lượng cao. Phát biểu tại Đại hội nhiệm kỳ II Hiệp hội
Dệt May Việt Nam, Thủ tướng Phan Văn Khải cũng đã đặc biệt nhấn mạnh việc ngành
dệt may Việt Nam phải hoàn thiện mình, thoát khỏi tình trạng gia công và đáp ứng những
đơn đặt hàng lớn. Mặt khác, các doanh nghiệp phải hướng mạnh vào việc tìm thị trường,
ch ứ không phải trông chờ khách hàng đến để đưa đơn hàng đến để gia công. Các vấn đề
xúc tiến th ương mại như: tiếp thị, quoảng cáo, liên doanh, hợp tác sẽ được chú trọng.