Luận văn "Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở nước ta thực trạng và giải pháp"
Tham khảo tài liệu 'luận văn "công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở nước ta thực trạng và giải pháp"', luận văn - báo cáo phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
LỜI GIỚI THIỆU
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là một chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước ta, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm,
tăng thu nhập cho dân cư nông thôn tạo tiền đề để giải quyết hàng loạt các vấn
đề chính trị - xã hội của đất nước, đưa nông thôn nước ta tiến lên văn minh hiện
đại.
Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định phải "đặc biệt coi trọng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn" Trong những năm gần đây nhờ có
"đổi mới" nông nghiệp nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tuy vậy
nông nghiệp hiện nay vẫn đang đứng trước những thách thức to lớn, có nhiều vấn
đề về sản xuất và đời sống của nông dân đang nổi lên gay gắt. Do vậy đẩy nhanh
tiến độ thực hiện chủ trương này của Đảng và Nhà nước là nhu cầu rất cấp thiết.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là một quá trình lâu dài, cần
được tiến hành theo cách tuần tự, không nóng vội, không thể tuỳ tiện. Quá trình
này được thực hiện không nhằm mục đích tự thân, mà phục vụ các mục tiêu kinh
tế xã hội của nông thôn cũng như của cả nước. Vì vậy nếu ta không nhìn nhận và
phân tích một cách sâu sắc quá trình chuyển đổi và phát triển của nền nông
nghiệp hiện nay thì sẽ khó có thể tìm ra những giải pháp vi mô cũng như vĩ mô
đúng và phát huy được hiệu quả trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá
nền nông nghiệp của đất nước.
Xuất phát từ thực tế cấp bách đó, với vốn kiến thức đã được truyền thụ,
cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy, cô giáo. Tôi mạnh dạn nghiên cứu đề
tài "Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở nước ta thực
trạng và giải pháp" đề tài nghiên cứu nội dung sau:
Phần I. Một số vấn đề lý luận chung về CNH - HĐH nông nghiệp.
II. Thực trạng của quá trình CNH - HĐH nông nghiệp Việt Nam
hiện nay.
III. Giải pháp phát triển nông nghiệp Việt Nam trong quá trình
CNH - HĐH.
Với kiến thức đã được học tập và thời gian tiếp xúc với thực tế ít, nên tôi
nhận thấy việc nghiên cứu đề tài này sẽ không tránh khỏi những mặt hạn chế.
Vậy kính mong thầy cô giáo cho nhận xét, đóng góp ý kiến cho đề tài của tôi
được tốt hơn.
1
I. Một số vấn đề lý luận chung về CNH - HĐH nông nghiệp.
1. Những nội dung chủ yếu của CNH - HĐH nông nghiệp.
Công nghiệp hoá nông nghiệp có nghĩa là đưa máy móc, thiết bị, ứng dụng
những tiến bộ khoa học công nghệ và các phương pháp sản xuất , các hình thức
tổ chức kiểu công nghiệp. Tiến bộ khoa học công nghệ nông nghiệp đã thúc đẩy
mạnh mẽ sản xuất nông nghiệp phát triển và cũng là động lực cơ bản, là nhân tố
quyết định trong quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp. Nội dung chủ yếu của
tiến bộ khoa học công nghệ trong nông nghiệp là các phương thức tiến hành như
thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá, hoá học hoá và sinh học hoá.
Thuỷ lợi hoá là gì? nó chính là quá trình thực hiện tổng thể các biện pháp sử
dụng các nguồn nước trên mặt đất và dưới mặt đất để phục vụ sản xuất và sinh
hoạt trong nông nghiệp, nông thôn đồng thời hạn chế các tác hại của nước gây ra
cho sản xuất và đời sống.
Cơ giới hoá nông nghiệp là quá trình thay thế công cụ thô sơ bằng công cụ
cơ giới, lao động thủ công bằng lao động cơ giới, thay thế phương pháp sản xuất
lạc hậu bằng phương pháp khoa học.
Điện khí hoá nông nghiệp là quá trình sử dụng năng lượng điện và sản xuất
nông nghiệp và mọi hoạt động phục vụ đời sống nông thôn.
Hoá học hoá trong nông nghiệp là quá trình sử dụng các phương tiện hoá học
do công nghiệp hoá châts sản xuất vào sản xuất nông nghiệp. Hoá học hoá có tác
dụng rất quan trọng trong việc nâng cao năng suất cây trồng, năng suất sản phẩm
gia súc và đưa lại hiệu quả kinh tế cao.
Sinh học hoá nông nghiệp là quá trình áp dụng những thành tựu mới về khoa
học sinh vật và khoa học sinh thái vào nông nghiệp, tiến hành cách mạng về
giống, cách mạng về cơ cấu cây trồng, cơ cấu vật nuôi và cách mạng về quy
trình kỹ thuật nông nghiệp.
Như vậy công nghiệp hoá nông nghiệp còn bao hàm cả việc tạo sự gắn bó
chặt chẽ giữa phương thức sản xuất công nghiệp với sản xuất nông nghiệp
nhằm khai thác triệt để lợi thế của nông nghiệp nâng cao hàm lượng chế biến
sản phẩm của nông nghiệp để tăng giá trị của chúng, mở rộng thị trường cho
chúng.
Còn hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình không ngừng nâng cao trình độ
khoa học - kỹ thuật - công nghệ, trình độ tổ chức sản xuất và quản lý sản xuất
2
nông nghiệp. Đây là quá trình cần được thực hiện một cách liên tục vì luôn có
những tiến bộ kỹ thuật mới xuất hiện và được ứng dụng trong sản xuất.
2.Tính tất yếu khách quan phải thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp.
a. Vì sao phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp?
Xuất phát từ nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp phổ biến
sản xuất nhỏ, lạc hậu và đang ở trình độ thấp, đó là cơ sở vật chất, kỹ thuật còn
lạc hậu, lao động xã hội đại bộ phận tập trung trong nông nghiệp, sản xuất nông
nghiệp còn mang nặng tính tự cấp, tự túc và thu nhập của nông dân thấ, đời sống
mọi mặt của họ còn hết sức khó khăn. trong khi đó đến nay nhiều nước trên thế
giới đã có nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao, mọi hoạt động sản xuất
nông nghiệp đã được cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá. Nhờ đó
năng suất ruộng đất, năng xuất lao động của họ đạt rất cao, tạo sự phân công lao
động sâu sắc trong nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Mặt khác do yêu cầu về phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhu cầu về
nâng cao đời sống con người đó là xã hội càng phát triển, đời sống con người
càng được nâng cao thì nhu cầu của con người về lương thực và thực phẩm cũng
ngày càng tăng cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Như vậy chỉ có một
nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao mới hy vọng đáp ứng được nhu cầu
tăng lên thường xuyên đó.
Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, trước hết là quá trình quốc tế hoá, khu vực
hoá các quan hệ kinh tế thế giới, các hoạt động sản xuất thương mại, trao đổi
thông tin khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ... buộc chúng ta phải đẩy
nhanh việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp để chúng ta có
thể tận dụng vốn, khoa học, kỹ thuật kinh nghiệm quản lý nước ngoài vào trong
hoàn cảnh thực tiễn vận dụng vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước
ta nhằm để tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế, rơi vào tình trạng "bãi rác công
nghiệp" của thế giới, dẫn đến cuộc sống đói nghèo, lệ thuộc kinh tế nước
ngoài...v.v.
Như vậy đứng trước những yêu cầu đổi mới đang diễn ra trước mắt ta cần
khẳng định trong bối cảnh quốc tế hiện nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu
hướng phát triển chung của thế giới. trình độ công nghiệp hoá hiện đại hoá biểu
hiện trình độ phát triển của xã hội. Vì vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói
chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nói riêng là con đường đúng
đắn mà đảng ta đã lựa chọn trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của mình, nó là
3
"nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", nó là con
đường tất yếu để đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và "nguy cơ tụt
hậu" xã hơn so với các nước trong khu vực.
b. Cần làm gì để thực hiện tốt công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp?
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là một quá trình lâu dài cần
được tiến hành theo cách tuần tự, không thể nóng vội, không thể tuỳ tiện. Để
thực hiện được quá trình này cần có và thực hiện tốt những chương trình mục
tiêu, giải quyết từng vấn đề có liên quan sau:
Trước tiên, đó là những chương trình với mục tiêu cụ thể là thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá một cách có trọng điểm ở một số vùng. Tinh thần chung
là việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở mỗi vùng trước hết phải do
dân cư các vùng đó chủ động thực hiện theo hướng của nhà nước. Nhà nước có
thể hỗ trợ nhưng không làm thay, và cũng chỉ hỗ trợ trên cơ sở năng lực nội sinh
của mỗi vùng. Các địa phương, dù là vùng trọng điểm, cũng không thể trông chờ
vào nguồn tài trợ của nhà nước, không thể cố gắng "xin" của nhà nước càng
nhiều càng tốt như trước kia. Hơn nữa, các khoản hỗ trợ của nhà nước cũng phải
được tính toán, quyết định trên cơ sở hiệu quả cụ thể, rõ ràng cuối cùng của mỗi
dự án. Như vậy, các dự án thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá không thể
không gắn với lợi ích của các chủ thể có liên quan tới việc thực hiện nó. Tuy
nhiên công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp không chỉ là sự nghiệp của
riêng dân cư nông thôn và nhà nước, mà mỗi ngành đều có trách nhiệm nhận thức
rõ sự cần thiết của nó để có các chương trình hành động cụ thể, thích hợp. Họ
cần nhận thức rõ rằng tham gia thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp không phải là để "giúp nông thôn phát triển" mà cũng chính là vì lợi ích
của họ. Chương trình phục vụ công nghiệp hoá nông nghiệp của mỗi ngành, mỗi
đơn vị phải phù hợp với khả năng của ngành, đơn vị, phải phục vụ những nhu
cầu cụ thể của nông nghiệp và nông thôn, đồng thời cố gắng có những địa chỉ áp
dụng thu hưởng cụ thể. Chẳng hạn, các viện nghiên cứu, thiết kế và sản xuất
đưa ra các thiết bị phục vụ nông nghiệp (làm đất, chăm sóc hoa màu, thu hoạch,
bảo quản, chế biến nông sản). Các cơ quan nghiên cứu, chuyển giao công nghệ
có thể nghiên cứu, ứng dụng, giới thiệu, chuyển giao các công nghệ mới, kể cả
công nghệ sinh học, cây con, công nghệ chế biến, bảo quản nông sản... và thực
hiện các dịch vụ kỹ thuật - công nghệ phục vụ nông thôn. Các cơ sở đào tạo các
cấp cũng có thể tham gia vào quá trình này vừa bằng cách đào tạo nguồn nhân lực
thích hợp cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp vừa hoạt động như một
4
cơ sở tư vấn, phổ biến kiến thức về các lĩnh vực có liên quan tới công nghiệp
hoá, hiện đại hoá thuộc chuyên ngành của mình...
Nhà nước, với chức năng điều phối các hoạt động của toàn xã hội, cần tăng
cường hơn nữa các hoạt động riêng rẽ của các ngành, các địa phương, biến các
chương trình mục tiêu riêng rẽ thành chương trình mục tiêu liên ngành, đồng bộ,
hướng tới những kết quả thiết thựuc cuối cùng, có khả năng giải quyết vấn đề
một cách bền vững, tránh sự mất cân đối không cần thiết. Chẳng hạn trong thời
gian qua, khi đưa máy móc vào nông nghiệp, vấn đề tạo việc làm chưa được giải
quyết tốt, dẫn đến khó khăn trong việc duy trì các hoạt động đó. Hoặc khi đã tạm
giải quyết được vấn đề việc làm, các loại máy móc lại chưa được thiết kế một
cách thích hợp; trong khi ruộng đất bị chia ngày càng nhỏ, các loại máy nông
nghiệp (làm đất, bơm nước) lại chưa đựơc thiết kế thích hợp. Tương tự, khi vận
động nông dân trồng các loại cây chuyên canh, công nghiệp chế biến lại chưa
đựoc xây dựng kịp thời, dẫn đến sự thua thiệt hoặc kinh doanh kém hiệu quả (ví
dụ các vùng trồng dưa, vải, mận... mà chúng ta đã thấy đề cập nhiều trên báo).
Ngược lại, có nơi chủ động xây dựng trước các cơ sở chế biến thì hoặc nguyên
liệu không đủ, hoặc nguyên liệu không đồng nhất, hoặc không đáp ứng nhu cầu
về chất lượng... làm chúng không hoạt động được.
Nói tóm lại, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là nhiệm vụ to lớn,
cấp bách lâu dài và gian khó. Việc thực hiện nó đòi hỏi những nỗ lực chung của
toàn xã hội. Sự nghiệp này đòi hỏi chúng ta phải có bước đi, biện pháp và chính
sách hợp lý để thực hiện.
II. Thực trạng của quá trình CNH- HĐH nông nghiệp Việt Nam hiện nay
1. Thực trạng về cơ giới hoá:
Sau khi thực hiện giao đất cho hộ nông dân, hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự
chủ. Họ tự bỏ vốn mua máy móc, phương tiện để phục vụ sản xuất của gia đình
hoặc làm dịch vụ trong các khâu làm đất, tưới nước, phun thuốc sâu, tuốt lúa.
Hàng năm có khoảng 1,8 triệu ha đất được cơ giới hoá, còn các khâu phun thuốc
sâu, tuốt lúa đã được cơ giới hoá phần lớn.
Trong lĩnh vực vận chuyển những năm gần đây các phương tiện vận tải cơ
giới, như xe công nông, các xe vận tải cỡ nhỏ thích hợp với hệ thống đường xá
của Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, nên khâu vận chuyển nông sản phẩm
phần lớn được cơ giới hoá. Riêng khâu thu hoạch làm cơ chủ yếu vẫn dùng
phương pháp thủ công.
5
Theo báo cáo số liệu thống kê nông nghiệp, nông thôn Việt Nam 1995-1997.
Đến năm 1997 cả nước có hơn 115. 487 máy kéo các loại sử dụng trong nông
nghiệp với tổng công suất hơn 2 triệu CV, tăng gấp 1,5 lần so với năm 1985. đặc
biệt máy kéo nhỏ thích hợp với quy mô hộ gia đình tăng rất nhanh, từ 17880 cái
với 19,60 nghìn CV năm 1990 tăng lên 71208 cái với công suất 810027 CV năm
1995 và 83.289 cái với công suất hơn 863 nghìn CV năm 1997, đặc biệt là ở Tây
nguyên nơi sản xuất tập trung cây công nghiệp dài ngày như cà phê, cao su và là
vùng còn nhiều tiềm năng về đất khai hoang phục hoá nên số máy nông nghiệp
năm 1997 so với năm 1992 tăng 6,2 lần. ở đồng bằng Sông Cửu Long đến năm
1997 có gần 38 nghìn máy kéo các loại, chủ yếu là máy kéo lớn, gấp gần 2 lần
năm 1992. Các vùng khác, các loại máy công tác cũng tăng nhanh, nhất là máy
bơm nước với năm 1994 là 537809 cái, đến năm 1997 tăng 583.159 cái. Theo số
liệu thống kê năm 1997 thì số lượng máy tuốt lúa là 190.680 cái, máy nghiền thức
ăn gia súc là 20.741 cái, xe reo 914 cái...
Nhờ có số lượng máy móc tăng nhanh nên nhiều công việc nặng nhọc trong
nông nghiệp đã được cơ giới hoá. Tỷ lệ cơ giới hoá làm đất trong nông nghiệp từ
21% năm 1990 đã tăng lên 26% năm 1995 và khoảng 27% năm 1997, trong đó
vùng đồng bằng sông Cửu Long 80%, nhiều tỉnh trên 80% như An giang, Đồng
tháp.v.v...
Công việc cơ giới hoá vận chuyển trong nông nghiệp cũng có nhiều khởi
sắc. Trong nông thôn hiện nay có 22.000 ô tô các loại (không kể máy kéo và các
loại xe công nông) trong đó có hơn 15.000 xe tải (90% là của hộ gia đình nông
dân) tăng gấp 2 lần năm 1990. Các khâu công việc khác như xay xát lúa gạo, chế
biến thức ăn gia súc, cưa xẻ gỗ, cũng được từng bước cơ giới hoá cùng với sự
phát triển của nguồn điện lực quốc gia. Tuy nhiên, khó khăn của cơ giới hoá nông
nghiệp Việt Nam hiện nay là quy mô ruộng đất vốn nhỏ bé (nhất là ở miền Bắc
và miền Trung) lại bị phân chia cho quá nhiều chủ ruộng, nên máy kéo, xe vận tải
và máy nông nghiệp khó phát huy tác dụng, chi phí cao, hiệu quả thấp.
Có thể nói, vấn đề cơ giới hoá nông nghiệp ở nước ta hiện nay vẫn đang
trong tình trạng mâu thuẫn giữa yêu cầu của hiện đại hoá với lực lượng lao động
dư thừa ở nông thôn. Nếu không sớm giải quyết được mâu thuẫn này thì dù chủ
trương đúng cũng khó đi vào cuộc sống, chỉ có chừng nào tạo được nhiều việc
làm phi nông nghiệp trên địa bàn nông thôn, thì cơ giới hoá nông nghiệp mới phát
triển mạnh. Vì vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt
Nam lúc này không chỉ đơn thuần là cơ giới hoá mà quan trọng hơn phải đẩy
6
mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển công nghiệp và dịch
vụ ở nông thôn để chuyển đổi cơ cấu lao động sang phi nông nghiệp, có như vậy
mới tạo được môi trường và điều kiện để đưa máy và công nghệ tiên tiến vào
sản xuất.
2. Thực trạng về thuỷ lợi hoá:
Nhận thức tầm quan trọng của công tác thuỷ lợi đối với sự phát triển của
nông nghiệp, trong những năm qua, nhà nước và nhân dân ta đã đầu tư khá lớn
cho việc xây dựng mới, hoàn thiện và nâng cấp hệ thống các công trình thuỷ lợi.
Tính đến 1/10/1996 cả nước đã có 20.644 công trình thuỷ lợi lớn nhỏ trong
đó có 20.502 công trình thuỷ nông (6727 hồ, đập chứa nước, 5899 cống, 2363
trạm bơm điện, 671 trạm bơm dầu, 4.842 công trình phụ thuộc, 162 trạm thuỷ
điện kết hợp thuỷ nông) các công trình này đã đảm bảo tưới tiêu cho 3 triệu ha
diện tích đất canh tác (chiếm 53% tổng số) tiêu trên 2 triệu ha, ngăn mặn 0,7 triệu
ha và chống lũ cho 2 triệu ha. So với những năm đầu 90 thì số lượng công trình và
lượng tưới tiêu đã tăng lên đáng kể. So với các vùng trong cả nước thì đồng bằng
sông cửu Long là vùng có số lượng công trình và năng lực tưới tiêu thuỷ lợi tăng
nhanh nhất. Kể từ sau ngày giải phóng đến nay. Nhà nước đã đầu tư trên 1000 tỷ
đồng cho các công trình thuỷ lợi, chưa kể hàng trăm tỷ đồng của nông dân làm
kênh mương nội đồng. Đến năm 1996, tonà vùng đã có 1185 công trình thuỷ lợi
trong đó có 163 trạm bơm điện và hệ thống kênh dẫn nước ngọt sông Tiền, sông
Hậu để tưới nước cho các vùng lúa hàng hoá, phục vụ khai hoang tăng vụ,
chuyển vụ và thâm canh. Riêng vùng Đồng Tháp Mười, chỉ tính từ năm 1987 đến
1996, vốn đầu tư cho thuỷ lợi của nhà nước và nhân dân đã lên tới 180,68 tỷ đồng
đưa nước ngọt về để tăng diện tích 2 vụ từ 26806 ha năm lên 86400 ha, dùng
nước ngọt để ém phèn, đưa giống mới vào, năm 1996 sản xuất được 1,3 triệu tấn
lúa và trở thành vùng lúa hàng hoá lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long.
ở Đông Nam Bộ vốn là vùng khô cằn thiếu nước ngọt trước đây, sau 22 năm
giải phóng, nhà nước và nhân dân đã xây dựng được 103 công trình thuỷ lợi trong
đó có 486 công trình độc lập công xuất tưới 200 ngàn ha, nhiều nhất là Tây Ninh,
175 ngàn ha nhờ hồ Dầu tiếng. Với diện tích mặt hồ 27000 ha. Chứa 1,6 tỷ m 3
nước ngọt, cộng với tuyến kênh mới Tân Hưng có khả năng cung cấp đủ nước
tưới cho 172 ha đất trồng trọt thuộc các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước,
Long An, thành phố Hồ Chí Minh và cung cấp hàng triệu m 3 nước ngọt cho công
nghiệp chế biến nông sản.
7
Các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên bằng việc phát triển thuỷ điện
nhỏ, chủ yếu là xây dựng các hồ, đập chứa nước kết hợp với các công trình tự
chảy đã giảm bớt đáng kể về khó khăn trong việc cung cấp nước cho sản xuất
nông nghiệp và phục vụ đời sống, đồng bào các dân tộc miền núi trong mùa khô.
Tuy nhiên sovới yêu cầu thâm canh, tăng vụ và đa dạng hoá cây trồng, vật
nuôi thì thực trạng thuỷ lợi hoá hiện nay ở nước ta còn nhiều bất cập. Chất
lượng các công trình thuỷ lợi còn thấp, khả năng tưới tiêu của thuỷ lợi mới đáp
ứng được khoảng 50% yêu cầu về nước cho sản xuất nông nghiệp. Một số công
trình đã xuống cấp nghiêm trọng nhưng thiếu vốn để duy trì, bảo dưỡng, nên
công xuất thực tế tưới tiêu chỉ đạt khoảng 30% so với thiết kế. Như vậy điều
đặt ra cho chúng ta hiện nay là cần tiếp tục tìm ra những giải pháp để đầu tư, bổ
sung, nâng cấp và xây dựng mới.
3. Thực trạng về hoá học hoá:
Cùng với cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá trong những năm qua ở nước ta quá trình
hoá học hoá sản xuất nông nghiệp cũng có nhiều khởi sắc: lượng phân bón và
thuốc trừ sâu, diệt cỏ tăng lên, chủng loại đa dạng, cơ cấu được điều chỉnh phù
hợp với nhu cầu sản xuất. Tuy lượng phân hoá học bình quân trên 1 ha còn ở mức
thấp (100kg/ha) nhưng cơ cấu các loại NPK đã được điều chỉnh theo hướng giảm
tỷ lệ đạm, tăng tỷ lệ lên và ka li để đáp ứng tốt hơn, nhu cầu sinh trưởng và phát
triển của cây trồng. Ngoài phân bón, một số hoá chất khác như thuốc diệt cỏ,
thuốc trừ sâu, thuốc kích thích cây trồng và vật nuôi cũng khá đa dạng về chủng
loại.
Điều đáng mừng là quan hệ giữa giá lúa và giá phân bón đã thay đổi theo
chiều hướng có lợi cho sản xuất nông nghiệp và nông dân, trước đây giá của 1kg
phân đạm thường ứng với giá của 2 kg lúa, nay giảm xuống còn tỷ lệ 1 đến 1,3.
Nhìn chung giá phân nhập khẩu cũng như giá phân sản xuất trong nước đều có xu
hướng giảm.
Tuy nhiên, khó khăn của hoá học nông nghiệp Việt Nam hiện nay là sản
phẩm phân bón, hoá chất sản xuất trong nước còn quá nhỏ bé, chủng loại đơn
điệu, giá thành cao nên chưa được nông dân ưa chuộng (phân đạm sản xuất trong
nước chiếm khoảng 10%, 90% còn lại phải nhập khẩu). Nhìn chung công nghiệp
sản xuất phân bón ở Việt Nam chưa phát triển tương xứng với nhu cầu trong khi
đó thị trường và giá cả nhập khẩu không ổn định. Tổ chức nhập khẩu còn phân
tán nên thường gây ra tình trạng tranh mua, tranh bán cạnh tranh không lành mạnh
8
trên thị trường, ảnh hưởng đến kết quả sản xuất nông nghiệp và gây thiệt hại
cho nông dân. Năm 1996, chính phủ đã tổ chức lại các đầu mối nhập khẩu phân
bón và xuất khẩu gạo, nên tình trạng lộn xộn trong nhập khẩu phân bón đã bước
đầu được hạn chế. Song vấn đề hỗ trợ giá của nhà nước đối với các loại vật tư
nông nghiệp quan trọng này lại chưa được đặt ra.
Việc sử dụng các loại hoá chất trong nông nghiệp nước ta cũng ngày càng
tăng lên, nhưng so với thế giới vẫn chỉ thuộc các nhóm nước trung bình. Mặc dù
các loại hoá chất đã góp phần quan trọng trong việc gia tăng sản lượng nông
phẩm, nhưng cũng đang đặt ra những vấn đề về môi trường, do vậy cần được
quản lý và hướng dẫn chặt chẽ để sử dụng hợp lý.
4. Về sinh học hoá nông nghiệp:
Việc ứng dụng thành tựu cách mạng sinh học trong những năm gần đây đã
tạo ra nhiều giống lúa, ngô, rau, cây ăn quả, cây lâm nghiệp, nhất là các loại
giống lai có tính chống chịu tốt và năng suất cao. Nhiều tiến bộ khoa học kỹ
thuật trong lĩnh vực chăn nuôi như lợn có tỷ lệ nạc cao, bò sinh hóa có thể tròng
lớn và gà công nghiệp có tốc độ tăng trưởng nhanh, tiêu tốn ít thức ăn...v.v cũng
đã được áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên, trình độ áp dụng thành cách mạng sinh học
của nước ta còn thấp so với các nước láng giềng.
5. Thực trạng về cơ cấu nghành nông nghiệp nước ta hiện nay:
Cơ cấu ngành nông nghiệp được xem xét qua cơ cấu giữa trồng trọt-
chăn nuôi.
Bảng I: Cơ cấu ngành nông nghiệp giá trị sản lượng
Số lượng (tỷ đồng) Cơ cấu (%)
1985 1995 1985 1995
Tổng số 11941,55 19029,92 100,00 100,00
1. Trồng trọt 9389,74 14785,56 78,63 77,70
2. Chăn nuôi 2551,81 4237,36 21,37 22,30
Nguồn : Số liệu thống kê nông- lâm- thuỷ sản Việt Nam 1985-1995 (NXB
Thống kê 1996)
Cơ cấu trồng trọt - chăn nuôi: Trong giai đoạn 1985 - 1995 có xu hướng
chuyển dịch từ trồng trọt sang chăn nuôi nhưng hết sức chậm chạp, thậm chí
không có biến đổi đáng kể. Thực tế mấy năm qua, sản xuất lương thực đã có
bước tăng trưởng khá, có xuất khẩu và tích luỹ, tạo điều kiện thuận lợi cho phát
9
triển chăn nuôi, song vẫn chưa đủ giúp ngành chăn nuôi vươn lên thành ngành
chính và có tỷ trọng cao trong cơ cấu trồng trọt - chăn nuôi.
Ngành trồng trọt: Cây lương thực tập trung tại hai châu thổ Đồng bằng sông
Cửu long và Đồng bằng sông Hồng. Trong cơ cấu cây lương thực, cây lúa phát
triển chủ yếu ở miền Nam, cây màu chủ yếu ở miền Bắc. Xu hướng chuyển
dịch chung là phát huy thế mạnh của từng vùng, Miền Nam tăng diện tích trồng
lúa trên cơ sở khai hoang, thay đổi cơ cấu mùa vụ và ứng dụng các giống lúa cao
sơn (56,1% năm 1985 lên 62,6% năm 1995) riêng đồng bằng sông Cửu Long
chiếm 47,1% diện tích lúa cả nước, miền Bắc tăng diện tích trồng màu từ 60,7%
năm 1985 lên 66,4% năm 1995 trong đó trung du- miền núi tăng tương ứng từ
28,6% lên 34,2% diện tích màu cả nước.
Cây công nghiệp ngắn ngày có sự phân bố không chênh lệch nhiều giữa các
vùng ở miền Bắc trong khi ở miền Nam tập trung nhiều nhất ở vùng Đồng bằng
Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Trong 10 năm qua cơ cấu cây công nghiệp
ngắn ngày ở các vùng không có sự chuyển dịch lớn. Cây công nghiệp dài ngày có
sự chuyển dịch rõ dệt đặc biệt là hai vùng Tây nguyên và Đông Nam bộ (Diện
tích tăng từ 12,8% năm 1985 lên 26,4% năm 1995 ở Tây nguyên và từ 38% lên
43,6 ở đông Nam bộ).
Cây ăn quả tập trung nhiều ở miền Nam, chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu
Long chiếm hơn phần nửa diện tích của cả nước. Xu hướng phát triển của vùng
này là chuyển từ vườn tạp sang chuyên canh các loại cây có giá trị kinh tế cao.
Cây rau đậu tập trung chủ yếu ở 2 vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu
Long, xu hướng chuyển dịch khá rõ nét qua việc tăng cơ cấu diện tích. Từ 20%
năm 1985 lên 27,9% năm 1995 ở đồng bằng Sông Hồng và từ 12% lên 22,6% ở
đồng bằng Sông Cửu Long.
Ngành chăn nuôi trâu, lợn và gia cầm phát triển mạnh ở các vùng phía bắc
trong đó trâu chủ yếu ở miền núi trung du, lợn và gia cầm phát triển tương đối
đều giữa các vùng. Bò tập trung nhiều nhất ở khu bốn cũ và Duyên hải miền
Trung, chăn nuôi gia súc tăng nhanh ở miền núi trung du và Khu Bốn cũ. (Đàn trâu
tăng từ 42% năm 1965 lên 53,6% năm 1995 ở miền núi và trung du, đàn bò từ
11,7% lên 30,6% ở khu bốn cũ) xu hướng chuyển dịch này là phù hợp với tiềm
năng và thế mạnh của các vùng.
Thực tế cơ cấu giá trị sản xuất trong ngành nông nghiệp qua các năm như sau:
10
Bảng 2: Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp theo giá trị so sánh (%)
Năm 1995 1996 1997
1. Trồng trọt 80,4 80,5 80,5
Trong đó:
- Lương thực 63,6 64,1 63,9
- Rau đậu 7,5 7,3 7,1
- Cây công nghiệp 18,4 18,4 18,9
- Cây ăn quả 8,4 8,2 8,1
2. Chăn nuôi 16,6 16,6 16,7
3. Dịch vụ nông nghiệp 3,0 2,9 2,8
Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam số 57, ngày 18/7/1998.
Theo thống kê trên, trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất 80,4% - 80,5%
trong đó, cây lương thực vẫn tiếp tục độc chiếm nền nông nghiệp Việt Nam cây
công nghiệp và cây ăn quả chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ. Ngành chăn nuôi đạt tỷ trọng
còn khiêm tốn 16,6% - 16,7% đặc biệt, dịch vụ nông nghiệp chiếm tỷ trọng vừa
nhỏ bé lại vừa có xu hướng giảm sút từ 3,0% xuống còn 2,8%.
Như vậy, nền nông nghiệp nước ta hiện nay vẫn còn mang đậm nét cổ
truyền, kém hiệu quả. Do cơ cấu ngành nông nghiệp chậm thay đổi nên công
nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp ra khó có điều kiện phát triển. Dịch vụ
nông nghiệp có xu hướng giảm xẽ tác động xấu tới nền sản xuất hàng hoá trong
cơ chế mở hiện nay. Mặt khác hàng nông phẩm của nước ta đã không đa dạng về
chủng loại, chất lượng lại chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế nên khó chiếm lĩnh thị
trường. Thậm chí có những loại nông phẩm thị trường bị thu hẹp do chất lượng,
phẩm chất quá thấp, gây thiệt hại cho người sản xuất, ảnh hưởng tới tăng
trưởng và phát triển kinh tế nông nghiệp.
6. Thực trạng các vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp:
Đến nay đã hình thành các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh tập trung
như: lúa, cao su, cà phê, điều, mía, rau quả, lợn , bò, tôm, cá, nhưng nhìn chung
11
sản xuất còn phân tán, manh mún, quy mô sản xuất hộ gia đình nhỏ bé, trước mắt
có thể có hiệu quả, nhưng về lâu dài là trở ngại lớn cho quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp.
Trong khi các vùng chuyên canh cao su, cà fê và chè đã khá ổn định thì các
vùng chuyên canh khác còn đang trong quá trình hình thành, ít về số lượng, nhỏ
về quy mô, lại chưa ổn định, các vùng cây ăn quả, chăn nuôi gia súc chủ yếu
phát triển dựa trên cơ sở các vùng truyền thống, thiếu sự tác động tích cực của
khoa học công nghệ, chưa đáp ứng được các yêu cầu nguyên liệu của công
nghiệp.
Hiện nay cả nước có gần 10 triệu hộ gia đình nông dân với đất nông
nghiệp bình quân 0,8ha/hộ có tới hàng triệu thửa đất nhỏ và manh mún, quả
thật chỉ phù hợp với sản xuất bằng lao động thủ công, nếu không sử lý thì
không thể công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nhất là ở đồng bằng
sông Hồng và miền Trung.
Để phát triển và nâng cao sức cạnh tranh của những ngành nghề truyền
thống, từng bước phát triển các ngành sản xuất mới có khả năng, coi trọng các
ngành sản xuất nông sản quý hiếm có lợi thế để phát huy tiềm lực đa dạng của
nền nông nghiệp, đảm bảo sức cạnh tranh bền vững của nông sản hàng hoá Việt
Nam trong quá trình hội nhập với thị trường khu vực và thế giới, thì trước hết
cần tập trung xây các vùng chuyên canh sản xuất trên quy mô lớn và từng bước
được hiện đại hoá.
Các vùng chuyên canh trồng lúa xuất khẩu ở đồng bằng sông Cửu Long và
một vài tỉnh của đồng bằng Sông Hồng, với tổng diện tích khoảng 0,8-1 triệu ha
để hàng năm làm ra khoảng 70% lượng gạo xuất khẩu đạt chất lượng cao.
Các vùng chuyên canh ngô ở đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, Tây
nguyên, đồng bằng Sông Hồng và miền núi phía Bắc, với tổng diện tích khoảng 1
triệu ha để hàng năm sản xuất khoảng 4-5 triệu tấn ngô hàng hoá.
Các vùng cà phê ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và trung bộ khoảng 300.000 ha.
Các vùng chè xuất khẩu tập trung ở miền núi phía Bắc, với diện tích khoảng
100.000ha.
Vùng chuyên canh điều ở Duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ và một
phần ở Tây Nguyên với diện tích khoảng 300.000ha.
12
Các vùng cây ăn quả tập trung, gồm cây ăn quả nhiệt đới ở Nam Bộ và cây
ăn quả á nhiệt đới ở miền núi phía Bắc khoảng 500.000ha.
Các vùng chăn nuôi lợn xuất khẩu ở các tỉnh đồng bằng Sông Hồng và Đồng
bằng Sông cửu Long..v.v.
Trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh của từng vùng về tiềm năng đất đai,
khí hậu và kinh nghiệm truyền thống, cùng với việc đẩy nhanh tiến độ áp dụng
các thành tựu khoa học kỹ thuật để tạo ra nhiều loại nông sản hàng hoá đa dạng
đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Như vậy để đạt được mục tiêu trên không thể không tiến hành quy hoạch và
thực hiện các biện pháp đồng bộ để tạo ra các vùng chuyên canh sản xuất hàng
hoá lớn gắn kết liên hoàn giữa trước sản xuất, trong sản xuất và sau sản xuất,
giữa sản xuất - chế biến và tiêu thụ, tạo hành lang thông suốt từ sản xuất của
nông dân đến thị trường tiêu thụ.
7. Sự phát triển của công nghiệp chế nông sản của nước ta:
Nhìn chung, công nghiệp chế biến nông sản của nước ta đã bước đầu vượt
qua được những khó khăn của thời kỳ đầu chuyển sang cơ chế thị trường và đã
có một số tiến bộ.
Năm năm vừa qua, nhất là hai năm 1995- 1996, là thời kỳ tập trung đầu tư
cao cho công nghiệp chế biến nông sản. Hầu hết các doanh nghiệp chế biến
nông sản đã đi vào đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu, đổi mới thiết bị và công
nghệ, tăng thêm cơ sở và công suất, làm cho năng lực chế biến nông sản tăng
nhanh, đặc biệt là công nghiệp chế biến mía đường.
Các doanh nghiệp cũng đã xúc tiến nhanh việc tiếp cận thị trường trong và
ngoài nước, bố trí lại sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm và cải tiến mẫu mã phù
hợp với thị hiếu tiêu dùng của từng thị trường. Sản phẩm chè chế biến từ 7 mặt
hàng (3 loại chè đen và 4 loại chè hương) nay đã có 45 mặt hàng chè tham gia vào
thị trường. Về cà fê, ngoài cà fê nhân đã có các mặt hàng cà fê hoà tan, cà fê rang
xay xuất khẩu, mặt hàng gạo xuất khẩu cũng đa dạng hơn...
Sản lượng công nghiệp chế biến nông sản cũng đã tăng đáng kể. Trong năm
1995 sản lượng gạo, ngô qua chế biến: 12,5 triệu tấn, tăng 4,5 triệu tấn so với
năm 1990, đường mật các loại 393.000 tấn, tăng 70.000 tấn, chè búp khô chế
biến công nghiệp 35.000 tấn, tăng 11.000 tấn; cao su mủ khô 120.000 tấn, tăng
trên 50.000 tấn; cà fê nhân trên 200.000 tấn, tăng gấp 4 lần so với năm 1990....
13
Đặc biệt là gạo chất lượng cao (tỷ lệ tấm 15 -5%) tăng lên rất nhanh, từ dưới 1%
năm 1990 lên trên 70% vào năm 1995, làm thay đổi hẳn cơ cấu và giá trị gạo xuất
khẩu của nước ta.
Nhờ vậy giá trị sản lượng chế biến nông sản liên tục tăng với tốc độ cao,
bình quân 5 năm 1991- 1995, giá trị sản lượng chế biến lương thực tăng 17,4%
năm, giá trị sản lượng chế biến thực phẩm tăng 12,7% năm.
Nhìn chung là công nghiệp chế biến nông sản đã có bước tiến bộ đáng kể
nhưng còn nhỏ bé và chưa phát triển tương xứng với khả năng của nguồn nguyên
liệu, nổi bật là:
Tỷ trọng nông sản được chế biến công nghiệp còn quá thấp, mới chỉ đạt
30% sản lượng mía, gần 60% chè, dưới 20% rau quả...
Phần lớn các cơ sở chế biến lúa gạo, chè rau quả, mía... được xây dựng đã
lâu, thiết bị và quy trình công nghệ lạc hậu. Tuy nhiên, hiện nay đã có một số nhà
máy xay xát, đánh bóng, phân loại gạo, chế biến đường, cao su, ươm tơ, chế biến
thức ăn chăn nuôi....mới được xây dựng có máy móc thiết bị tương đối hiện đại,
nhất là các cơ sở liên doanh hay đầu tư 100% vốn nước ngoài, nhưng số lượng
các cơ sở này lại chưa nhiều. Chất lượng chế biến nông sản nhìn chung còn
thấp, hiệu quả chế biến chưa cao nên sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế kém,
làm cho nông dân nước ta phải chịu nhiều thua thiệt.
8. Những thuận lợi của quá trình CNH - HĐH nông nghiệp ở nước ta:
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính
sách phát triển nông nghiệp, nông thôn như: Việc giao quyền sử dụng đất nông
nghiệp lâu dài cho hộ nông dân, chuyển đổi mô hình và cách thức tổ chức hoạt
động của các hợp tác xã nông nghiệp, các nông, lâm trường, trạm trại; thực hiện
các chương trình quốc gia về nông nghiệp và nông thôn như chương trình 120
(cho vay giải quyết việc làm) chương trình 327 (phủ xanh đất chống, đồi trọc),
chương trình 773 (khai phá vùng bãi bồi ven biển)... Kết quả là ngành nông nghiệp
đã có chuyển biến tích cực. Nông nghiệp đã đảm bảo đủ nhu cầu lương thực cho
nhu cầu an toàn lương thực,trở thành một trong những thế mạnh xuất khẩu thu
ngoại tệ cho đất nước; đất đã được sử dụng có hiệu quả hơn cả về số lượng lẫn
chất lượng khai thác; đời sống nông dân từng bước được cải thiện và nâng cao...
Chúng ta có một thuận lợi nữa cho quá trình CNH - HĐH nông nghiệp là
hiện nay nước ta đang thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế quan hệ với các
nước trong khu vực và ngoài thế giới, nên có thể tiếp thu được những kinh
14
nghiệm, những tiến bộ khoa học mới vận dụng vào trong nông nghiệp của mình.
Mặt khác hiện nay ở nước ta vai trò của kinh tế hộ ngày càng được khẳng định,
nó là đơn vị kinh tế tự chủ, rất năng động, sáng tạo trong việc tiếp thu những
tiến bộ khoa học công nghệ mới vào trong sản xuất nông nghiệp.
9. Những khó khăn và thách thức trong quá trình CNH - HĐH nông
nghiệp nước ta:
* Khó khăn:
Khó khăn trước hết là hiện nay nền nông nghiệp nước ta vẫn mang một nền
nông nghiệp sản xuất nhỏ là phổ biến, việc cơ giới hoá thì chậm phát triển, diện
tích đất nông nghiệp thì còn manh mún, phân tán, điều kiện đất đai canh tác bình
quân trên đầu người còn thấp và đặc biệt ở nông thôn, trình độ về phát triển kinh
tế, trình độ về khoa học và công nghệ còn yếu kém và chuyển biến chậm.
Vai trò của kinh tế hộ tuy đã được khẳng định, nhưng khả năng về mặt tài
chính của họ thì còn rất eo hẹp và nhỏ bé. Trên đây cũng là những khó khăn cơ
bản mà nó đã không gây sự kìm hãm nhỏ đối với quá trình công nghiệp hoá - hiện
đại hoá nông nghiệp hiện nay.
* Thách thức:
Khác với nhiều nước trong khu vực, sự phát triển sản xuất ở Việt Nam lại
diễn ra trong bối cảnh mức tăng dân số và tỷ lệ đói nghèo cao. Công tác giáo dục
và đào tạo, đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi cao còn nhiều khó
khăn, hạn chế. Hệ thống phúc lợi công cộng, cơ sở vật chất kỹ thuật và các vấn
đề xã hội khác còn một khoảng cách xa với yêu cầu. Tỷ lệ người nghèo, hộ
nghèo tuy có xu hướng giảm nhưng mức sống còn rất thấp. Chênh lệch mức sống
vật chất và văn hoá giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng ngày càng tăng.
Căng thẳng xã hội về nguồn nhân lực dư thừa ngày càng nóng bỏng. Bên cạnh đó,
trong nhiều năm chiến lược phát triển kinh tế xã hội chưa chú ý đúng mức tới
bảo vệ môi trường, môi trường sống trong lành ở nông thôn cũng đang bị suy
thoái nghiêm trọng. Rừng núi nghèo kiệt, nguồn nước ngày càng khan hiếm và
đang bị ô nhiễm, đất đai bị bào mòn và suy thoái, tài nguyên sinh vật không được
bảo tồn, thiên tai thì dồn dập trên diện rộng....v.v.
Thị trường trong và ngoài nước thì luôn biến động yêu cầu về nâng cao hiệu
quả kinh tế, nâng cao mức sống thì ngày càng cao, trong khi khả năng đáp ứng
của kinh tế hộ còn giới hạn.
15
Quá trình mở cửa nền kinh tế tạo ra nhiều thuận lợi nhưng cũng đặt rất
nhiều những khó khăn về kinh tế - chính trị cho đất nước. Điển hình là cuộc
khủng hoảng tài chính- tiền tệ bùng nổ ở Đông Nam á từ giữa năm 1997 ngày
càng nghiêm trọng và lan rộng, chuyển thành khủng hoảng kinh tế, đưa tới sự xáo
động về chính trị - xã hội ở một số nước, thậm chí dẫn tới những biến đổi nhất
định trong quan hệ quốc tế...
Như vậy đứng trước những khó khăn và thử thách này, yêu cầu đã đặt ra đối
với chúng ta là cần phải sáng suốt đề ra những định hướng, những giải pháp đúng
đắn, kịp thời để khắc phục và đổi mới, tiếp tục đưa sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn vững bước tiến lên, giữ vững mục tiêu và
quan điểm của Đảng, nhà nước đề ra.
III/ Giải pháp phát triển nông nghiệp Việt Nam trong quá trình CNH-HĐH.
1. Định hướng và mục tiêu:
Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp trong điều kiện nước ta thì
nông nghiệp cần phát triển theo định hướng và nhằm đạt các mục tiêu sau:
Đẩy mạnh thâm canh sản xuất lương thực, đảm bảo an toàn lương thực cho
đất nước trước mắt và lâu dài, đồng thời ngày càng tạo ra nhiều sản phẩm có
chất lượng cao phục vụ cho xuất khẩu, tăng thêm nguồn ngoại tệ cho đất nước.
Phát triển mạnh ngành chăn nuôi, đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất
chính trong nông nghiệp.
Phát triển nền nông nghiệp bền vững, nội dung của nông nghiệp bền vững
cần được hiểu là:
Một nền nông nghiệp biết giữ gìn, phát triển, bồi dưỡng và sử dụng hợp
lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên của nông nghiệp, đặc biệt là đất đai và
nguồn nước.
Một nền nông nghiệp có trình độ thâm canh cao, biết kết hợp một cách hài
hoà giữa việc sử dụng các kỹ thuật và công nghiệp tiên tiến.
Một nền nông nghiệp sạch, biết hạn chế tối đa việc sử dụng các chất hoá
học có hại đến môi sinh, môi trường và sức khoẻ con người.
Một nền nông nghiệp có cơ cấu cây trồng và con vật nuôi hợp lý, phù hợp
với đặc điểm và điều kiện tự nhiên của mỗi vùng. Cơ cấu này phải đảm bảo cho
nông nghiệp khai thác được tối đa lợi thế so sánh, đảm bảo cho nông nghiệp phát
triển toàn diện với tốc độ nhanh.
16
Mục tiêu tổng quát và lâu dài của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp là xây dựng một nền nông nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại,
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp, để tăng năng suất
lao động, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, nhanh chóng nâng cao thu
nhập và đời sống của dân cư nông thôn, đưa nông thôn nước ta tiến lên văn
minh hiện đại.
Những mục tiêu cụ thể được đặt ra cho những năm tới như sau:
Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp từ 4,5 - 5% năm 2000, 4 - 4,5% năm 2010 và
4 - 4,5% năm 2020.
GDP bình quân đầu người đạt 200 USD năm 2000, 500 USD năm 2010 và
1200 - 1400 USD năm 2020.
Lương thực đạt 30-32 triệu (tấn) vào năm 2000, 40 triệu (tấn) năm 2010 và
45 triệu (tấn) năm 2020.
Kim ngạch xuất khẩu đạt 5 tỷ (USD) năm 2000, 15 tỷ (USD) năm 2010 và 20
tỷ, năm 2020.
Tạo việc làm hàng năm, 800 (nghìn/người) năm 2000 và năm 2010 , 500
(nghìn người) năm 2020.
2. Nhiệm vụ và giải pháp:
Để khắc phục từng bước những khó khăn, vướng mắc chủ yếu của quá
trình sản xuất nông nghiệp và tiếp tục tạo động lực thúc đẩy cho tiến trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp cần thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp lớn,
then chốt sau:
Tiếp tục thực hiện thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá, hoá học hoá, sinh
học hoá...nhằm phát triển nông, lâm, ngư nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất
hàng hoá và cải thiện môi trường sinh thái, hình thành các vùng chuyên canh có
khối lượng nông sản hàng hoá lớn, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu nguyên liệu
cho công nghiệp chế biến.
Phải gắn nghiên cứu với ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghiệp với
nông nghiệp, phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ nông thôn, tạo
việc làm, tăng thu nhập, đặc biệt chú trọng phát triển các ngành nghề truyền
thống, mở mang nghề mới hướng về xuất khẩu.
Tăng cường vai trò tự chủ của kinh tế hộ xã viên, tiếp tục khuyến khích phát
triển các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng, tự nguyện, xây dựng quan hệ liên kết
17
ổn định giữa kinh tế nhà nước với hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ nông dân từ sản
xuất, chế biến, bảo quản đến tiêu thụ sản phẩm, bảo đảm lợi ích của nông dân.
Đổi mới cơ chế lưu thông, trong đó doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ
đạo, bảo đảm cung ứng vật tư, tiêu thụ nông sản ổn định cho nông dân, thực hiện
bảo hộ giá một số mặt hàng nông, lâm, thuỷ lợi để duy trì cơ cấu sản xuất ở các
vùng chuyên canh.
Gắn xoá đói giảm nghèo với giải quyết việc làm, xây dựng kết cấu hạ tầng
với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển kinh tế với nâng cao dân
trí, bảo đảm công bằng xã hội. Coi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
của dân, và do dân quyết định, bởi vậy phát huy lợi thế so sánh, tăng cường nội
sinh của từng hộ gia đình, từng địa phương, cơ sở, từng vùng để tiếp nhận có
hiệu quả sự đầu tư của nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc trong chỉ đạo và
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp.
Cần tiếp tục thực hiện các chính sách để phát triển nông nghiệp, chính sách
chính là điều kiện cần thiết nhất để đạt mục tiêu đề ra.
Những chính sách chủ yếu để công nghiệp hoá nông nghiệp là:
- Chính sách vốn:
Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước chủ yếu đầu tư cho cơ sở hạ tầng kinh tế
và cơ sở hạ tầng văn hoá là chủ yếu.
Kêu gọi ODA không hoàn lại, đầu tư trực tiếp nước ngoài kèm theo những
ưu đãi nhất định nhằm phát triển nông nghiệp kiểu trang trại quy mô lớn là chủ
yếu và phát triển nhiều ngành nghề trên đại bàn nông thôn.
Khuyến khích đầu tư trong nước vào phát triển nông nghiệp kiểu trang trại,
phát triển ngành nghề trên đại bàn nông thôn với các quy mô vừa, nhỏ và một
phần có quy mô lớn.
Phát triển tín dụng nông thôn, các ngân hàng người nghèo, thực hiện chính
sách tín dụng ưu đãi cho nông dân, hạ mức lãi xuất cho vay và giảm bớt tối đa
thủ tục hành chính nhưng vẫn đảm bảo an toàn vốn.
- Chính sách về khoa học và công nghệ:
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc nghiên cứu gắn với
ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ nâng cao năng suất, chất lượng của
các loại nông, lâm, thuỷ sản và hàng chế biến xuất khẩu.
18
Hỗ trợ vốn với lãi suất ưu đãi cho các cơ sở sản xuất máy móc, thiết bị
tiên tiến cho các doanh nghiệp sử dụng các loại máy móc, thiết bị sản xuất
trong nước.
Tạo môi trường thuận lợi cho việc nhập khẩu công nghệ, đầu tư và
chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam: cung cấp thông tin, sử dụng
môi giới, giảm bớt thủ tục xét duyệt, giảm hoặc miễn thuế nhập khẩu, bảo
lãnh cho vay vốn...
Có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với những giải pháp hữu hiệu về kỹ
thuật và quản lý trong nông nghiệp đối với các cán bộ khoa học - công nghệ hoạt
động trực tiếp ở địa bàn nông thôn.
- Chính sách đất đai:
Cần có chính sách cụ thể để chỉ đạo quá trình tích tụ tập trung đất đai để
sản xuất, để hình thành và phát triển các nông trại, xí nghiệp, công ty kinh doanh
nông nghiệp...
Khắc phục tình trạng hộ nông dân không có đất bằng mở rộng khai hoang,
phục hoá, gắn ngay từ đầu việc cho vay vốn, hướng dẫn, áp dụng khoa học kỹ
thuật với việc hình thành các tổ chức kinh tế hợp tác, có chính sách hợp lý để hộ
nông dân chuyển nhượng ruộng đất có cơ hội chuyển sang nghề khác...
Xoá bỏ chế độ giao khoán bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng chuyển sang
giao đất có rừng ổn định lâu dài cho dân.
- Chính sách tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư phân bón:
Tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước gắn với phát triển mạnh
các hình thức kinh tế hợp tác xã , gắn chức năng tiêu thụ nông sản và cung ứng
phân bón làm một, kể cả việc xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân bón.
Bố trí lại cơ cấu sản xuất trong nước cho phù hợp với lợi thế so sánh của
từng vùng và đảm bảo thị trường thống nhất, thông suốt cả nước.
Thực hiện đấu thầu hạn ngạch xuất khẩu gạo, nhập khẩu phân bón, có cơ
chế chính sách khuyến khích tìm thị trường xuất khẩu gạo như: xây dựng chế độ
môi giới, tổ chức hợp tác xuất khẩu với các nước trong khu vực, tăng cường hoạt
động có hiệu quả của các cơ quan thương mại của ta ở nước ngoài để không
ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá.
19
- Chính sách đầu tư:
Cần cụ thể hoá luật đầu tư trong nước và nước ngoài bằng các chính sách
ưu đãi của nhà nước và hỗ trợ của dân, nhằm khuyến khích động viên các nhà
đầu tư bỏ vốn vào lĩnh vực sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, kinh tế nông thôn,
đặc biệt vào vùng cao, vùng dân tộc ít người, vùng sâu xa trung tâm.
Giảm bớt các thủ tục hành chính, phân cấp mạnh hơn cho chính quyền địa
phương xét duyệt các dự án, tăng cường phối hợp chặt chẽ, thống nhất hơn
giữa các ngành để nhanh chóng tiếp cận và triển khai thực hiện các dự án đầu
tư nước ngoài.
Tăng tỷ lệ đầu tư của nhà nước cho khu vực nông thôn lên 25% tổng ngân
sách nhà nước hàng năm bằng các chương trình, dự án có mục tiêu và được phân
bổ, giao ngay từ đầu năm cho các địa phương.
- Chính sách phát triển nguồn nhân lực:
Khắc phục tình trạng thiếu giáo viên, trường lớp học tập, nhất là trong việc
phổ cập giáo dục tiểu học. Duy trì và mở rộng trường phổ thông dân tộc nội trú,
các trường bán trú để tạo điều kiện cho con em đồng bào dân tộc, vùng xa trung
tâm cơ hội đến trường. Tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi đối với học sinh
nghèo học giỏi, có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng sử dụng nhân tài.
Cùng với việc nhà nước tăng cường mở rộng các trường dạy nghề ở các khu
vực nông thôn, cần khuyến khích các cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài
mở trường lớp dạy nghề, hướng dẫn phổ biến khoa học kỹ thuật, quản lý, kinh
nghiệm sản xuất, kinh doanh cho nông dân.
Xoá xã "trắng" về trạm y tế, nâng cao chất lượng phục vụ của mạng lưới y
tế, văn hoá cơ sở, thực hiện xã hội hoá các hoạt động y tế, văn hoá, thể dục thể
thao, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em, tăng tuổi thọ bình quân, động viên toàn
dân hăng hái tham gia lao động sản xuất, tăng tích luỹ cho sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá...
KẾT LUẬN
Qua phân tích toàn diện cả nội dung, biện pháp và thực trạng của quá trình
CNH - HĐH nông nghiẹp Việt Nam trong những năm đổi mới vừa qua, ta có thể
khẳng định: công nghiệp hoa, hiện đại hoá nông nghiệp Việt Nam là một quá
trình hoàn thiện phương thức tổ chức, quản lý và ứng dụng những thành tựu tiến
20