Lạm phát và những vấn đề chung
Khi phân tích lưu thông tiền giấy theo chế độ bản vị vàng, Mác đã khẳng định một qui luật:’’việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy của mình’’, với qui luật này, khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành và lưu thông vượt quá mức giới hạn số lượng vàng hoặc bạc mà nó đại diện thì giá trị của tiền giấy sẽ giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiên. Có thể xem đây như là một định nghĩa...
LỜI NÓI ĐẦU
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới và ở
Việt Nam, lạm phát nổi lên là một vấn đề đáng quan tâm về vai trò của nó đối với
sự nghiệp phát triển kinh tế. Nghiên cứu lạm phát, kiềm chế và chống lạm phát
được thực hiện ở nhiều các quốc gia trên thế giới. Càng ngày cùng với sự phát
triển đa dạng và phong phú của nền kinh tế, và nguyên nhân của lạm phát cũng
ngày càng phức tạp. Trong sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường ở nước ta theo
định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước, việc nghiên cứu về lạm
phát, tìm hiểu nguyên nhân và các biện pháp chống lạm phát có vai trò to lớn góp
phần vào sự nghiệp phát triển của đất nước.
1
CHƯƠNG I
LẠM PHÁT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. CÁC LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT
Khi phân tích lưu thông tiền giấy theo chế độ bản vị vàng, Mác đã khẳng
định một qui luật:’’việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng
thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy của mình’’, với qui luật này, khi khối
lượng tiền giấy do nhà nước phát hành và lưu thông vượt quá mức giới hạn số
lượng vàng hoặc bạc mà nó đại diện thì giá trị của tiền giấy sẽ giảm xuống và tình
trạng lạm phát xuất hiên. Có thể xem đây như là một định nghĩa của Mác về lạm
phát. Song có những vấn đề cần phân tích cụ thể hơn. Tiền giấy ở nước ta cũng
như ở tất cả các nước khác hịên đều không theo chế độ bản vị vàng nữa, do vậy
người ta có thể phát hành tiền theo nhu cầu chi của nhà nước, chứ không theo khối
lượng vàng mà đồng tiền đại diện. Điều đó hoàn toàn khác với thời Mác.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã xuất hiện nhiều lý thuyết khác nhau vế
lạm phát. Trong số các dó có các lý thuyết chủ yếu là:
Lý thuyết cầu do nhà kinh tế Anh nổi tiếng John Keynes đề xướng. Ông đã
qui nguyên nhân cơ bản của lạm phát về sự biến động cung cầu. Khi mức cung đã
đạt đến tột đỉnh vượt quá mức cầu, dẫn đến đình đốn sản suất, thì nhà nước cần
phải tung thêm tiền vào lưu thông, tăng các khoản chi nhà nước, tăng tín dụng,
nghĩa là tăng cầu để đạt tới mức cân bằng với cung và vượt cung. Khi đó đã xuất
hiên lạm phát, và lạm phát ở đây có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển. Vậy là
trong điều kiện nền kinh tế phát triển có hiệu quả, tiến bộ kỹ thuật được áp dụng
tích cực, cơ cấu kinh tế được đổi mới nhanh và đúng hướng thì lạm phát đã là một
công cụ để tăng trưởng kinh tế, chống suy thoái. Thực tế củat các nền kinh tế thị
trường trong thời kỳ sau chiền tranh thế giới thứ hai đã chứng tỏ điều đó. Nhưng
khi nền kinh tế đã rơi vào thời kỳ phát triển kém hiệu quả, tiến bộ kỹ thuật được áp
dụng chậm chạp, cơ cấu kinh tế được đổi mới theo các hướng không đúng hay trì trệ,
2
thiết bị kỹ thuật cũ tồn đọng đầy ứ. v. v... thì lạm phát theo lý thuyết cầu đã không còn
là công cụ tăng trưởng kinh tế nữa.
Lý thuyết chi phí cho rằng lạm phát nảy sinh do mức tăng các chi phí sản
xuất, kinh doanh đã nhanh hơn mức tăng năng suất lao động. Mức tăng chi phì này
chủ yếu là do tiền lương được tăng lên, giá các nguyên nhiên vật liệu tăng, công
nghệ cũ kỹ không được đổi mới, thể chế quản lý lạc hậu không giảm được chi
phí... Đặc biệt là trong những năm 70 do giá dầu mỏ tăng cao, đã làm cho lạm phát
gia tăng ở nhiều nước. Vậy là chi phí tăng đến mức mà mức tăng năng suất lao
động xã hội đã không bù đắp được mức tăng chi phí khiến cho giá cả tăng cao lạm
phát xuất hiện. ở đây suy thoái kinh tế đã đi liền với lạm phát. Do đo, các giải pháp
chống lạm phát không thể không gắn liền với các giải pháp chống suy thoái. Kể từ
cuối những năm 60 nền kinh tế thế giới đã rơi vào thời kỳ suy thoái với nghĩa là
tốc độ tăng trưởng bị chậm lại, kể từ đó vai trò là công cụ tăng trưởng của lạm phát
đã không còn nữa.
Lý thuyết cơ cấu được phổ biến ở nhiều nước đang phát triển. Theo lý thuyết
này thì lạm phát nảy sinh là do sự mất cân đối sâu sắc trong chính cơ cấu cơ của
nền kinh tế mất cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa công nghiệp nặng và công
nghiệp nhẹ, giữa công nghiệp và nông nghiệp giữa sản xuất và dịch vụ... Chính sự
mất cân đối trong cơ cấu kinh tế đã làm cho nền kinh té phát triển không có hiệu
quả, khuyến khích các lĩnh vực đòi hỏi chi phí tăng cao phát triển. Và xét về mặt
này lý thuyết cơ cấu trùng hợp với lý thuyết chi phí
Cũng có thể kể ra các lý thuyết khác nữa như lý thuyết tạo lỗ trống lạm phát
lý thuyết số lượng tiền tệ... song dù có khác nhau về cách lý giải nhưng hầu như tất
cả các lý thuyết đều thừa nhận: lạm phát chỉ xuất hiện khi mức giá cả chung tăng
lên, do đó làm cho giá tri của đồng tiền giảm xuống. Định nghĩa này có một điển
chung là hiện tượng giá cả chung tăng lên và giá trị đồng tiền giảm xuống. Tốc độ
lạm phát được xác định bởi tốc độ thay đổi mức giá cả.
II. CÁC LOẠI LẠM PHÁT
Căn cứ vào tốc độ lạm phát người ta chia ra làm ba loại lạm phát khác nhau.
3
1. Lạm phát vừa phải xảy ra khi giá cả tăng chậm ở mức một con số hay dưới
10% một năm. Hiện ở phần lớn các nước TBCN phát triển đang có lạm phát vừa
phải. Trong điều kiên lạm phát vừa phải giá cả tăng chậm thường xấp xỉ bằng mức
tăng tiền lương, hoặc cao hơn một chút do vậy đồng tiền bị mất giá không lớn,
điều kiện kinh doanh tương đối ở định tác hại của lạm phát ở đây là không đáng
kể.
2. Lạm phát phi mã xảy ra khi giả cả bắt đầu tăng với tỷ lệ hai hoặc ba con số
như 20%, 100% hoặc 200%... một năm. Khi lạm phát phi mã đã hình thành vững
chắc, thì các hợp đồng kinh tế được ký kết theo các chỉ số giá hoặc theo hợp đồng
ngoại tệ mạnh nào đó và do vậy đã gây phức tạp cho việc tính toán hiệu quả của
các nhà kinh doanh, lãi suất thực tế giảm tới mức âm, thị trường tài chính tàn lụi,
dân chúng thi nhau tích trữ hàng hoá vàng bạc bất động sản... Dù có những tác hại
như vậy nhưng vẫn có những nền kinh tế mắc chứng lạm phát phi mã mà tốc độ
tăng trưởng vẫn tốt như Brasin và Itxaraen. Về các trường hợp này cho đến nay
chúng ta chưa đủ thông tin và các công trình nghiên cứu giải thích một cách có
khoa học và có căn cứ.
3. Siêu lạm phát xảy ra khi tốc độ tăng giá vượt xa mức lạm phát phi mã,
được các nhà kinh tế xem như là căn bệnh chết người và không hề có một chút tác
động gọi là tốt nào. Người ta đã dẫn ra các cuộc siêu lạm phát nổ ra điển hình ở
Đức năm 1920-1923, hoặc sau chiến tranh thế giới thứ hai ở Trung quốc và
Hunggari...
Xem xét các cuộc siêu lạm phát xảy ra người ta đã rút ra một nét chung là:
thứ nhất tốc độ lưu thông của tiền tệ tăng lên ghê gớm; thứ hai giá cả tăng nhanh
và vô cùng không ở định; thứ ba tiền lương thực tế biến động rất lớn thường bị
giảm mạnh; thứ tư cùng với sự mất giá của tiền tệ mọi người có tiền đều bị tước
đoạt ai có tiền càng nhiều thì bị tước đoạt càng lớn; thứ năm hầu hết các yếu tố của
thị trường đều bị biến dạng bóp méo hoặc bị thổi phồng do vậy các hoạt động kinh
doanh rơi vào tình trạng rối loạn. Siêu lạm phát thực sự là một tai hoạ, song điều
may mắn siêu lạm phát là hiện tượng cực hiếm. Nó đã xảy ra trong thời kỳ chiến
tranh, sau chiến tranh.
4
Có thể có một cách phân loại lạm phát tuỳ theo tác động của chúng đối với
nền kinh tế. Nhà kinh tế học người Mỹ PaunA. Samuelson đã phân biệt lạm phát
cân bằng và có dự đoán trước với lạm phát không cân bằng và không được dự
đoán trước. Theo Samuelson trong trường hợp lạm phát cân bằng và có dự đoán
trước, toàn bộ giá cả đều tăng và tăng với một chỉ số ổn định được dự báo, mọi thu
nhập cũng tăng theo. Chẳng hạn mức lạm phát là 10% và mọi người sẽ điều chỉnh
hoạt động của mình theo thuớc do đó. Nếu lãi suất thực tế là 6% một năm thì nay
những người có tiền cho vay sẽ điều chỉnh mức lãi suất này lên tới 16% một năm.
Công nhân viên chức sẽ được tăng lương lên 10% một năm... Vậy là một cuộc lạm
phát cân bằng và có dự đoán trước đã không gây ra một tác hại nào đối với sản
lượng thực tế, hiệu quả hoặc phân phối thu nhập.
Trên thực tế hiếm có thể xảy ra một cuộc lạm phát như vậy, vì khi một khối
lượng tiền tệ được ném thêm vào lưu thông, già cả mọi hàng hoá không vì thế mà
tăng ngay, và nếu lạm phát chưa sang giai đoạn phi mẫ thí mức gia tăng mức đầu
thường là thấp hơn mức tăng khồi lượng tiền tệ, do vậy nhà nước đã có lợi về thu
nhập và ngay khi mức giá cả tăng lên ngang hoặc cao hơn mức tăng của khối
lượng tiền tệ thì nhà nước vẫn có lợi vì giá trị tiền tệ của những người cho nhà
nước vay tiền đã giảm đi. Chỉ đến khi toàn bộ giá cả kể cả lãi suất và tiền lương
đều tăng theo mức lạm phát thu thu nhập của nhập của nhà nước mới cân bằng trên
một mặt bằng giá cả mới. Hơn nữa trong thực tế rất khó dự báo được một chỉ số
lạm phát ổn định, vì có khá nhiều yếu tố làm giá cả tăng vọt như: giá dầu mỏ đã
tăng trong những năm70, hay trong sự kiện chiến tranh vùng vịnh.
Song có thể thấy một loại lạm phá vừa phải được điều tiết đã xuất hiện ở một
số nươc có nền kinh tế thị trường. Loại lạm phát này có đặc trưng là mức độ lạm
phát không lớn và ổn định, không tăng đột biến và nhà nước có thể điều tiết nó,
tăng, giảm tuỳ theo các điều kiện cụ thể sao cho nó không gây ra các tác hại đáng
kể cho nền kinh tế. Loại lạm phát này chỉ có thể xuất hiện ở những quốc gia mà ở
đó bộ máy nhà nước đủ mạnh để kiềm chế tốc độ lạm phát khi cần. Sức mạnh cuả
nhà thể hiện ở chỗ có đủ hiểu biết về lạm phát và các công cụ chống lạm phát( mà
ngày nay đã có khá nhiều tài liệu nói đến), đồng thời phải có đủ ý chí và quyết tâm
sử dụng các công cụ đó và giải quyết các hậu quả của nó. Trong những năm 80 ta
5
đã thấy không ít quốc gia TBCN phát triển ở phương Tây đã làm được điều đó.
Mức lạm phát mà họ duy trì được vào khoảng từ 3-6% một năm. Mức lạm phát
này được xem như một chỉ số cộng thêm vào mức tăng lương thực tế, lãi suất thực
tế mức tăng tổng sản phẩm xã hội thực tế.
Paul A. Samuelson còn nói tới một loại lạm phát không cân bằng và không
dự đoán trước. Sự không cân bằng sảy ra là vì giá cả hàng hoá tăng không đều
nhau và tăng vượt mức tiền lương.
Thứ hai, tiền tệ và thuế là hai công cụ quan trọng nhất để nhà nước điều tiết
nền kinh tế đã bị vô hiệu hoá, vì tiền mất giá nên không ai tin vào đồng tiền nữa
các biểu thuế không thể điều chỉnh kịp với mức độ tăng bất ngờ cua lạm phát và do
vậy tác dụng đieu chỉnh của thuế bị hạn chế ngay cả trong trường hợp nhà nước có
thể “chỉ số hoá” luật thuế thích hợp mức lạm phát thì tác dụng điều chỉnh của thuế
cũng bị hạn chế.
Thứ ba, phân phối lại thu nhập làm cho một số người nắm giữ các hàng hoá
có giá cả tăng đột biến giầu lên một cách nhanh chóng và những người có các hàng
hoá mà giá của chúng không tăng hoặc tăng chậm, và những người giữ tiền bị
nghèo đi.
Thứ tư, kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hoá, bất động sản và vàng
bạc... gây ra tình trạng khan hiếm hàng hoá không bình thường và lãng phí.
Thứ năm, xuyên tạc, bóp méo các yếu tố của thi trường, làm cho các điều
kiện của thị trường bị biến dạng hầu hết các thông tin kinh tế đều thể hiện trên giá
cả hàng hoá, giá cả tiền tệ( lãi suất), giá cả lao động... một khi những giá cẩ náy
tăng hay giảm đột biến và liên tục thì những yếu tố của thị trường không thể tránh
khỏi bị thổi phồng hoặc bóp méo.
Do những tác hại nêu trên, loại lạm phát không cân bằng và không dự đoán
trước về cơ bản là có hại cho hoạt động của thi trường.
6
CHƯƠNG II
LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM -
THỰC TRẠNG VÀ ĐẶC TRƯNG
I. LẠM PHÁT VIỆT NAM NHỮNG NĂM 1981- 1988
Lạm phát ở Việt Nam đã có từ lâu song ở đây chúng tôi muốn nói đến thời kỳ
1981-1988 trong thời kỳ 1976-1980, lạm phát ở Việt Nam “ ngầm”, nghĩa là tuy
chỉ số giá cả do nhà nước ấn định tăng không nhiều, nhưng chỉ số giá cả ở thị
trường tự do tăng khá cao, mức tăng giá cả đã vượt xa mức tăng giá trị tổng sản
lượng, cũng như thu nhập quốc dân: trong thời gian 1976-1980, giá trị trị tổng sản
lượng tính theo giá năm 1982 đã tăng 5. 8%, thu nhập quốc dân sản xuất đã tăng 1,
5%, nhưng mức giá trị đã tăng 2, 62 lần:
1- Thực trạng:
Bước vào những năm 80, lạm phát đã bột phát “công khai”, và trở thành lạm
phát phi mã với mức tăng giá 3 chữ số.
Chỉ số bán lẻ (năm trước =100)
Thi trường nhà nước kiểm soát là thị trường mà các giá cả do nhà nước qui
định.
Lạm phát ở Việt Nam đã ở mức phi mã, năm cao nhất đã đạt tới chỉ số tăng
giá 557% vượt qua mức lạm phát phi mã. Song những biểu hiện và tác hại của nó
không kém gì siêu lạm phát.
Thứ nhất, qua bảng trên ta thấy từ năm 1981-1988 chỉ số tăng giá đều trên
100% một năm; những năm đầu 80 mức tăng này là trên 200%, đến năm 1983và
1984 đã giảm xuống, nhưng từ năm 1986 đã tăng vọt tới mức cao nhất 557%, sau
đó có giảm; như vậy là mức lạm phát cao và không ổn định.
7
Thứ hai, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng nhanh vì dân chúng không ai muốn giữ
tiền, người ta bán song hàng phải mua ngay hàng khác, hoặc vàng hoặc đô la,
không ai dám giữ tiền lâu trong tay, vì tốc độ mất giá của nó quá nhanh. Song ở
Việt Nam vòng quay của đồng tiền qua ngân hàng nhà nước lại không tăng lên mà
giảm đi, vì cơ chế hoạt động của ngân hàng quá kém không đáp ứng được nhu cầu
gửi và rút tiền của các chủ kinh doanh và dân cư.
Thứ ba, tiền lương thực tế của dân cư bị giảm mạnh, ở Việt Nam trước năm
1988, hầu hết các giá cả do nhà nước qui định. Trong những năm 80 nhà nước đã
nhiều lần tăng giá. Trước năm 1985, mức tăng giá do nhà nước qui định không lớn,
tuy mức tăng giá ở thị trường tự do cao hơn nên nhà nước đã không bù giá vào
lương, tiền lương thực tế đã giảm xuống. Từ năm 1986 nhà nước đã bù giá vào
lương ngay sau khi tăng giá.
Nhưng tiền lương thực tế vẫn giảm mạnh vì nhà nước đã không khống chế
được thị trường tự do. Giá nhà nước tăng một lần thì giá thị trường tự do tăng 1, 5
lần. Nhà nước lại không cung cấp đủ hàng cho dân cư theo giá nhà nước, nên mọi
người phải mua hàng ngoài thị trường tự do với giá cao hơn, mặt khác những
người được nhà nước bù giá chỉ là những người làm trong khu vực nhà nước còn
số đông dân cư thì không được bù giá như vậy.
Thứ tư những người gửi tiền và có tiền cho vay đều bị tước đoạt, vì mức lãi
suất so với lạm phát.
Thứ năm, các yếu tố của thị trường Việt Nam bị thổi phồng và bóp méo. Do
giá cả nhà nước định đã không phải là giá cả thị trường, luôn thấp hơn giá cả thị
trường tự do, và lại tăng theo từng chu kỳ, nên đã khuyến khích xu hướng đầu cơ
và tích trữ hàng hoá kiếm lợi. Các xí nghiệp đã tìm mọi cách để dự trữ vật tư,
không cần kinh doanh cũng có lợi. Dân chúng phải dự trữ nhu yếu phẩm. Tình
trạng khan hiếm hàng hoá, khan hiếm vốn được phóng đại, các nhu cầu giả tạo
tăng lên, bức trang thực của nền kinh tế bị xuyên tạc, lãi giả, lỗ thật.
Những biểu hiện trên đây của lạm phát Việt Nam tuy mới trong giai doạn phi
mã, nhưng cũng đã gần như đầy đủ các nét chung của giai đoạn siêu lạm phát.
8
Một điều đáng chú ý là trước năm 1988, nhà nước đã áp dụng nhiều biện
pháp, nghị quyết chống lạm phát, nhưng vẫn không kiềm chế và kiểm soát được
lạm phát. Chỉ số giảm phát vẫn tăng giảm thất thường ngoài dự tính của nhà nước.
2- Những đặc trưng chủ yếu của lạm phát thời kỳ này.
Lạm phát ở Việt Nam cũng có những biểu hiện chung giống các nước khác
trên thế giới: như chỉ số giá cả nói chung tăng phổ biến, do vậy giá trị của đồng
tiền giảm. Song lạm phát ở Việt Nam có những đặc điểm riêng do những
điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể của Việt Nam qui định.
Lạm phát của một nền kinh tế kém phát triển trong đó khu vực kinh tế nhf
nước giữ địa vị thống trị.
Nền kinh tế Việt Nam kém phát triển vào bậc nhất trên thế giới tình trạng
kém phát triển này thể hiện ở một chỉ tiêu tính bình quân đầu người sau đây.
Tuy khu vực nhà nước chiếm phần lớn số vốn có định và chất sám trong
nước, nhưng lại chỉ có thể làm ra từ 30 đến 37% tổng sản phảm xã hội trong suốt
những năm 80. Một điều đặc biệt quan trọng đáng chú ý là các xí nghiệp quốc
doanh nhìn chung đã nộp ngân sách nhà nước một số tiền thấp rất xa so với số tiền
mà ngân sách nhà nước đã phải bao cấp cho nó qua các kênh bù lỗ, bù giá, bù cho
việc cấp phát tín dụng với lãi suất thấp, bù cho việc bán hàng nhập khẩu với giá rẻ
v. v..Có năm số tiền mà ngân sách nhà nước phải bao cấp đã lớn gấp ba lần số tiền
mà khu vực quốc doanh nộp vào ngân sách nhà nước. Tình trạng lãi giả lỗ thựclà
khá phổ biến nếu so sánh với khu vực kinh doanh tư nhân thí sự kém cỏi về hiệu
quả lại càng rõ. Báo nhân dân ngày 12-11-1988 cũng đã đưa ra một sự so sánh khá
lý thú: Tại trung tâm thương nghiệp Đà Nẵng, nếu cùng chiếm một diện tích kinh
doanh như nhau, nhưng thương nghiệp quốc doanh chỉ nộp ngân sách nhà nước 11
triệu trong quí một, trong khi đó thương nghiệp tư nhân đã nộp cho ngân sách 351
triệu đồng.
Vậy là đáng lẽ khu vực kinh tế nhà nước phải là nguồn thu chủ yếu của ngân
sách, thì trong những năm 80, ngược lại nó đòi hỏi ngân sách nhà nước quá lớn. Sự
phân tích trên cho thấy là khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam chiếm một tỷ
9
trọng lớn nhất về tài sản cố định, lao động lành nghề và chất xám, nhưng lại làm ăn
kém hiệu quả nhất, hàng năm đòi hỏi ngân sách nhà nước bao cấp lớn nhất, khu
vức kinh tế tập thể cũng vậy; chỉ có khu vực tư nhân làm ăn có hiệu quả, nhưng lại
chiếm một tỷ trọng nhỏ trong nền kinh tế. Nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà
nước trông chờ từ khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, nhưng các khu vực
này trên thực tế đã không đóng góp gì cho ngân sách nhà nước nếu so với phần nhà
nước phải bao cấp. Hơn nữa các khu vực này lại luôn luôn đòi hỏi ngân sách nhà
nước phải ưu đãi và bao cấp cho họ, vì họ là của nhà nước, của tập thể, của
“XHCN”... Đó là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới lạm phát và một khi lạm phát bùng
nổ, đã làm cho thị trường rối loạn, lời lỗ khó xác định, các hướng kinh doanh có
hiệu quả và không có hiệu quả lẫn lộn. Trong tình trạng đó, các đơn vị kinh doanh
phải đẩy mạnh các hoạt động đầu cơ ăn chênh lệch giá có lợi hơn là tìm hướng
kinh doanh có hiệu quả. Sự giảm sút hiệu quả kinh doanh càng nghiêm trọng hơn
và do vậy lạm phát lại càng cao hơn. Cái vòng soay hiệu quả giảm sút dẫn đến thu
không đủ chi và lạm phát, rồi lạm phát lại làm cho hiệu quả giảm sút... cứ thế
quay, thật nguy hiểm.
Lạm phát của một nền kinh tế mà độc quyền nhà nước có vị trí thống trị trên
mọi lĩnh vực, cơ chế quan liêu mệnh lệnh, bao cấp nặng nề.
Như chúng ta đã biết, tronh một nền kinh té thị trường cạnh tranh phát triển
tất dẫn đến tình trạng độc quyền và độc quyền khi mới xuất hiện có những ý nghĩa
tiến bộ như: để giành lấy vị trí độc quyền, các công ty phải cải tiến lao động áp
dụng tiến bộ kỹ thuật, tập trung các nguồn lực... Nhưng khi đã giữ được trí độc
quyền rồi, thì các công ty này lại tìm cách duy trì vị trí của mình bằng cách bóp
chết các địch thủ và ít chú ý đến việc cải tiến quản lý kỹ thuật, chính điều này đã
dẫn đến suy thoái và khủng hoảng. Ở Việt Nam nhiều nghành đã hợp nhất tất cả
các xí nghiệp lại thành một doanh nghiệp duy nhất và trong các lĩnh vực này
không thể còn tồn tại một sự cạnh tranh nào. Cùng với chế độ độc quyền nhà nước,
cơ chế mệnh lệnh quan liêu bao cấp đã ngự trị bền vững và bám rễ sâu chắc vào bộ
máy kinh tế nhà nước Việt Nam, các cơ sở kinh tế một thời làm gì cũng phải xin
lệnh cấp trên. Sản suất cái gì, mẫu mã gì, bán ở đâu, do ai cung cấp vật tư, thiết bị,
được tuyển bao nhiêu công nhân viên, lương mỗi người bao nhiêu v. v..đều do cấp
10
trên qui định. Cơ chế quan liêu này đã xoá hết tính độc lập tự chủ của các cơ sở. Chế
đọ độc quyền của nhà nước và cơ chế kinh tế kế hoạch, quan liêu, mệnh lệnh, bao cấp
đã triệt tiêu mất các quan hệ thị trường ở Việt nam, làm cho nền kinh tế Việt Nam xa
lạ với thị trường.
Chính chế độ độc quyền và cơ chế quan liêu bao cấp đã là một trong những
nguyên nhân chủ yếu đưa nền kinh tế Việt Nam tới tình trạng kém hiệu quả và lạm
phát cao.
Lạm phát của một nền kinh tế đóng cửa và phụ thuộc một chiều vào các
nguồn tài trợ bên ngoài. Nền kinh tế Việt Nam cho đến năm 1988về cơ bản vẫn là
vẫn là một nền kinh tế đóng cửa, tuy đã có luật đầu tư khà cởi mở. Từ trước năm
1988 về trước, dường như có rất ít các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, các
biên giới bị đóng cửa chặt hầu như không có buôn bán biên giới, chính sách hải
quan khá chặt chẽ không khuyến khích suất nhập khẩu, chính sách suất nhập cảnh
cũng chặt chẽ không kém. Hậu quả là các đồng vồn, hàng hoá... đã không du nhập
vào Việt Nam được mặc dù thị trường Việt Nam rất thiếu vốn và hàng hoá. Tình
trạng khan hiếm hàng hoá trên thị trường đã không được giải quyết bằng cách ngập
khẩu hàng hoá bổ xung. Đầu cơ phát triển, càng làm cho cung cầu không cân đối,
đẩy giá cả lên cao hơn.
Ngoài những đặc trưng chử yếu trên đây, ta còn có thể kể ra các đặc trưng
khác của lạm phát Việt Nam như:
- Lạm phát của một nền kinh tế mà cơ cấu của nó bao gồm những nghành
kém hiệu quả được ưu tiên phát triển.
- Lạm phát của một nền kinh tế chịu hậu quả nặng nề của các cuộc chiến
tranh kéo dài nhiều năm. Do vậy những khoản chi tiêu cho quốc phòng lớn, những
khoản chi phí đã làm tăng sự thâm hụt ngân sách và gia tăng lạm phát.
- Việt nam là nước nông nghiệp mà năm nào cũng có nơi bị thiên tai hạn hán
lũ lụt, mất mùa nặng nề, nên ngân sách phải trợ cấp vùng lũ lụt.
Từ những phân tích các đặc trưng của lạm phát, ta có thể thấy được những
nguyên nhân của lạm phát của thời kỳ 1981-1988.
11
Trước hết ta có thể tìm thấy nguyên nhân của lạm phát từ trong chính các thể
chế kinh tế ở Việt Nam, từ chế độ công hữu tràn lan đến cơ cấu kinh tế quan liêu
bao cấp, mệnh lệnh, đóng cửa... Chính thể chế kinh tế này dã làm cho nền kinh tế
hình thành và phát triển theo hướng tăng chi phí, tách rời nhu cầu, cô lập với thị
trường thế giới, do vậy mà không thể tạo môi trường kinh doanh có hiệu quả cho
các xí nghiệp các công ty, thúc đẩy mất cân đối cung cầu, thu và chi ngân sách...
Thể chế kích thích xu hướng phát triển không có hiệu quả, không trừng phạt các xí
nghiệp làm ăn thua lỗ. Đó là nguyên nhân sâu xa đưa nền kinh tế nước ta lâm vào
tình trạng lạm phát phi mã.
Thứ hai những nguyên nhân của lạm phát từ trong chính các thể chế chỉ đạo
sai lầm của bộ máy nhà nước: cơ cấu không suất phát từ hiệu quả, chính sách lãi
suất quá thấp so với mức trượt giá làm dân chúng không muốn gửi tiết kiệm, các
ngân hàng chỉ làm chức năng phát hành thu giữ mà không làm chức năng kinh
doang tiền tệ và vốn, không biết đầu tư vào ngành có hiệu quả, chính sách tài chính
chỉ tính đến việc tận thu và phát hành tiền để chi mà không biết nuôi dưỡng các
nguồn thu, vay của dân để chi v. v..Những chính sách này trên thực tế đã làm cho
các nguồn thu ngày càng cạn kiệt, ngân sách ngày càng thiếu hụt và lạm phát gia
tăng là một điều không tránh khỏi.
Thứ ba, nguyên nhân lạm phát do những điều kiện khách quan gây ra như
chiến tranh, thiên tai...
Những đặc trưng trên đây cho thấy lạm phát ở Việt Nam thời kỳ này khác
hẳn với các nước phương Tây.
II. LẠM PHÁT NƯỚC TA NHỮNG NĂM 1990-1995
1- Đổi Mới Cơ Chế, chính sách.
Những kết quả bước của quá trình đổi mới cơ chế, chính sách giá theo đường
lối đại hội VI và đại hội VII của đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện
trước hết và về cơ bản là cơ chế và chính sách giá đã chuyển biến theo hướng xoá
bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, thông qua hệ thống hai giá chuyển mạnh
sang cơ chế một giá kinh doanh phù hợp với quan hệ cung cầu và thị trường, bắt đầu
12
từ giá mua nông sản, thuỷ sản, giá bán lẻ hàng tiêu dùng và dịch vụ... Và đến nay hầu
hết các loại vật tư chủ yếu ; mở rộng quyền tự chủ về giá, đi đôi với đổi mới cơ chế kế
hoạch hoá, tự chủ về vốn tự chịu trách nhiệm về lời lỗ trong sản xuất kinh doanh.
Việc điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nước đã có sự đồng bộ trên các mặt tài
chính, tiền tệ và diều hoà thị trường giá cả, bội chi ngân sách và nhu cầu tín dụng
vốn lưu động cho các tổ chức kinh tế được bù đắp chủ yếu bằng nguồn vay dân;
ngân hàng đã có dự trữ đủ sức can thiệp hai thi trường vàng và đô la không để xảy
ra đột biến giá, lạm phát đã được kìm chế và giảm thấp là kết quả nổi bật trong
năm 1992.
Giá cả thị trường có xu hướng đi vào ổ định. Chỉ số giá bán lẻ hàng hoá dịch
vụ trong những tháng đầu năm 1992 tăng 5-6% tháng. Từ tháng 3-1992 tốc độ tăng
giá liên tục giảm, mức tăng giá bình quân hàng thàng từ 3, 5%trong quí I, xuống 0, 75%
trong quí II và xuống còn 0, 2% trong quí III, mức tăng giá hàng tháng trong quí IV là
1, 05% tuy cao hơn quí II và III nhưng thấp hơn nhiều so với mức tăng giá trong quí IV
các năm trước. Mức tăng giá cả năm là 17, 49% thấp hơn mức Quốc hội đề ra từ đầu
năm (30-40%).
Sở dĩ đạt được sự ổn định như trên là do kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố,
nhưng trước hết là chính sách quản lý chặt chẽ khối lượng tiền tệ tăng thêm, mở
rộng việc phát hành các tín phiếu, kỳ phiếu để thu hút mạnh số tiền nhàn rỗi trong
dân, cải tiến một bước công tác điều hoà lưu thông tiền tệ, xoá dần bao cấp qua
ngân sách và tín dụng, chấn chỉnh công tác quản lý ngoại hối với sự can thiệp trực
tiếp của ngân hàng và thị trường vàng và đo la, đồng thời trong lĩnh vực giá đã tiếp
tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý, gắn liền với quá trình chống lạm phát, được
thực thi trong cuộc sống bằng các giải pháp tình thế và cả các giải pháp cơ bản lâu dài.
Từ tháng ba năm 1989 lần đầu tiên sau nhiều năm lạm phát nghiêm trọng
trong việc thực hiện các giải pháp chống lạm phát cao đã chú trọng đến khâu trọng
tâm cần xử lý là chính sách tiền tệ, tín dụng. Do đó cũng là lần đầu tiên áp dụng
chính sách lãi suất phù hợp với qui luật của cơ chế thị trường: đưa lãi suất huy
động tiết kiệm lên cao hơn tốc độ trượt giá. Lãi suất huy động và cho vay các tổ
chức kinh tế cũng được dịch gần với lãi suất huy động tiết kiệm và chỉ số trượt giá
13
thi trường, rút ngắn kỳ hạn 3 năm (ngắn) và 5 năm (dài) về tiền gửi tiết kiệm
xuống không kỳ hạn và kỳ hạn ba tháng. Giải pháp tình thế này đã có tác dụng
quan trọng chặn đứng lạm phát cao. Mức lạm phát bình quân tháng từ 14, 2%
năm1988 giảm xuống còn 2, 5% năm1989.
Mức lạm phát được kìm chế trong cả sáu tháng đầu năm 90, đã đẩy lùi nguy
cơ khủng hoảng kinh tế- chính trị- xã hội, tạo điều kiện cải thiện quan hệ kinh tế
với các tổ chức tài chíng thế giới và góp phần ổn định chính trị xã hội tạo được
lòng tin trong nước và trên thế giới về tính đúng đắn về cuộc đôỉ mới ở nước ta.
Tuy nhiên trong việc áp dụng biện pháp tình thế nâng lãi suất tiết kiệm và
điều hành chính sách lãi suất nói chung cũng đã làm nảy sinh những mâu thuẫn
mới, ngoài tác dụng tích cực có gây một số tiêu cực cho nền kinh tế, đó cũng chính
là một trong những nguyên nhân dẫn đến tái lạm phát cao( so với năm 1989 và đầu
1990) từ quí III/1990 cho đến đầu năm 1992( tốc độ trượt giá hàng hoá hàng tháng
bình quân quí III/1990 là 4, 5%, quí IV/1990 là 7, 6% và bình quân tháng của năm
1991 là 4, 5%.
Lãi suất ngân hàng không được điều chỉnh kịp thời, tương ứng với tình hình
lạm phát theo đúng tính chất tình thế của công cụ này, nên có lúc đã trở thành quá
cao so với chỉ số trượt giá. Đã kích thích tăng tiền gửi quá mức, thu hẹp đầu tư cho
sản xuất và lưu thông gây khó khăn cho kinh tế quốc doanh trong quá trình phục
hồi và sắp xếp lại. Nhưng từ quí III/1990 lãi suất trở lên thấp xa so với tốc đọ trượt
giá, sinh ra bao cấp trở lại cho kinh tế quốc doanh và phát sinh nhu cầu vốn giả tạo
từ cơ sở.
Việc áp dụng biện pháp tình thế sử dụng chính sách lãi suất ngân hàng để
chống lạm cao trong năm 1989 và kéo dài đến quí I/1990 đã làm cơ chế ngân hàng
bị méo mó trái qui luật, lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động tiền tiết kiệm.
Tình trạng này tuy có được khắc phục dần trong năm 1991 nhưng đã làm cho ngân
hàng càng cho vay càng lỗ, bù lỗ ngân sách cho ngân hàng và ngân hàng không
chuyển sang kinh doanh được. Tình trạng bao cấp trong tín dụng trong kinh tế
quốc doanh ( lãi suất tín dụng thấp hơn tốc độ trượt giá ) đã che giấu thực trạng lỗ
của khu vực này, hình thành nhu cầu giả tạo về vốn. Việc sử dụng vốn vay kém
14
hiệu quả nợ khó đòi có lúc đã lên đến 20% dư nợ tín dụng của ngân hàng nhà
nước. Do vậy chủ trương “chống bao cấp qua giá đồng bộ với chống bao cấp qua
vốn” đã không được kiên trì và thực thi có hiệu quả.
Việc áp dụng biện pháp tình thế nâng lãi suất tiết kiệm không đồng bộ với thi
hành các biện pháp cơ bản chấn chỉnh kinh tế quốc doanh đổi mới chính sách tài
chính tiền tệ thay đổi chính sách tiền lương, sắp xếp đi lao động, trước hết là biên chế
khu vực hành chính sự nghiệp, các chính sách bảo hiểm chuyển ngân hàng sang kinh
doanh thực sự, làm lành mạnh thị trường vốn... Cho nên những nguyên nhân tiềm tàng
của lạm phát vẫn còn tồn tại.
Từ những bài học kinh nghiệm rút ra trong quá trình thực thi các giải pháp
chống lạm phát mang tính tình thế của thời kỳ 1989-9991 mà năm 1992 trong việc
điều hành nền kinh tế bằng các biện pháp vĩ mô của nhà nước đã có sự đồng bộ
trên các mặt tài chính- tiền tệ vàđiều hoà thị trường giá cả, bội chi ngân sách và
nhu cầu tín dụng vốn lưu động cho các tổ chức kinh tế được bù đắp chủ yếu bằng
nguồn vay dân; ngân hàng đã có dự trữ đủ sức can thiệp hai thị trường vàng và đô
la không để xảy ra đột biến và kết quả là lạm phát đã được kìm chế. Đó chính là
tính hiện thực của các giải pháp chống lạm phát, đồng thời cũng là thành công
trong điều hành vĩ mô nền kinh tế Việt Nan trong quá trình chuyển đổi kinh tế
càng làm sáng tỏ luận điểm đúng đắn: chống lạm phát và chuyển sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước là hai quá trình dan xen xoắn xuýt với nhau,
làm tiền đề và tạo điều kiện cho nhau để đạt tới những mục tiêu cơ bản: tăng
trưởng kinh tế kìm chế và đẩy lùi lạm phát bảo đảm cán cân thanh toán thương mại
và đảm bảo công bằng xã hội của quá trình dổi mới cơ chế kinh tế và cơ chế quản lý do
Đảng ta khởi xướng từ đại hội VI (1986).
Tuy lạm phát đã được kìm chế và đang có xu hướng giảm, song tình hình thị
trường và giá cả của năm qua cũng bộc lộ một số tồn tại đó là:
Do được mùa lương lúa hàng hoá tăng nhưng việc tiêu thụ chưa được giải
quyết tích cực nên giá thóc ở hai vùng đồng bằng đều xuống thấp chưa thực sự
khuyến khích nông dân sản xuất lương thực.
15
Hàng ngoại tràn vào nhiều qua nhập lậu đã gây khó khăn cho sản xuất trong
nước nhiều mặt hàng phải giảm giá, chịu lỗ.
Việc điều hoà lưu thông tiền tệ chưa được cải tiến đáng kể, các doanh nghiệp
thiếu vốn nhưng không vay ngân hàng do lãi suất ngân hàng vẫn còn cao.
Những kết quả đặt được của quá trình đổi mới cơ chế và chính sách giá và
chống lạm phát trong những năm qua khẳng định: đường lối chủ trương đổi mới do
Đảng ta khởi xướng từ đại hội VI đến nay là đúng đắn.
2- Thực trạng năm 1994-1995.
Lạm phát đã được kiềm chế và giảm thấp là kết quả nổi bật của năm 1992 và
1993. Đến năm1994 và 1995 lạm phát lại gia tăng. So với hai năm gần đây tốc độ
lạm phát 7 tháng đầu năm 1995 ở mức cao nhất (7 tháng đầu năm 1993 là 3, 9% và
7 tháng đầu năm1994 là 7, 2%). Lạm phát ở mức đáng lo ngại là các nguyên nhân
chủ yếu sau:
Về cân đối ngân sách nhà nước.
- Tuy kế hoạch thu chi ngân sách nhà nước được giao cho các Bộ, cho các dịa
phương từ cuối tháng 12 năm 1994, nhưng đến nay kế hoạch thu đạt ở mức thấp.
Sở dĩ như vậy là do một số nguồn thu không có cơ sở vững chắc, thất thu thuế
nghiêm trọng ở một số lĩnh vực, cơ chế thiếu đồng bộ, nhất quán. Khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh phát triển mạnh chiếm 24% GDP nhưng chỉ nộp có 11% số thu
về thuế và phí. Tình trạng tác động mạnh đến tiến độ chi ngân sách Nhà nước, đặc
biệt là cho đầu tư phát triển. Thêm vào đó việc thanh toán các khoản nợ xây dựng
cơ bản tập trung trong năm 1994chuyển sang lớn, một số nguồn chi phát sinh như
nợ nước ngoài, chi thực hiện ngân sách xã hội... Trong khi nguồn bù đắp ngân sách
bằng con đường tín dụng trong nước và quốc tế hết sức khó khăn, tạo áp lực cho
việc gia tăng cung cấp tiền tệ trong nền kinh tế.
Về tổ chức điều hành nền kinh tế thông qua chính sách tiền tệ.
- Mặc dù ngân sách nhà nước có nhiều cố gắng trong việc quản lý điều hành
nền kinh tế bằng chính sách tiền tệ, nhưng trong những năm gần đây nổi lên một số
vắn đề.
16
Việc thực hiện, duy trì không nghiêm ngặt tỷ lệ dự trữ tiền mặt bắt buộc đối
với các ngân hàng thương mại ; việc tăng vốn tín dụngvà chậm thu hồi vốn tín
dụng đến hạn phải trả của các ngân hàng thương mại làm gia tăng tổng phương
tiện thanh toán trong nền kinh tế.
Việc mở rộng và phát triển các nghiệp vụ trong kinh doanh của ngân hàng
thương mại và chính sách sử dụng ngoại tệ trong nền kinh tế thời gian qua vừa qua
làm tăng lượng tiền gửi vào ngân hàng, làm tăng hệ số tiền, do đó làm tăng tổng
phương tiện thanh toán.
Mức nợ tín dụng của ngân hàng thường mại tăng quá nhanh; nhiều lĩnh vực
đầu tư kém hiệu quả, dàn trải, tình trạng các công trình dở dang phổ biến làm trầm
trọng thêm sự mất cân đối hàng – tiền trong nền kinh tế. Hơn nữa, lượng tiền mặt
trong lưu hành không còn thu hút qua kênh ngân hàng, tạo áp lực khá đối với giá
cả thị trường, đặc biệt khi có sự biến động về giá cả.
Có nhiều ý kiến khác nhau khi xem xét ngyên nhân của lạm phát của nước ta
trong thời gian qua. Một số ý kiến cho rằng thâm hụt ngân sách nhà nước trong
thời gian qua. Một số ý kiến cho rằng thâm hụt ngân sách nhà nước, quản lý điều
hành thị trường trong thời gian qua không tốt gây ra tình trạng thiếu một số mặt hàng
như gạo, xi măng, giấy... ; xuất khẩu hàng lậu tăng, mở rộng quá mức hạn tín dụng
của các ngân hàng thương mại... làm cho lạm phát gia tăng. Do đó cần phải làm rõ
mối quan hệ của các nhân tố trên với tình trạng lạm phát gia tăng trong thời gian qua.
- Thứ nhất, việc thâm hụt ngân sách thường xuyên và khó khăn trong việc tìm
kiếm nguồn bù đắp lượng thâm hụt này, tạo nên áp lực tăng cung tiền. Tuy nhiên
nếu việc bù đắp lượng thâm hụt này bằng con đường tín dụng nhà nước như bán
trái phiếu chính phủ thì không ảnh hưởng gì tới chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ
trên thị trường. Nhiều nước trên thế giới có thời kỳ thâm hụt ngân sách tăng nhưng
tỷ lệ lạm phát vẫn được duy trì ở một mức nhất định. Do vậy thâm hụt ngân sách
nhà nước không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra lạm phát.
- Thứ hai, tình trạng biến động lớn về giá cả một số loại hàng hoá trong thời
gian vừa qua do mất cân đối cung cầu về loại hàng hoá trên thị trường. Nếu như
cung tiền tệ không đổi thì sự tăng giá đột biến với một số mặt hàng làm thay đổi cơ
17
cấu tiêu dùng trong xã hội, thực hiện phân phối lại giữa các cá nhân và các tổ chức
trong nền kinh tế. Do vậy sự sốt giá đối với một số loại hàng hoá không phải là
nguyên nhân chủ yếu của lạm phát trong thời gian qua. Tuy nhiên trên thực tế sự
tăng giá đột biến cũng tạo ra áp lực tăng cung tiền tệ, làm thay đổi lượng tiền mặt
dự trữ trong dân thông qua ngân hàng tác động đến chỉ số giá cả.
- Thứ ba, xuất khẩu lậu qua một số loại hàng hoá, đặc biệt là gạo tạo nên mất
cân đối cung cầu đẩy giá cả loai hàng hoá đó lên chừ không ảnh hưởng đến tình
trạng lạm phát ở nước ta trong thời gian qua.
Thứ tư việc tăng quy mô tín dụng của các ngân hàng thương mại ảnh hưởng
trực tiếp đến lam phát. Việc tăng vồn tín dụng cho ngân hàng thương mại làm tăng
cơ số tiền; mở rộng quy mô tín dụng làm tăng hệ số tiền, làm cho tổng phương tiện
thanh toán trong nền kinh tế tăng. Các NHTM di vay để cho vay các nguồn lực tài
chính tạm thời nhàn rỗi, thực hiện việc tích tụ tập trung vốn, tăng hiệu quả sử dụng
vốn trong nền kinh tế cần được phát huy. Để kiềm chế lạm phát do hoạt động tín
dụng ngày càng mở rộng của hệ thống NHTM là chức năng của ngân hàng Nhà
nước, thông qua các nghiệp vụ của nó; tuyệt nhiên không nên khống chế hạn mức
tín dụng tự huy động trong nền kinh tế để tái đầu tư.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ.
Nói chung ở Việt Nam không ai cho rằng có thể và cần phải loại bỏ lạm phát
trong điều kiên tăng trưởng ở mức hai con số. Song lạm phát ở mức nào thi tồn tại
hai ý kiến khác nhau:
Luồng ý kiến thứ nhất cho rằng, nên kiểm soát lạm phát ở mức 1, 2-1, 5 lần
tốc độ tăng trưởng là có thể chấp nhận được.
Luồng ý kiến thứ hai cho rằng cần kiểm soát lạm phát ở mức bằng hoặc thấp
hơn mức độ tăng trưởng.
Việc xét lạm phát trong mối quan hệ với tăng trưởng là đúng, nhưng cần phải
nắm chặt với tình hình thực tế của đất nước và kinh nghiệm của các nước có điều
kiện giống ta. Bởi lẽ, ở các nước tư bản phát triển, trong giai đoạn suy thoái vừa
qua, tốc độ tăng trưởng của họ rất thấp(0-2%) do đó họ có thể chấp nhận lạm phát
18
ở mức 2-3%(tức là cao hơn mức độ tăng trưởng) để kích thích tăng trưởng. Song ở
các nước đang phát triển, đặc biệt là nước có tốc độ tăng trưởng cao ở giai đoạn
đầu như nước ta, thì quan điẻm giữ tốc độ lạm phát cao hơn mức độ tăng trưởng là
rất nguy hiểm, điều này thể hiện ở 2 góc độ:
- Thứ nhất, kinh nghiệm các nước cho thấy, khi lạm phát lên tới trên 10% thì
Chính phủ không còn kiểm soát được nữa và nềnkinh tế rơi vào thế không ổn định.
- Thứ hai, nếu chú ý tới mối quan hệ nhân quả giữa lạm phát và tăng trưởng,
thì có thể thấy vòng xoáy như sau: lạm phát cao -> lãi suất cao -> đầu tư thấp -
>tăng trưởng chậm. Ví dụ lạm phát là 15% thi lãi suất phải là 22- 27% với mức lãi
suất này các foanh nghiệp không dám mạo hiểm đầu tư do đó tỷ lệ đầu tư sẽ thấp
và tốc độ tăng trưởng sẽ chậm. Trong số các nước khu vực Philippin là một bài học
rất rõ. Trong những năm 60-70 đây là một nước có triển vọng cao nhất trong vùng
nhưng sau đó do tỷ lệ lạm phát cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế nên nền kinh tế
nước này bị tụt hậu dần so với các nước trong khu vực khác.
Từ phân tích trên chúng tôi cho rằng phải có việc duy trì tốc độ tăng trưởng
cao hơn tốc độ lạm phát là mục tiêu hàng đầu trong điều kiện nền kinh tế tăng
trưởng hai con số nếu không chúng ta sẽ làm lại con đường mà Philippin đã đi.
Vậy để kiểm soát theo mục tiêu trên thì phải làm gì?
Nền kinh tế nước ta đã vượt qua được thời kỳ rối loạn lạm phát như những
năm 1986-1991 không thể tái diễn, nhưng sắp tới chúng ta sẽ phải đương đầu với
lạm phát cơ cấu. Tức là sự mất cân đối trong cơ cấu phát triển của nền kinh tế. Đây
là hệ quả tất yếu của quá trình tăng trưởng ở giai đoạn đầu và rất khó tránh khỏi.
Tuy nhiên nếu chính phủ thực sự quan tâm, thì ảnh hưởng của nó sẽ giảm đi.
19
CHƯƠNG III
KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
VÀ CHỐNG LẠM PHÁT Ở NƯỚC TA
I. NHÀ NƯỚC VÀ LẠM PHÁT
Sau 5 năm đi vào cơ chế thị trường, Việt Nam đã thành công đáng kể trong
việc giảm dần chỉ số lạm phát. Nếu năm 1991 chỉ số lạm phát ở mức 67%, thì năm
1992 chỉ số đó là 17%, năm 1993 là 5, 2%, năm 1994 là 14, 4%, và ba tháng đầu
năm 1995 là trên 6%. Từ thực tế đó chúng ta có thể rút ra là, trong nền kinh tế thị
trường lạm phát là một hiện tượng kinh tế-xã hội đương nhiên. Như chúng ta đã
biết, lạm phát đã từng xảy ra rất sớm trong lịch sử nhân loại. Trong xã hội hiện đại,
nhất là sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, lạm phát đã trở thành hiện tượng kinh
tế mang tính phổ biến trên toàn thế giới, từ các nước nghèo đến các nước giầu có
nền kinh tế phát triển cao.
Có ý kiến cho rằng, trong nền kinh tế thị trường “ lạm phát là hiện tượng phổ
biến khi lưu thông dấu hiệu giá trị không có vàng đảm bảo”. Các ý kiến khác lại
cho rằng “ lạm phát là một chính sách khai thác gián tiếp đặc biệt nhanh chóng và
tối đa nhất các hình thức phân phối lại, song không phải là vô hạn, đối với giá trị
vật chất của xã hội mà Nhà nước của mỗi giai cấp cầm quyền sử dụng để đáp ứng
nhu cầu chi tiêu và lợi ích cấp bách của nhà nước”.
Quả thật lạm phát trong hiện đại không thể tách rời việc sử dụng tiền dấu
hiệu thuần tuý và nhà nước sử dụng lạm phát như một chính sách tài chính quan
trọng. Nhưng đó chỉ là điều kiện hoạt động của lạm phát chứ chưa quyết định sự
tồn tại của lạm phát. Tính tất yếu của lạm phát trong nền kinh tế thị trường chính là
sự phát triển mất cân đối của nền kinh tế đó. Do sự phát triển mất cân đối của nền
kinh tế thị trường, quan hệ cung cầu về hàng hoá vận động trong trạng thái cân
bằng, hoặc là cầu lớn hơn cung, hoặc là cung lớn hơn cầu, lạm phát chính là bắt
20