Kinh tế học vi mô: Tư bản
Trong chương này, chúng ta sẽ xem xét về thị trường tư bản và các yếu tố quyết định sự thay đổi kỹ thuật.
Tư Bản (capital) gồm nhà, xưởng và máy móc được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm. Không nên nhầm lẫn khái niệm tư bản với khái niệm "vốn tài chính", nguồn tài chính được sử dụng để mua tư bản. Tư bản khác với các nhân tố sản xuất khác trong đó tư bản được sản xuất sử dụng tất cả các nhân tố sản xuất khác. Sản xuất tư bản liên quan tới chu...
Kinh tế học vi mô: Tư bản
Nguồn: www.saga.vn
Trong chương này, chúng ta sẽ xem xét về thị trường tư bản và các yếu tố quyết
định sự thay đổi kỹ thuật.
Tư Bản (capital) gồm nhà, xưởng và máy móc được sử dụng để sản xuất ra
sản phẩm. Không nên nhầm lẫn khái niệm tư bản với khái niệm "vốn tài chính",
nguồn tài chính được sử dụng để mua tư bản. Tư bản khác với các nhân tố sản
xuất khác trong đó tư bản được sản xuất sử dụng tất cả các nhân tố sản xuất
khác. Sản xuất tư bản liên quan tới chu trìnhsản xuất vòng tròn (roundable
production) trong đó xã hội sử dụng một số nguồn lực hiện có để sản xuất tư
bản thay vì sản xuất hàng hoá cho việc tiêu thụ ngay lập tức. Vì vậy, sản xuất tư
bản đòi hỏi xã hội bỏ qua việc tiêu dùng hiện tại. Để có tư bản, xã hội phải tiết
kiện. Sự tiết kiệm này tạo khả năng đầu tư tư bản thúc đẩy khả năng sản xuất
trong tương lai của xã hội.
Cầu về tư bản được gắn với sản phẩm doanh thu cận biên của tư bản. Tư bản
bổ sung vẫn được cần tới chừng nào sản phẩm doanh thu cận biên của tư bản
vượt quá phí tổn yếu tố cận biên của tư bản. Mặc dù khi mua tư bản, các công ty
phải tính tới doanh thu được tư bản mang lại với toàn bộ khả năng sản xuất của
công ty. Do tư bản có xu hướng tồn tại trong một giai đoạn tương đối dài, việc
tính sản phẩm doanh thu cận biên đòi hỏi phải tính tới doanh thu được sản xuất
trong một tương lai tương đối xa cũng như doanh thu được tạo ra trong thời gian
trước mắt.
Do 1000 đôla doanh thu nhận được trong 10 năm tới ít giá trị hơn 1000 đôla
doanh thu nhận được hôm nay, điều cần là tìm ra cách so sánh lợi ích nhận
được trong những các giai đoạn thời gian khác nhau. Giá trị hiện thời (present
value) của bất kỳ bảng quyết toán nào trong tương lai là số lượng phải từ bỏ
hiện nay để nhận được quyết toán trong tương lai cụ thể. Ví dụ, giá trị hiện thời
của 1000 đôla nhận được trong 5 năm sẽ là số tiền bạn phải gửi vào ngân hàng
dưới hình thức một tài sản sinh lời hiện tại để bạn nhận được 1000 đôla trong 5
năm. Do kết quả của tích luỹ lợi nhuận, giá trị hiện thời của sự chi trả này phải
chắc chắn ít hơn 1000 đôla. Cụ thể là, giá trị hiện thời của một khoản chi trả là K
đôla nhận được trong T năm trong tương lai được tính bằng:
PV ($K nhận được trong 5 năm) = , trong đó r là tỷ lệ lãi suất thị
trường.
Như công thức trên cho thấy, giá trị hiện thời của bất kỳ bảng quyết toán tương
lai nào cho trước sẽ ít hơn khi khoản chi trả nhận được xa vời trong tương lai
hoặc khi tỷ lệ lãi suất cao hơn. Để hiểu điều này bằng trực giác, hãy lưu ý một
bảng quyết toán hiện thời nhỏ hơn sẽ phải từ bỏ hiện nay để đạt được giá trị cụ
thể trong tương lai nếu lãi suất tích luỹ trong một giai đoạn thời gian dài (T tăng)
hoặc tỷ lệ lãi suất nhận được cao hơn hàng năm (r tăng).
Với một tỷ lệ lãi suất cho trước, đường cầu tư bản là giá trị hiện thời của dòng
sản phẩm doanh thu cận biên được tạo ra tại mỗi mức tư bản. Giữ các nguồn
lực khác không đổi, sản phẩm doanh thu cận biên về tư bản được dự tính giảm
(trong mỗi giai đoạn thời gian). Vì vậy, chúng ta sẽ dự tính đường cầu tư bản sẽ
là một đường cong có độ dốc đi xuống, như trong biểu đồ dưới đây).
Do đường cầu về tư bản được gắn với giá trị hiện thời của luồng sản phẩm
doanh thu cận biên được tư bản tạo ra, một sự tăng tỷ lệ lãi suất dẫn tới một sự
giảm về cầu (do giá trị hiện thời của doanh thu trong tương lai do tư bản tạo ra
giảm khi tỷ lệ lãi suất tăng). Vì vậy đường cầu về tư bản dịch chuyển sang trái
(giảm) khi tỷ lệ lãi suất tăng (như được minh hoạ dưới đây).
Cung tư bản được cung cấp bởi các công ty sản xuất hàng hoá tư bản.Như trên
các thị trường khác, một sự tăng giá tư bản thúc đẩy các công ty cung cấp một
lượng tư bản lớn hơn. Vì vậy đường cung tư bản là đường có độ dốc đi lên. Như
biểu đồ dưới đây cho thấy, một sự tăng giá tỷ lệ lãi suất thị trường dẫn tới giảm
sự cân bằng số lượng tư bản được bán.
Thay đổi kỹ thuật
Khi mua tư bản, các công ty cũng sở hữu những kỹ thuật mới hơn. Những máy
tính mới chắc chắn có tốc độ nhanh hơn các máy tính cũ. Những lò đốt mới có
hiệu quả năng lượng tốt hơn các lò đốt cũ, v.v. Sự thay đổi kỹ thuật này tạo khả
năng cho một công ty sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn với mỗi đơn vị đầu vào.
Sự thay đổi kỹ thuật có thể là kết quả của việc nghiên cứu cơ bản hoặc nghiên
cứu áp dụng. Nghiên cứu cơ bản (Basic Research) là nghiên cứu chỉ được sử
dụng nhằm tạo ra những kiến thức mới. Nghiên cứu ứng dụng (Applied
Research) là nghiên cứu được thực hiện với một sự áp dụng thực tế cụ thể.
Những hoạt động nghiên cứu ứng dụng thành công dẫn tới sự phát triển của
những phương pháp sản xuất mới hoặc những sản phẩm mới. Nghiên cứu cơ
bản nói chung được tài trợ bởi các trường đại học, chính phủ và các quỹ tư
nhân. Nghiên cứu ứng dụng và phát triển nói chung được đảm nhiệm bởi các
công ty.
Sự thay đổi kỹ thuật không chỉ hạ thấp chi phí hơn, mà nó còn có thể làm tăng
hoặc giảm mức độ quy mô kinh tế tồn tại trong một ngành.
Một vấn đề đi cùng với việc áp dụng những kỹ thuật mới là khả năng con
đường tự lập (path dependency). Con đường tín nhiệm nảy sinh khi một "tiêu
chuẩn ngành" được thiết lập như kết quả sự thống trị của công ty ban đầu giới
thiệu một sản phẩm. Người ta thường cho rằng một khi một tiêu chuẩn ban đầu
được chấp thuận rộng rãi, việc thông qua những hệ thống tốt hơn sẽ rất khó.
Cũng cần lưu ý là hầu hết các nhà kinh tế học nhận thấy có ít bằng chứng kinh
nghiệm củng cố lập luận con đường tự lập. Bằng chứng được trích dẫn phổ biến
nhất là sự thông qua thiết kế bàn đánh máy với sự sắp xếp QWERTY. Nhiều
người cho rằng bàn phím DVORAK tốt hơn do kết quả của một kiểm tra đánh
máy riêng vài thập kỷ trước. Điều bị bỏ qua nói chung là kiểm tra đánh máy này
được tài trợ bởi nhà sáng lập của bàn phím DVORAK và không thành công trong
việc sao chép cho dù thử nghiệm vô số lần…
Vốn tài chính (Financial Capital)
Các công cụ tài chính mà các công ty sử dụng để tài trợ cho việc mua tư bản
được gọi là vốn tài chính. Cổ phần, trái phiếu, và những công cụ tương tự là ví
dụ về vốn tài chính.
Người chủ sở hữu của cổ phần nhận được hai hình thức lợi tức: lợi tức cổ phần
và lợi tức vốn. Lợi tức cổ phần (dividends) là những lợi nhuận được chia cho
những người chủ sở hữu cổ phần. Lợi tức vốn (capital gains) xuất hiện khi giá trị
của cổ phần tăng qua thời gian. Lợi tức hàng năm (annual returns) về cổ phần
gồm lợi tức cổ phần cộng với lợi tức vốn.
Trái phiếu kèm phiếu trả lãi (coupon bonds) là những trái phiếu công ty được
cung cấp kèm một phiếu trả lãi cố định hàng năm (thực sự là hai năm). Phiếu trả
lãi mang lại cho người chủ trái phiếu một khoản lợi tức hàng năm mà khoản lợi
tức này là một phần cố định về giá trị bề ngoài của trái phiếu. Giá trị toàn bộ của
trái phiếu được trả lại theo thời hạn đáo hạn thanh toán (maturity date) của
trái phiếu. Do giá của trái phiếu có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị bề ngoài
của trái phiếu, lợi tức của một trái phiếu cũng có thể gồm cả phiếu trả lãi đi kèm
và lợi tức vốn (lưu ý với cổ phần hoặc trái phiếu, lợi tức vốn âm - còn được gọi là
tổn thất vốn - thường không phải không phổ biến). Khi giá của trái phiếu tăng, lợi
tức của trái phiếu giảm (do phiếu trả lãi đi kèm và việc chi trả tại thời hạn thanh
toán là cố định). Vì vậy, có mối quan hệ nghịch đảo giữa giá của trái phiếu và lợi
tức của trái phiếu.
Để cho đầy đủ, chúng ta nên nói tóm tắt về trái phiếu chiết khấu. Trái phiếu
chiếtkhấu (Discount bonds) không đi kèm phiếu trả lãi suất, nhưng thay vào đó
nó được bán tại mức giá thấp hơn mức giá danh nghĩa. Sự khác biệt giữa giá
mua trái phiếu và giá trị của nó khi nó được bán mang lại lợi tức cho người chủ
trái phiếu. Trái phiếu chính phủ (chẳng hạn như trái phiếu ngân khố (Treasury
Bills), kỳ phiếu ngân khố và trái phiếu tiết kiệm) được gọi là những trái phiếu
chiết khấu.
Trái phiếu rủi ro mang lại lợi tức trung bình cao hơn trái phiếu an toàn hơn do
các nhà đầu tư tài chính sẽ chỉ giữ những tài sản tài chính có mức rủi ro hơn nếu
họ nhận được lợi ích rủi ro (risk premium) đủ lớn để có thể thuyết phục họ
chấp nhận sự rủi ro thêm.
Như trong sách giáo khoa của bạn có viết, lợi nhuận kinh tế bằng lợi nhuận kế
toán trừ đi chi phí vốn cổ phần. Lợi nhuận kinh tế dương xuất hiện khi mức lợi
nhuận vượt quá chi trả lợi tức cổ phần phải trả cho các cổ đông. Giá cổ phiếu
được dự tính tăng tương ứng với lợi nhuận dự tính cao hơn.