Kế tóan quản trị trong kiểm sóat chất lượng tòan diện - Vấn đề cần
quan tâm của các doanh nghiệp Việt Nam (P2)
Chi phí cho những sai hỏng bên trong (Internal Failure costs):
Chi phí cho những sai hỏng bên trong là những chi phí phát sinh do có sự không phù hợp
hoặc sai hỏng ở một giai đoạn nào đó trong quá trình sản xuất, chi phí phát sinh do có nguyên vật
liệu và sản phẩm hư hỏng. Đó là những chi phí do phải tiến hành những việc làm không cần thiết
do chọn vật liệu sai, kém chất lượng, tổ chức sản xuất tồi…Chi phí cho những sai hỏng bên trong
bao gồm:
§ Lãng phí : Tiến hành những công việc không cần thiết, do nhầm lẫn, tổ chức kém,
chọn vật liệu sai,v.v.Ở các nhà máy, xí nghiệp, sự lãng phí trong các hoạt động thường ngày
thường bị bỏ qua hay ít được quan tâm đúng mức nên thường khó tránh khỏi. Tuy loại hình sản
xuất kinh doanh khác nhau, nhưng có một số loại lãng phí phổ biến thường gặp: lãng phí do sản
xuất thừa, lãng phí thời gian, lãng phí khi vận chuyển, lãng phí trong quá trình chế tạo, lãng phí
kho, lãng phí động tác, lãng phí do chất lượng sản phẩm kém …
§ Phế phẩm : Sản phẩm có khuyết tật không thể sữa chữa, dùng hoặc bán được.
§ Gia công lại hoặc sửa chữa lại: Các sản phẩm có khuyết tật hoặc các chỗ sai sót
đều cần phải gia công hoặc sửa chữa lại để đáp ứng yêu cầu.
§ Kiểm tra lại: Các sản phẩm sau khi đã sửa chữa cũng cần thiết phải kiểm tra lại để
đảm bảo rằng không còn sai sót nào nữa.
§ Thứ phẩm: những sản phẩm còn dùng được nhưng không đạt qui cách và có thể
bán với giá thấp, thuộc chất lượng loại hai
§ Phân tích sai hỏng: những hoạt động cần có để xác định nguyên nhân bên trong
gây ra sai hỏng của sản phẩm
Đây là loại chi phí tồn tại ở mọi doanh nghiệp, nó cho ta thấy sự hao phí vô ích các
nguồn lực trong công ty. Nếu việc chi tiêu cho chi phí này tăng qua các năm điều đó chứng minh
doanh nghiệp chưa kiểm soát tốt vấn đề chất lượng. Vì vậy, để kiểm soát được chi phí này, các
doanh nghiệp phải xây dựng định mức tiêu hao loại chi phí này cho từng năm và định mức cần
phải giảm qua các năm. Hàng tháng, doanh nghiệp phải lập các báo cáo theo dõi chi phí này. Từ
đó đánh giá việc thực tế chi tiêu cho chi phí này so với định mức, nếu việc chi tiêu này tiết kiệm
hơn so với định mức là tốt.
Ø Chi phí cho những sai hỏng bên ngoài (External Failure costs):
Chi phí cho những sai hỏng bên ngoài là những chi phí phát sinh do việc đem đến những
sản phẩm kém chất lượng cho khách hàng. Chi phí cho những sai hỏng bên ngoài bao gồm:
§ Chi phí để giải quyết và phục vụ các khiếu nại của khách hàng.
§ Chi phí cho sự bồi thường sản phẩm không đạt chất lượng, đổi lấy sản phẩm mới.
§ Chi phí sửa chữa và bảo hành những sản phẩm sai sót, hư hỏng trong thời gian còn
bảo hành.
§ Chi phí cho hàng bị trả lại: chi phí điều tra nghiên cứu các sản phẩm bị trả lại, chi
phí vận chuyển trở về và sửa chữa các sản phẩm trả lại.
§ Chi phí lưu kho những sản phẩm bị trả lại, những sản phẩm bảo hành…
§ Chi phí liên quan đến việc kiện tụng về trách nhiệm pháp lý đối với sản phẩm
không đạt chất lượng và các yêu sách của khách hàng.
§ Chi phí xã hội hay chi phí môi trường.
Cũng giống như chi phí cho những sai hỏng bên trong, loại chi phí này cũng cần giảm chi
tiêu qua các năm.
Bảng tóm tắt nội dung chi phí bảo đảm chất lượng trong kiểm soát chất lượng toàn
diện
LoạI chi phí Nội dung Mục tiêu
bảo đảm chất lượng
1/ Chi phí - Chi phí cho việc - Chi tiêu nhiều
phòng ngừa sai hỏng thiết kế và xây dựng quy cho loại chi phí này
sản phẩm trình sản xuất. doanh nghiệp sẽ giảm
(Prevention costs) - Chi phí cho máy được giảm được chi phí
móc thiết bị để sản xuất ra cho những sai xót trong
các sản phẩm chất lượng cao. quá trình sản xuất và
những chi phí phát sinh
- Chi phí cải tiến chất
trong quá trình tiêu thụ
lượng NVL đầu vào.
sản phẩm. Tăng tỷ
- Chi phí cho chương trọng chi phí loại này
trình bảo trì, bảo dưỡng máy trong tổng chi phí bảo
móc… đảm chất lượng qua các
- Chi phí huấn luyện
LoạI chi phí Nội dung Mục tiêu
bảo đảm chất lượng
về chất lượng. năm.
2/ Chi phí cho - Chi phí cho việc - Chi phí này là
sự kiểm soát sản kiểm tra NVL đầu vào, kiểm loại chi phí không tạo
phẩm (Appraisal tra quá trình sản xuất, kiểm ra giá trị gia tăng trong
costs) tra bán thành phẩm, thành sản phẩm. Cần chi tiêu
phẩm. tiết kiệm hơn so với
- Chi phíkiểm loại chi phí này, nên
nghiệm sự vận hành của hệ giảm dần tỷ trọng loại
chi phí này trong tổng
thống kiểm soát chất lượng
chi phí bảo đảm chất
- Chi phí kiểm tra
lượng qua các năm.
hiện trường sản xuất.
- Chi phí cho việc
nhận định và kiểm tra chất
lượng định kỳ.
- Chi phí cho việc
nhận định và đánh giá nhà
cung cấp.
3/ Chi phí cho - Chi phí do lãng phí: - Chi phí này
những sai hỏng bên do sản xuất thừa, lãng phí cho thấy sự hao phí vô
trong (Internal thời gian, lãng phí do tồn kho ích các nguồn lực của
Failure costs) quá mức, lãng phí do chất công ty. Xây dựng định
lượng NVL kém, chất lượng mức tiêu hao loại chi
sản phẩm kém. phí này cho từng năm
và định mức cần phải
- Phế phẩm.
giảm qua các năm, chi
- Chi phí gia công lại
tiêu thực tế cần tiết
hoặc sửa chữa lại.
kiệm so với định mức.
- Chi phí kiểm tra lại. Nên giảm dần tỷ trọng
- Thứ phẩm. loại chi phí này trong
tổng chi phí bảo đảm
LoạI chi phí Nội dung Mục tiêu
bảo đảm chất lượng
- Chi phí phân tích sai chất lượng qua các
hỏng. năm.
4/ Chi phí cho - Chi phí giải quyết - Xây dựng định
những sai hỏng bên các khiếu nại của khách mức tiêu hao loại chi
ngoài (External hàng. phí này cho từng năm
Failure costs) - Chi phí cho sự bồi và định mức cần phải
thường sản phẩm không đạt giảm qua các năm, chi
chất lượng, đổi lấy sản phẩm tiêu thực tế cần tiết
mới. kiệm so với định mức.
Nên giảm dần tỷ trọng
- Chi phí sửa chữa và
loại chi phí này trong
bảo hành sản phẩm.
tổng chi phí bảo đảm
- Chi phí cho hàng bị chất lượng qua các
trả lại. năm.
- Chi phí lưu kho
những sản phẩm bị trả lại,
những sản phẩm bảo hành…
- Chi phí liên quan
đến việc kiện tụng về trách
nhiệm pháp lý đối với sản
phẩm không đạt chất lượng
và các yêu sách của khách
hàng.
- Chi phí xã hội hay
chi phí môi trường.
0
ất cả bốn loại chi phí trên được ghi nhận trong hệ thống chi phí của các công ty. Mục
tiêu của đo lường chi phí bảo đảm chất lượng là xác định doanh nghiệp thực tế đã chi tiêu bao
nhiêu chi phí cho vấn đề chất lượng. một nghiên cứu thực tế đối với các công ty ở Mỹ cho thấy,
hầu hết các công ty đã chi tiêu khoảng 15% - 20% doanh thu cho vấn đề chất lượng sản phẩm.
Con số này đáng để các nhà quản trị chất lượng của doanh nghiệp quan tâm.
Thực tế, những công ty ít quan tâm đến vấn đề chất lượng sẽ hoàn toàn chọn sự kiểm tra
chất lượng hơn là thiết kế chương trình ngăn ngừa. Vì vậy, họ sẽ chi tiêu nhiều chi phí cho
những sai hỏng bên trong và bên ngoài. Đồng thời, những công ty này cũng phải dành những
khoản chí phí cho sự thẩm định để đảm bảo cho nguyên vật liệu đầu vào đạt tiêu chuẩn.
Trong khí đó, những công ty quan tâm đến kiểm soát chất lượng toàn diện lại chú trọng
đến chi phí phòng ngừa rủi ro. Thí dụ: Signetics Corporation – USA, một công ty về chất bán
dẫn của Mỹ, đã lựa chọn chương trình kiểm soát chất lượng toàn diện sau khi đánh giá và ước
lượng rằng với điều kiện sản xuất như hiện tại, để đạt được chất lượng như yêu cầu của khách
hàng thì công ty cần rất nhiều nhân viên kiểm tra sản phẩm hơn là nhân viên sản xuất. Một công
ty khác, The Material & Controls Group-USA, Công ty sản xuất thiết bị điện, qua nghiên cứu
tình hình công ty mình cũng đã thấy rằng chi phí cho việc dò tìm, phát hiện và thay thế những
điện trở không đảm bảo chất lượng ngay ở chặng đầu của quá trình sản xuất sẽ thấp hơn rất
nhiều đối với chi phí cho việc sửa chữa và thay thế 5000 chi tiết thiết bị ở giai đoạn sản xuất này
do không kiểm soát kỷ đầu vào.
Hai công ty trên đã nhận thấy rằng việc chi nhiều cho loại chi phí phòng ngừa sai hỏng có
thể đưa đến giảm nhiều chi phí cho những sai hỏng bên trong và bên ngoài. Khi quá trình nghiên
cứu sản phẩm, quan hệ với nhà cung cấp, cũng như cải tiến công cụ máy móc, bảo trì bảo dưỡng
mày… được tốt, về căn bản công ty cũng có thể giảm chi phí cho sự kiểm soát sản phẩm. Khi
chất lượng được gắn liền trong việc thiết kế sản phẩm và quá trình sản xuất, công ty sẽ không
cần nhiều nhân viên kiểm tra sản phẩm. Trong bốn loại chi phí bảo đảm chất lượng trên, hệ
thống kiểm soát chất lượng toàn điện (TQC) tập trung nhiều vào loại chi phí phòng ngừa sai
hỏng sản phẩm.
Nói tóm lại, trong những năm qua, chất lượng đã trở thành vấn đề quan tâm chính của các
nhà quản trị. Xây dựng hệ thống kiểm soát chất lượng chính là cơ sở cho việc đảm bảo mục tiêu
chất lượng của doanh nghiệp. Muốn có chất lượng cao, nhất thiết phải xây dựng và áp dụng các
mô hình, hệ thống kiểm soát chất lượng tiên tiến đó chính là một trong những công cụ để nâng
cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Kế toán quản trị đóng một vai trò quan trọng trong việc
giúp tổ chức đạt được mục tiêu chất lượng của mình bằng cách cung cấp một sự đa dạng về
phương pháp đo lường và các báo cáo để thúc đẩy và đánh giá nổ lực cải tiến chất lượng của nhà
quản trị.