Hội An
Hội An, một trong những đô thị cổ xưa nhất của Việt Nam, có một chiều dài lịch sử bốn trăm năm mươi năm, ra đời dưới thời các chúa Nguyễn
Hội An, một trong những đô thị cổ xưa nhất của Việt Nam, có một chiều dài lịch
sử bốn trăm năm mươi năm, ra đời dưới thời các chúa Nguyễn, xứng đáng được
nghiên cứu thật sâu sắc về giá trị văn hóa và nghệ thuật, các hoạt động kinh tế
và văn hóa xã hội.
Đô thị Hội An chỉ chiếm một khoảng không gian chừng hai cây số, thật nhỏ với
đô thị cổ Bến Nghé-Sài Gòn- Gia Định rộng bề thế, chỉ có bề dày khoảng 500
năm, thật mong hơn nhiều so với
Kẻ Chợ- Kinh Kỳ- Đông Đô- Thăng Long- Hà Nội với hàng ngàn năm văn hiến,
không có quần thể di tích lịch sử đồ sộ và phong cách hữu tìnhh như cố đô Phú
Xuân Huế thế mà làm sao miền đất cổ xưa này lại có sức vẫy gọi kỳ lạ đến như
thế, không chỉ đối với người dân ở mọi miền đất nước Việt Nam mà cả đối với
các du khách và với các nhà nghiên cứu ở nhiều quốc gia của các châu lục trên
thế giới.
Vì thế mà trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu văn hoá Việt Nam và thế
giới rất quan tâm tới việc nghiên cứu về khu phố cổ Hội An với hàng loạt các
công trình nghiên cứu khoa học viết về khu phố cổ Hội An. Đó là một Khu phố
cổ rộng khoảng 2 km2 , gồm nhiều dãy phố nhỏ hẹp, như bàn cờ với hàng trăm
ngôi nhà cổ, các công trình kiến trúc, di tích, các dấu ấn, văn bản, thư tịch. . . Có
giá trị văn hoá – lịch sử rất cao, hiện nay thuộc thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam –
Đà Nẵng, cách Thành phố Đà Nẵng khoảng 30 km. Đất nước ta đã trải qua bao
thăng trầm của lịch sử với biết bao cuộc chiến tranh liên miên và sự khắc nghiệt
của thiên nhiên, hầu hết các đô thị cổ như Thăng Long Kẻ Chợ, Phố Hiến . . Và
các công trình văn hoá – lịch sử của dân tộc ta bị phá huỷ gần hết thì việc khu
phố cổ Hội An còn tồn tại một tổng thể hầu như nguyên vẹn với một số lượng
lớn các di tích với kiến trúc độc đáo có tuổi hàng mấy trăm năm là một niềm may
mắn vô bờ cho dân tộc ta. Do vậy, không những Hội An trở hành đô thị cổ duy
nhất của nước ta còn tồn tại mà Hội An cũng là một trường hợp hiếm hoi trên
thế giới. Hội An không chỉ trở thành tài sản có giá trị văn hoá – lịch sử lớn lao
của dân tộc ta mà còn trở thành di sản văn hoá của toàn nhân loại. Ngày 1 tháng
1
12 năm 1999, khu phố cổ Hội An được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá
thế giới. Hội An ngày càng được quan tâm, chú ý và nghiên cứu tìm hiểu nhiều
hơn để bảo tồn được các di sản quý giá này của nước ta và nhân loại, và công
việc nghiên cứu để tìm ra những giá trị văn hoá – lịch sử độc đáo, riêng biệt này
đòi hỏi rất nhiều công sức, tâm huyết và thời gian.
Hiện nay, nhiều người tiếp tục nghiên cứu các mối giao lưu tiếp xúc với các
quốc gia khác (Nhật Bản, Trung Quốc, Philipin, . . ) không chỉ là trong các thế kỷ
XV - XVII mà còn trong cả nền văn hoá Sa Huỳnh trước thế kỷ XV của người
Champa cổ tại Hội An là một công trình nghiên cứu văn hoá – lịch sử tuyệt vời,
có thể đem lại rất nhiều bất ngờ cho lịch sử phát triển của Hội An vốn chứa biết
bao nhiều là bí ẩn văn hoa – lịch sử chưa được giải mã hết. Trong đó, mối quan
hệ giao lưu Việt – Nhật ở Hội An được chú ý đến nhiều hơn. Có lẽ người ta cho
rằng chính mối giao lưu đó đóng vai trò là động lực thúc đẩy cho sự phát triển
rực rỡ cua Hội An trong thế kỷ XVI – XVII. Tôi cũng đồng ý với ý kiến đó và vì
tôi rất muốn tìm hiểu về đô thị cổ Hội An, do đó tôi viết bài báo cáo này nhằm
nêu một số nét sơ lược tìm hiểu về mối quan hệ Việt – Nhật tại Hoi An, và qua
bài báo cáo này tôi muốn bày tỏ mong muốn được tiếp tục nghiên cứu về mối
quan hệ Việt – Nhật và có thể đóng góp một phần nhỏ vào sự phát triển mối
quan hệ Việt – Nhật ngày càng tốt đẹp hơn.
GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỘI AN:
Hoàn cảnh địa lý :
Khi tìm hiểu về Hội An, trước tiên chúng ta không thể không nhắc đến quá
trình ra đời và phát triển của Hội An. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Khu
đô thị cổ Hội An, hay thương cảng Hội An trước kia, ra đời vào khoảng thế
kỷ XVI, phát triển mạnh vào thế kỷ XVII – XVIII. Vùng đất này có rất
nhiều đặc điểm địa lý thích hợp cho việc phát triển một cảng biển. Trước
2
tiên, Hội An nằm dọc hai bên bờ sông Thu Bồn, với các cửa sông thông ra
biển sâu và rộng, thuận tiện cho các tàu bè ra vào buôn bán. Nơi đây còn có
nhiều mặt địa lý tự nhiên, xã hội, hoàn cảnh lịch sử thuận lợi cho việc hình
thành một thương cảng như vị trí địa lý của cửa biển cách các cảng biển
khác một cách hợp lý, chế độ khí hậu gió mùa ổn định hàng năm, . . . Đặc
biệt, Hội An nằm trong vùng đất màu mỡ với nhiều sản vật như vải vóc,
thóc gạo, gỗ quý hiếm, kim loại quý, lâm sản dồi dào. . . Ưu thế về địa lý và
sự giàu có về tài nguyên khiến cho khu vực này thu hút được nhiều thương
gia nước ngoài đến đây. Vị trí địa lý góp phần quan trọng trong việc hình
thành nên cảng biển Hội An sầm uất trong quá khứ.
Phía đông giáp biển Đông; phía tây giáp hai huyện Điện Bàn và Duy Xuyên; phía
nam giáp huyện Duy Xuyên; phía bắc giáp huyện Điện Bàn, đều thuộc tỉnh
Quảng Nam.
Hội An nằm ở phía bắc sông thu Bồn, tỉnh Quãng Nam, trên bờ biển Nam Trung
bộ của Việt Nam. Thành phố Hội An cách về phía tây bắc của thành phố Tam
Kỳ( Tỉnh lỵ của Quãng Nam) chừng 50km về phía Đông Nam của Thành phố và
Đà Nẵng khoảng 30 km.
Nằm ở vùng cửa sông thu bồn, Hội An có mạng lưới đường thủy dài khoảng 34
km và rất gần biển. Hội An có nhiều biển và làng chài, như bãi biển Phước
Trạch- một bãi biển tuyệt đẹp với nhiều rặng phi lao và xã Cẩm Thanh( cách về
phía Tây của Hội An khoảng 3km, nằm ngay cửa sông Thu Bồn, gẫn bãi bồi
Thuận Tình.
Ngoài khơi là một quần đảo được biết đến với cái tên Cù Lao Chàm. Cù Lao
Chàm gồm 8 hòn đảo nhỏ: hòn lao, hòn khô mẹ, hòn khô con, hòn tai, hòn dài, hòn
mồ, hòn ông. Cù Lao Chàm có tổng diện tích là 15,5km2, trong đó rừng chiếm
90% diện tích, đất nông nghiệp chiếm 7%, còn lại 3% diện tích là khu dân cư với
số dân khoảng 2.800 người.
Phân chia hành chính
Hội An hiện tại phân chia thành 9 phường và 4 xã:
3
Phường: Cẩm An Cẩm Châu Cẩm Nam Cẩm Phô Cửa Đại Minh An Sơn
PhongTân An Thanh Hà
Xã: Cẩm Hà Cẩm Kim Cẩm Thanh Tân Hiệp (xã đảo nằm trên Cù lao Chàm).
Dân cư
Hội An trở thành thành phố vào tháng 1 năm 2008 trên cơ sở toàn bộ diện tích tự
nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Hội An, với 6.146,88
ha, 121.716 nhân khẩu và một phần nhỏ huyện Điện Bàn.
LỊCH SỬ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỘI AN.
THỜI TIỀN SỬ:
Lịch sử thương cảng Hội An bắt nguồn từ thời sa huỳnh muộn từ năm 200 TCN
đến năm 200 SCN. Các di tích khảo cổ học từ thời Sa Huỳnh bao gồm mộ chum,
với những công cụ, đồ trang sức bằng đá, gốm, thủy tinh, kim loại…. đã được
tìm thấy tại các di chỉ khảo cổ học ở Cẩm Hà, Thanh Hà, Cẩm Phô, Cẩm Thanh.
Các loại đồng tiền Trung Quốc ngũ thù, vương mãng với những hiện vật sắt
kiểu tây hán, dáng dấp văn hóa Đông Sơn, Óc Eo, đã chứng minh một điều thú vị
rằng, ngay từ thời Sa Huỳnh đã có giao thương với các cộng đồng cư dân đến từ
Trung Hoa và từ Nam, Trung Bộ Việt Nam. Di chỉ khảo cổ học Cù Lao Chàm
chứng tỏ rằng nơi đã có con người cư trú cách đây trên 3.000 năm.
THỜI KỲ CHĂM PA.
Trước thế kỷ 2
Kết quả nhiều cuộc thăm dò, quan sát các di tích mộ táng: Bãi Ông; Hậu Xá I, II;
An Bàng; Xuân Lâm và các di chỉ cư trú: Hậu Xá I; Đồng Nà; Cẩm Phô I; Trảng
Sỏi; Lăng Bà; Thanh Chiêm đã cung cấp nhiều thông tin quý về thời Tiền sử và
thời văn hóa Sa Huỳnh muộn. Ngoài di tích Bãi Ông có niên đại hơn 3.000 năm,
thuộc thời Tiền sử (Tiền Sa Huỳnh), các di tích còn lại đều trên dưới 2.000 năm,
tức là vào giai đoạn hậu kỳ Sa Huỳnh.
4
Những bộ sưu tập hiện vật quý được thu thập từ các di tích khảo cổ là các loại
thuộc về công cụ sinh hoạt, lao động sản xuất, chiến đấu, trang sức, tín
ngưỡng... bằng các chất liệu gốm, đồng, sắt, đá, thuỷ tinh. Đặc biệt còn có cả
những tiền đồng Trung Quốc: Ngũ Thù; Vương Mãng cùng với các đồ trang sức
mã não, thủy tinh có gốc gác từ Nam Ấn Độ, Sri Lanka, Trung Đông, chứng tỏ
cách đây 2.000 năm, dân cư ở đây đã có nghề trồng lúa nước, khai thác thủy sản
và làm các nghề thủ công. Đồng thời cũng thể hiện rõ mối quan hệ giao lưu văn
hóa trong nước cùng các hoạt động buôn bán với nước ngoài, lập nên một cảng-
thị sơ khai, là nền móng cho các cảng-thị sau này.
Cùng chung ý kiến đó, Theo giáo sư phan huy lê thì: “trước khi Hội An ra đời,
vùng cửa sông thu bồn đã trải qua thời kỳ văn hóa sa huỳnh và chăm pa mà nhiều
nhà khoa học quan gọi là thời kỳ tiền Hội An. Khảo cổ học đã phát hiện và khai
quật nhiều di tích văn hóa sa huỳnh muộn( khoảng thế kỷ 1, 2 tr. C.n đến thế kỷ
1 s. C.n) trên các cồn cát bên tả ngạn sông thu bồn thuộc xã cẩm hà như an bang,
hậu xá, thanh chiêm. Rõ rang cư dân sa huỳnh đã cư trú trên một số cồn cát, doi
đất cao hạ lưu sông thu bồn. văn hóa chăm pa cũng để lại dấu tích ở xã cẩm hà,
cẩm thanh qua những di vật gốm sứ trung quốc có niên đại thế kỷ 9( hậu xá 1-2,
cẩm hà), 12-13( bàu đá, cẩm thanh), 14( tràng sỏi, cẩm hà). Đặc biệt kết quả
thám sát và khai quật địa điểm bãi làng( 5-1998 và 5-1999) trên cù lao chàm đã tìm
thấy gốm chăm thô, gốm trung quốc thế kỷ 9-10, gốm islam thế kỷ 9, thủy tinh
nguyên liệu có nguồn gốc từ funstat ( ai cập), một sồ đồ thủy tinh gia dụng sản
xuất từ ai cập, I ran khoảng thế kỷ 9”.1
1
Phan huy lê. Hội an- di sản văn hóa thế giới. tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 4.2004.
5
Thế kỉ 2 - Thế kỉ 15
Đường phố Hội An
Kế tiếp dân cư Sa Huỳnh cổ là dân cư Champa với nền văn hoá rực rỡ, mở đầu
thời kì vàng son cho một Cảng-Thị hưng thịnh. Những cái tên Chiêm Bất Lao ( Cù
Lao Chàm), Đại Chiêm Hải Khẩu (Cửa Đại), Cachiam cùng với những tượng đá,
giếng gạch và dấu vết nền tháp, đặc biệt trong các di chỉ khảo cổ học với các
hiện vật gốm sứ Champa, Ả Rập, Trung Quốc; các đồ trang sức từ Trung Đông,
Ấn Độ và nhiều tài liêu, thư tịch cổ Trung Quốc, Ả Rập, Ấn Độ, Ba Tư xác nhận
vùng Cửa Đại xưa kia là hải cảng chính của nước Champa. Vùng Lâm Ấp phố là
nơi các chiến thuyền ngoại quốc thường ghé lấy nước ngọt từ những giếng
Champa rất ngon và trong; trao đổi sản vật như trầm hương, quế, ngọc ngà, thuỷ
tinh, tơ lụa, đồi mồi, xà cừ.
Trong suốt thời kỳ chăm pa(từ thế kỷ 2 đến 15), Hội An được biết đến với cái
tên Lâm Ấp phố( khu phố Chămpa) và là một khu phố chính của vương quốc Trà
Kiệu( miền Trung Việt Nam ngày nay).
Giữa thế kỷ 9 và 10, Lâm Âp phố trở thành một cảng thị quan trọng, thu hút
nhiều thương nhân A Rập, Ba Tư, Trung Quốc đến buôn bán, trao đổi vật phẩm
như tơ tằm, ngọc trai, đồi mồi, vàng, trầm hương, nước ngọt…. Những phế tích
móng Chăm, những giếng nước Chăm và những pho tượng Chăm ( tượng vũ
6
công thiên tiên Gandhara, tượng nam thần tài lộc Kubera…..) cùng những mãnh
gốm sứ Trung Quốc và Trung Cận Đông, đồ trang sức, những mãnh thủy tinh
màu được phát hiện đã minh chứng cho sự buôn bán nhộn nhịp ở Lâm Ấp phố
trong suốt thời kỳ Chămpa.
Và giáo sư phan huy lê cũng khẳng định: “những di tích và di vật mà khảo cổ học
tìm thấy chứng tỏ kh mà kinh đô trà kiệu và thánh địa mỹ sơn của chăm pa xây
dựng trên thượng lưu sông thu bồn thì vùng cửa sông và cù lao chàm hẳn có một
vị trí trọng yếu trong phòng vệ đất nước và là cửa ngõ giao thương với thế gới
bên ngoài. Trên mặt đất, vùng quan hội an cũng còn để lại một số dấu tích và di
vật có nguồn gốc chăm như di tích kiến trúc ở lùm bà vàng( thanh chiêm- cẩm
hà), ở an bang( cẩm hà), bức tượng trong miếu thần hời( an bang- cẩm hà),
tượng thờ ở lăng bà lồi( cẩm thanh), tượng voi trước đình xuân mỹ( cẩm hà),
giếng chăm rải rác ở nhiều nơi nhất là ở trung phường. những địa danh như cù
lao chàm, cửa đại cheiem, kẻ chàm, cồn chăm… cũng còn lưu giữ lại dấu ấn của
lịch sử - văn hóa chăm pá. Thư tịch cổ của trung quốc có nói đến một “lâm ấp
phố” nào đó mà phía ngoài là lúi chàm hiện nay. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có
đủ cứ liệu khoa học để chỉ ra một carngt hị của vương quốc chăm pa ở vùng cửa
sông thu bồn mà thế kỷ 9-10 đã có quan hệ giao thương với thế giới trung quốc
và ả rập”2. ở đây cũng xin lưu ý một vấn đề là với những kết quả nghiên cứu
cho đến nay thì trong phạm vi phố cổ Hội An chưa tìm thây dấu tích của cảng thị
chăm pa xưa, nghĩa là nếu có một cảng thị chăm pa thì vị trí không nằm trong phố
cổ Hội An.
Trở lại vấn đề, chúng ta thấy, thời kỳ huy hoàng của vương quốc Chămpa cũng
khá ngắn ngủi do cuộc chiến tranh liên miên với đại Việt và Khmer. Cuối cùng,
người Đại Việt đã chiếm lấ ưu thế và mở rộng dần về phía Nam.
Lý Thánh Tông (1054-1072) Vua đầu tiên mở mang bờ cỏi xuống phía
Nam...người Chiêm thường quấy phá người Việt, Lý Thánh Tông đem quân đánh
2
Phan huy lê. Hội an- di sản văn hóa thế giới. tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 4.2004.
7
tới Ðồ Bàn năm (1069) bắt vua Chiêm là Chế Củ (Rudravarman III) Chế Củ
nhường 3 châu thuộc phía Bắc Chiêm Thành là Bố Chánh ( bắc Quảng Bình) Ðịa
Lý ( Quảng Trung và nam Quảng Bình) Ma Linh (Quảng Trị) đổi lấy tự do. Ðược
đất nhà vua chiêu mộ dân chúng đến khai khẩn đất đai
Lịch sử thay đổi qua nhiều triều đại đến đời Trần Thánh Tông (1258-1278)
nhường ngôi cho con Trần Anh Tông (1293-1314). Làm Thái Thượng Hòang sang
thăm Chiêm Thành hai nước Việt Chiêm ban giao tốt đẹp. Có thể ngài thấy từ
Quảng Trị trở ra đất hẹp khô cằn khó phát triển, phương Bắc Trung Hoa luôn
quấy phá, bước qua đèo Hải Vân về phía Nam là đồng bằng phì nhiêu, bờ biển
trải dài, hy vọng phát triễn về kinh tế... Vùng đất hứa hẹn cho tương lại nên ngài
hứa gã Huyền Trân Công Chúa cho Chế Mân.
Năm bính ngọ 1306 Vua Chiêm là Chế Mân ( Jaya Simhavarman ) trị vì năm
(1288-1307) làm lễ thành hôn với Huyền Trân Công Chúa,được tấn phong làm
Hoàng Hậu gọi là Paramecvari. Chàng rể Chế Mân làm sính lễ dâng hai Châu Ô
và Châu Lý, cuộc hôn nhân nầy tạo ngoại giao tốt đẹp giữa hai dân tộc Việt
Chiêm
Trần Anh Tông (1293-1314) anh của Huyền Trân Công Chúa, thâu nhận hai Châu
trên đổi thành Thuận Châu và Hóa Châu. Hoá châu gồm Ðiện Bàn và Duy Xuyên
ngày nay. Ðại Việt cho di dân đến khai phá, từ đó có cơ hội cho các Triều đại kế
tiếp tiến dần về phương Nam.
Năm 1307 Vua Chế Mân từ trần theo tục Chiêm Thành, Hoàng hậu Paramecvari
tức Huyền Trân phải hỏa thiêu theo chồng. Tục lệ nầy người Ấn giáo còn áp
dụng gọi là Suttee (trà tỳ) sau năm 1829 bỏ hẳn.
Vua Trần Anh Tông thương em, cử phái đoàn do tướng Trần Khắc Chân sang
Chiêm Thành chia buồn, lợi dụng cơ hội nầy giải thoát Huyền Trân đem về
nước. Có thể ngoại giao của hai nước Chiêm và Việt từ đó bất hòa
Nhà Trần suy yếu bị nhà Hồ chiếm ngôi, Chế Bồng Nga (Pô Bin Swor 1360-
1390) vua mạnh nhất của Chiêm Thành đem quân sang đánh phá Ðại Việt vào các
năm 1377 và 1378. Năm 1390 đánh Thanh Hoá, tiến lên sông Hồng đánh với
8
tướng Trần Khắc Chân, Chế Bồng Nga bị Ba Lậu Kê làm phản chỉ điểm. Chiến
thuyền của Chế Bồng Nga bị bắn trúng tử trận. Từ đó Chiêm Thành bị suy yếu.
Vua Hồ Hán Thương (1401-1407) sai Ðỗ Mãn đem quân đánh Chiêm Thành. Vua
Chiêm Ba Ðích Lại (Virabhadravarman) thua nhường đất Chiêm Ðộng (Thăng
Bình) Thượng Hoàng Hồ Qúy Ly đòi thêm miền Cổ Lũy Ðộng (Quảng Ngãi)3 (1)
Quân Minh đánh Ðại Việt, bắt gia đình nhà Hồ (1407) Vua Chiêm là Trà Toàn lợi
dụng lúc thay chủ đổi ngôi, đem đại quân đánh chiếm phần đất đã nhường cho
nhà Hồ.
Lê Thánh Tông (1460-1479) bị Chiêm Thành đem quân quấy phá. Vua Lê phản
công hành quân tới Kinh đô Ðồ Bàn 1471 bắt Trà Toàn và Trà Toại. Chấm dứt
chiến tranh Việt Chiêm, chiếm vùng đất mới đổi tên thành Hoài Nhơn. Sát nhập
vào bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghiã, trở thành Quảng Nam Thừa Tuyên Ðạo.
Danh từ QUẢNG NAM được chính thức đi vào Lịch sử.
Quảng Nam có nghiã là mở rộng về phương Nam, bắt đầu trang sử mới cho lưu
dân Việt, từ đó khai phá và mở mang bờ cỏi đến đồng bằng sông Cửu Long
(Mekong).và dừng lại năm 1884 khi thực dân Pháp chiếm Việt Nam và các nước
Ðông Dương
THỜI KỲ ĐẠI
VIỆT:nghép bài vào
3
Quảng Nam trong lịch sử trang 37 của Trần Gia Phụng biên khảo Toronto 2000
9
Thế kỉ 15 - Thế kỉ 19
Hai con mắt trên trong chùa Cầu (Lai Viễn Kiều). Rất nhiều nhà cổ ở Hội An có hai
con mắt trên cửa như trong hình
THỜI KỲ ĐẠI NAM
Thời kỳ đại nam bắt đầu từ đầu thế kỷ 19(1802) kéo dài đến năm 1945. Thời kỳ
này đã đánh dấu triều đại Nguyễn, do gia đình họ nguyễn sáng lập và xây dựng
kinh thành Huế- phía bắc của Hội An.
Trong thời kỳ triều Nguyễn nhiều thương nhân tiếp tục đến Hội An để trao đổi
hàng hóa. Trong suốt mùa mưa bắt đầu từ tháng 8 đến tháng 10, các thương nhân
Trung Hoa thường lưu trú dài ngày. Họ đã xây dựng các mối quan hệ với người
dân địa phương. Các thương nhân trung hoa thường cưới vợ người Việt để thiết
lập sự nghiệp buôn bán lâu dài ở Hội An.
Vị trí địa ký
Quá trình lịch sử
Giá trị văn hóa
10
Khảo sát một số địa danh: phần ảnh
và phầnĐi tìm phố nhật và phố hoa
Kết luận
Giá trị của di sản hội an:
Hội An được chính phủ việt nam công nhận là di tích lịch sử-
văn hóa cấp quốc gia và năm 1999 unesco công nhạn là di sản
văn hóa thế giới. điều đó đủ khẳng định những giá trị của di ản
lịch sử- văn hóa Hội An, một di sản quý của việt nam và của thế
giới. tuy nhiên, nhận thức về giá trị của một di sản lớn là kết
quả của quá trình tìm tòi, khám phá, quá trình nghiên cứu khoa
học không bao gời dừng lại và không nên đưa ra kết luận cuối
cùng. Với những thành quả nghiên cứu mang tín hợp tác quốc tế
cho đến nay, cùng với kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa
học trong nước và quốc tế, cũng như thông qua chuyên đề địa lý
học lịch sử việt nam, chúng tôi thấy có thể nêu lên những giá trị
tiêu biểu sau đây, kể cả những vấn đề cần đặt ra để tiếp tục
nghiên cứu và thảo luận:
1. về mặt lịch sử, Hội An dưới góc độ một trung tâm thương
mại lớn có quan hệ rộng rãi với trong nước và thế giới, thì
phạm vi hoạt động trực tiếp không chỉ giới hạn trong phố
cổ Hội An mà còn bao quát cả cửa song thu bồn, bao gồm
11
cả cù lao chàm ngược lên đến dinh chime. Từ không gian
đó, đi vào chiều sâu của lịch sử thì vùng Hội An đã từng có
một cảng thị của vương quốc chăm pa mà những phát hiện
khảo cổ học ở cù lao chàm cho thấy đã có những quan hệ
giao lưu với thế giới trung quốc và ả rập thế kỷ 9- 10. thời
kỳ tiền Hội An đó là một dấu nối có nhiều ý nghĩa lịch sử
và văn hóa giữa chăm pa và đại việt.
sau khi ra đời vào cuối thế kỷ 17, Hội An nhanh chóng phát
triển thành một cảng thị phồn thịnh nhat của việt nam và vào
loại nổi tiếng của đông nam á. Thế kỷ 17 là thời kỳ phát đạt
của các đô thị trung đại việt nam (hay cận thế theo quan niệm
phân kỳ cảu sử gia nhật bản) ở cả đàng trong và đàng ngoài.
Nhưng phần lớn các đô thị này đều mang cấu trúc chung: vừa
là trungt âm chính trị( của chính quyền trung ương hay địa
phương) vừa là trung tâm kinh tế với hai bộ phận cấu thành:
thành= chính trị+ thị= kinh tế. có thể bộ phận trng tâm chính
trị( thành) rồi bộ phận trung tâm kinh tế( thị) bổ sung sau như
đại lam, thăng long, phú xuân, gia định, biên hóa, hà tiên…
cũng có thể đô thị xuất hiện và phát triển đến một mức độ
nào đó rồi chính quyền địa phương đặt là trị sở để kiểm soát
như phố hiến, đà nẵng…. đặc điểm này là xuất phát từ sự
phát triển sơm của chế độ quan chủ tập quyền mà tất cả các
12
đô thị đều nằm trong hệ thống hành chính và chịu sự quản lý,
kiểm soát của chính quyền trung ương hoặc địa phương.
Khác với phương tây và nhật bản, do những đặc điểm lịch sử
khác biệt, sớm xuất hiện những thành thị tự do với quyền
quản lý và phòng vệ của những hội đồng hay tổ chức đại
diện cho tầng lớp thị dân. Hội An ra đời trên một vị trí thuận
lợi và phát triển thành một đô thị, kiểu đô thị- thương cảng,
tuy cũng nằm dưới sự quản lý của chúa nguyễn mà trực tiếp
dinh trấn quảng nam. Nhưng trong lịch sử tồn tại, Hội An
không giữ vai trò trị sở của chính quyền, ngoại trừ hai trường
hợp ngắn mấy năm đầu đời gia long, nhà nguyễn tạm dời
trấn ding quảng nam từ dinh chiêm về Hội An trước khi xây
dựng dinh trấn mới ở thanh chiêm và chính quyền pháp cũng
có lúc đặt trị sở ở tỉnh quảng nam tại Hội An rồi chuyển về
đà nẵng.4 trị sở chính quyền đặt tạm ở Hội An lại diễn ra vào
lúc suy thoái của đô thị này. Tại Hội An, trong tời thịnh đạt
thế kỷ 17, ngoài thương điếm hà lan, còn có hai khu phố
người nhạt và người hoa với quyền tự quản khá lớn- mà
chúng tôi sẽ trình bày ở phần sau- như được cử trưởng khu,
có luật lệ riêng và được sống theo phong tục mỗi nước. một
số đô thị khác cuxngcos lúc có thương điếm nước ngoài và
người hoa vẫn thường có xu hướng sống theo cộng đồng
cùng quê hương, lập thành bang và có hội quán riêng, nhưng
4
Xem vị trí dinh chiêm….
13
quyền tự quản của khu phố người nước ngoài ở Hội An cao
hơn. Chính sách mở cửa của chúa nguyễn cùng với kế cấu
thoáng đạt đó phải chăng là những nhân tố bên trong tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển của Hội An.
2. về kinh tế và văn hóa:
Hội An là một tr ong những cảng thị việt nam nằm trên con
đường tơ lụa trên biển và phát triển trong hệ thống thương
mauij châu á. Hải trình giao lưu kinh tế- văn hóa tren biển này
dọc theo bờ biển việt nam cho đến ny đã có thể xác định một
số cảng thị việt nam ra đời trên con đường giao thương này.
Sớm nhất là cảng thị óc eo( kiên giang) vào những thế kỷ đầu
C.n với những quan hệ mật thiết với trung quốc, ấn độ, ba tư
và la mã5; rồi đến một cảng thị nào đó của chăm pa vùng cù
lao chàm- cửa song thu bồn trong khoảng thế kỷ 9-10( chưa
xác định rõ vị trí) có quan hệ với trung quốc và is lam thương
cảng vân đồn( quãng ninh) phát triển thời lý, trần, lê( thế kỷ
11- 17) và Hội An. Nhưng khác với trước, từ thế kỷ 16-17
“con đường tơ lụa trên biển” của châu á đã nối thông với châu
âu qua hải trình vòng qua châu phi, bắt đầu hình thành hệ
thống thương mại thế giới. trong bối cảnh đo, Hội An có điều
kiện phát triển thành một trung tâm kinh tế- văn hóa mang tính
quốc tế trong quan hệ giao lưu với nhiều nước đông á, đông
nam á, nam á và cả một số nước phương tây. Mối quan hệ
5
Xem BÀI THẦY NHUNG
14
giao lưu nay được ghi nhận trong tư liệu chữ viết của việt
nam và những nước có lien quan, nhiều nhất là nhật bản,
trung quốc, hà lan, anh, pháp, đồng thời được lưu lại dấu ấn
qua những tư liệu khảo cổ học, đặc biệt quan trọng là tư liệu
gốm xứ.
Về kinh tế, Hội An là trung tâm quy tụ hang hóa đàng trong
để xuất khẩu ra nước ngoài và cũng là nơi phân bố hang hóa
nhập khâu đi bốn phương. Đây là thương cảng tiếp đón
thuyền buôn nhiều nước đến mua bán hang hóa trực tiếp với
việt nam và cũng là một đầu mối trung chuyên để thương
nhân nhật bản tìm mua sản phẩm của trung quốc cấm nhập
khẩu vào nhật bản hay công tuy phương tây thực hiện
phương thức buôn bán từ châu á đến châu á. Bên cạnh thuyền
buồn cập bến và rời bến theo mùa giáo là những thương gia,
chủ yếu là người nhạt, người hoa tạo lập phố xá, buôn bán
tại chỗ và đóng vai trò trung gain trong giao dịch và mua bán
giữa việt nam với các nước và giữa các nước với nhau.
Những hoạt động thương mại đan xen phong phú, đa dạng và
mang tính quốc tế đó tạo nên sự phồn vinh của Hội An.
Về văn hoa, Hội An là một trung tâm giao tiếp văn hóa của
các địa phương, các tộc người trong nước với nhiều nền văn
hóa nước ngoài. Qua quan hệ buôn bán, sự tiếp xúc, quá trình
chung sống… nhiều ảnh hưởng và yếu tố văn hóa của người
15
nhật, người hoa và các cộng đồng cư daa nước ngoài khác đã
được cư dân Hội An tiếp nhận và dần dần dung hợp với văn
hóa bản địa. Hội An trong lịch sử đã giao thao với nhiều nền
văn hóa bên ngoài, nhưng ản hưởng văn hóa để lại dấu ấn
đậm nét nhât là văn hóa trung quốc qua người hoa sống lâu dài
ở đây.
Hội An còn là một cửa ngõ đón nhật một số ảnh hưởng văn
hóa phương tây. Năm 1615 từ ma cao, một phái đoàn dòng tên
được cử đến Hội An gồm 1 người ý, 2 người bồ đào nha và 2
người nhật. năm 16?? Linh mục fran ces co di pina, người bồ
đào nha, đến Hội An và là nhà truyền giáo thông thạo tiếng
việt đầu tiên. Tiếp theo ch ris to for o bo rri, người ý, đến
thương cảng này và ở lại đàng trong 5 nam cho đến năm 1622.
ông đã viết cuốn sách miêu tả đàng trong năm 1621, trong đó
có những tư liệu quý giá về fai fo- Hội An. Sau đó nhiều giáo
sĩ đến đàng trong qua cảng Hội An, trong đó có gas par de
amaral, Antonio barbosa, alexandre de Rhodes… và một số
người nhật theo đạo ky tô phải rời đất nước sau khi có lệnh
cấm đạo và trục xuất giáo sĩ. Hội An là nơi họ cập bến đàng
trong và cũng là thương cảng họ sống nhiều năm lui tới để
giữ lien hệ với tổ chức của họ ở nước ngoài. F. di pina, ch.
Borri, gaspar de amiral, Antonio barbosa và a. de Rhodes là
những giáo sĩ giòi tiếng việt và là tác giả những cuốn từ điển
16
việt bồ( gaspar de amaral), bồ- việt( Antonio barbosa), việt- la
tinh- bồ(a. de Rhodes) cùng một số hồi ký và sách miêu tả về
đất nước, xã hội, con người, văn hóa của đàng trong đương
thời. đó là cơ sở và quá trình hình thành chữ quốc ngữ mà thực
chất là thành quả của quan hệ giao lưu văn hóa việt nam với
phương tây, cụ thể là sự du nhập hệ thống chữ cái la tinh do
các giáo sĩ phương tây đưa vào để phiên âm tiếng việt trong
nhu cầu học tiếng việt đẻ trực tiếp giảng đạo của họ. chữ
quốc ngữ còn tiếp tục quá trình cải tiến, sửa đổi để tiến tới
chữ quốc ngữ hiện đại nay mà về áu người việt càng ngày
càng giữ vai trò quyết định.
Hội An là một trong những nơi tiếp nhận đầu tiên ki tô giáo
và giữ vị trí quan trọng trong buổi đầu ra đời của chữ quốc
ngữ.
3. lịch sử Hội An đã đi vào quá khứ, nhưng điều hết sức may
mắn là cả một quần thế di tích của thương cảng này còn
được bảo tồn cho đến nay làm cho Hội An không chỉ được
phản ánh qua các trang sử mà còn hiển thị trước mặt chúng
ta, ít ra là một bộ phận đang tồn tại trên mặt đất mà phần
tiếp theo chúng tôi cố gắng phục dựng lại đôi nét về khu
phố cổ được coi là trung tâm của Hội An, quần thể di tích
gồm những công trình mang tính tôn giáo, đền, miếu, hội
17
quán, mộ cổ; những kiến trúc dân dụng như nhà phố, nhà
ở, giếng cổ cùng với cầu, dấu tích đường sá, bến, chợ…
Nguyễn Văn Xuân
Hội An thật sự được thành lập vào sơ niên thế kỷ XVII. Ngay từ những năm
đầu, nó đã trực thuộc vào dinh trấn Thanh Chiêm ở cách đó chừng 10 cây số.
Trấn này gọi là Quảng Nam, trước kia gồm các phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa, Hoài
Nhơn; về sau, kết hợp phủ Điện Bàn thành ra bốn phủ. Vị đứng đầu dinh trấn
trong nhiều năm, bao giờ cũng là các con Chúa và sau đều trở thành nguyên thủ
tức là Chúa Nguyễn như Nguyễn Phước Nguyên, Phước Lan, Phước Tần... Do
lẽ trấn quan trọng, giàu có (hồi đó rất nhiều vàng trên mặt đất, rừng có nhiều
trầm hương quế, thú lạ) nên được thiên hạ ở tứ xứ đổ về buôn bán: Nhật Bản,
Trung Quốc, Bồ Đào Nha, Hòa Lan, Anh, Pháp... Khách đến, ngoài việc mậu dịch
còn có nhiều người chuyên về tôn giáo, du lịch, lánh nạn, mở đường thông
thương...
Hội An được ưa chuộng còn vì một lẽ khá mới lạ đối với thời ấy nay còn
được nhiều quốc gia ở Đông và Đông Nam Á tiếp diễn: Chúa Nguyễn xem nó
như một đặc khu kinh tế, đặc khu thương mãi. Việc tổ chức ngoại kiều dành
cho chính các người đứng đầu nhóm thương nhân theo qui hoạch được Chúa qui
định. Do đó, chúng ta thấy phố người Hoa đều lấy trưởng phố là ngoại kiều.
Giai đoạn này có mấy sự việc lớn của xã hội Nhật Bản và Trung Quốc ảnh
hưởng sâu rộng đến các giới người Hoa và Nhật Bản. Người Nhật thì bị Mạc
phủ cấm đạo Thiên Chúa phải lánh sang Hội An, Đà Nẵng hành đạo. Người Hoa
vì tổ quốc bị quân Mãn Thanh chiếm cứ, những người yêu nhà Minh, tổ chức
công cuộc "Phản Thanh phục Minh" phải vượt biển để tiếp tục kháng chiến
hoặc để làm dân nhà Minh, phụng thờ nhà Minh.
18
Phố cổ Hội An hay Hoài Phố - là một khu vực phố cổ trong thành phố Hội An, được
xây từ thế kỷ 16 và vẫn còn tồn tại gần như nguyên vẹn đến nay. Trong các tài liệu
cổ của phương Tây, Hội An được gọi Faifo. Phố cổ Hội An được công nhận là một di
sản thế giới UNESCO từ năm 1999.
Biểu tượng của đô thị cổ Hội An
Chùa Cầu - Biểu tượng của Hội An
Địa chỉ: Tiếp giáp giữa đường Nguyễn Thị Minh Khai và đường Trần Phú, thành phố
Hội An, tỉnh Quảng Nam
Chùa Cầu (còn gọi là Cầu Nhật Bản, hay Lai Viễn Kiều)được xây dựng từ năm 1693
đến năm 1696, là công trình kiến trúc độc đáo do các thương gia Nhật Bản đến buôn
bán tại Hội An xây dựng vào khoảng giữa thế kỉ 16. Sau nhiều lần trùng tu, các yếu tố
kiến trúc Nhật Bản đã dần mất đi, thay vào đó là kiến trúc mang đậm phong cách Việt
Nam và Trung Quốc.
19
Chùa Cầu là tài sản vô giá và đã được chính thức chọn làm biểu tượng của đô thị cổ
Hội An. Hình Chùa Cầu được in trên tờ giấy bạc polymer 20.000đ của Ngân hàng Nhà
nước Việt nam.
Nhà cổ Tấn Ký
Địa chỉ: 101 Nguyễn Thái Học, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Một góc phố cổ
Là một trong những ngôi nhà cổ đầu tiên và đẹp nhất của Hội An. Trải qua hơn 200
năm, ngôi nhà vẫn giữ được lối kiến trúc cổ xưa với sự kết hợp hài hòa của ba nền
văn hóa Nhật, Trung, Việt. Ngôi nhà nổi tiếng với đôi liễn bách điểu (có khắc bài thơ
mà mỗi nét chữ là một con chim đang dang rộng cánh bay) và chén Khổng Tử.
Nhà cổ Quân Thắng
Địa chỉ: 77 Trần Phú, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Là một trong những nhà cổ được đánh giá là đẹp nhất Hội An hiện nay. Ngôi nhà có
niên đại hơn 150 năm, mang phong cách kiến trúc vùng Hoa Hạ Trung Hoa. Qua năm
tháng, ngôi nhà vẫn được bảo tồn khá nguyên trạng về kiểu dáng kiến trúc và các bài
trí nội thất, giúp ta hình dung được phần nào lối sống của các thế hệ chủ nhân, những
người thuộc tầng lớp thương gia ở thương cảng Hội An trước đây. Được biết, toàn
bộ phần kiến trúc và điêu khắc gỗ rất sinh động, tinh tế của ngôi nhà này đều do các
nghệ nhân làng mộc Kim Bồng thực hiện.
Nhà cổ Phùng Hưng
Địa chỉ: 4 Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
20