logo

HỌC THUYẾT VỀ BẢN CHẤT

tài liệu “Bách khoa thư các khoa học triết học – Khoa học logic” được biên soạn với mục đích để thử nhận diện mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của tác phẩm trong sự nghiệp.Là sức mạnh bản thể tồn tại cho mình, Khái niệm là cái gì tự do,và; vì lẽ từng mỗi moomen của nó là cái toàn bộ giống như bản thân.Bản chất là Khái niệm với tư cách là Khái niệm đã được thiết định.Trong Bản chất, những qui định chỉ là (có tính) quan hệ, chứ chưa như là đã được phản...
HỌC THUYẾT VỀ BẢN CHẤT PH N II H C THUY T V B N CH T PH N II C A LÔGÍC H C H C THUY T V B N CH T S231 §112 B n ch t là Khái ni m v i tư cách là Khái ni m ã ư c thi t nh. Trong B n ch t, nh ng quy nh ch là [có tính] quan h , ch chưa như là ã ư c ph n tư hoàn toàn [vào] trong chính mình; ó là lý do t i sao Khái ni m chưa ph i là cho-mình. B n ch t – như là T n t i t trung gi i mình v i mình thông qua tính ph nh chính mình(a) – là s quan h v i chính mình ch b ng cách là s quan h v i cái khác; nhưng cái khác này, m t cách tr c ti p, không ph i như cái gì ang t n t i, mà như là m t cái gì ã ư c thi t nh và ã ư c trung gi i. T n t i ã không tiêu bi n, nhưng, m t m t, b n ch t – như là s quan h ơn gi n v i chính mình – là t n t i; trong khi ó, m t khác, t n t i – d a theo quy nh phi n di n c a nó, là cái gì t n t i tr c ti p – b h th p xu ng thành cái gì [t n t i] ơn thu n ph nh, thành m t ánh tư ng [hay m t v ngoài](b). Do ó, b n ch t là t n t i như là ánh hi n [tr thành v ngoài] trong chính mình(c)(1). Cái Tuy t i là b n ch t. – Trong ch ng m c t n t i cũng là s quan h ơn gi n v i chính mình, thì nh nghĩa trên ây gi ng h t như nh nghĩa cho r ng cái Tuy t i là t n t i. | Nhưng, ng th i, nh nghĩa này là m t nh nghĩa cao hơn, b i b n ch t là t n t i ã i vào trong chính mình, nghĩa là, s t -quan h ơn gi n c a nó [c a b n ch t] là s quan h này [nhưng] ã ư c thi t nh như là s ph nh c a cái ph nh, [hay], như là s trung gi i n i t i c a mình v i chính mình. - Nhưng, khi cái Tuy t i ư c xác nh như là b n ch t, tính ph nh thư ng ư c n m l y ch trong nghĩa c a m t s tr u tư ng hóa kh i (a) (b) Negativität seiner selbst / its own negativity / Pháp: négativité de soi-même; zu einen Scheine / to (c) a shine [or semblance]; Scheinen in sich selbst / shining within itself. (1) “ánh hi n” (scheinen) và “ánh tư ng" (Schein): xem Chú gi i d n nh p cho §112. 285 m i thu c tính nh t nh. Trong trư ng h p y, vi c làm(a) ph nh này, [t c] vi c tr u tư ng hóa, rơi ra bên ngoài b n ch t, và, do ó, b n thân b n ch t ư c n m l y ch như là m t k t qu [tr n tr i], không có các ti n này c a nó [ i kèm]; [nói khác i], nó là cái caput mortuum(2) c a s tr u tư ng. Song, vì l tính ph nh này không ph i là ngo i t i i v i t n t i, mà là phép bi n ch ng c a chính nó [c a t n t i], nên chân lý [hay s th t] c a t n t i là b n ch t, như là t n t i ã i vào trong chính mình hay t n t i trong chính mình(b). | Chính s ph n tư(c) này, chính s “ánh hi n” bên trong chính mình [tr thành v ngoài] là cái phân bi t b n ch t v i t n t i tr c ti p, và nó [s ph n tư] là quy nh riêng có c a b n thân b n ch t. S232 Giảng thêm: Khi ta nói về “bản chất”, ta phân biệt nó với “tồn tại”, nghĩa là, với cái gì trực tiếp, còn khi ta so sánh với bản chất, ta xem tồn tại như là một ánh tượng [hay một vẻ ngoài] đơn thuần(d). Nhưng, vẻ ngoài này không đơn giản là “không gì hết”, không phải là một hư vô đơn thuần(e), mà đúng hơn, nó là tồn tại như là đã được thủ tiêu, vượt bỏ. - Nói chung, quan điểm của bản chất là quan điểm của sự phản tư [hay phản chiếu]. Chữ “phản tư” [“phản chiếu”] thoạt đầu được dùng để nói về ánh sáng, trong chừng mực ánh sáng – trong khi tiến lên theo đường thẳng – gặp một mặt gương phẳng và được mặt gương này ném trở lại. Như thế, ở đây ta có một cái gì nhân đôi: thứ nhất, là một cái trực tiếp, một cái đang tồn tại, và rồi, thứ hai, là chính cái đó nhưng như là một cái được trung giới hay được thiết định. Và đó chính là trường hợp khi ta “phản tư” về một đối tượng hay (như người ta thường nói) “suy đi nghĩ lại”(a), trong chừng mực ở đây, ta không quan tâm đến đối tượng trong hình thức trực tiếp của nó mà muốn biết nó như là đã được trung giới. Ta thường cho rằng nhiệm vụ hay mục đích của triết học là ở chỗ phải nhận thức được bản chất của những sự vật, và chỉ hiểu điều này là: không được để nguyên sự vật trong trạng thái trực tiếp của chúng, trái lại, chúng phải được chứng minh là được trung giới hay được đặt cơ sở bởi cái gì khác. Ở đây, tồn tại trực tiếp của những sự vật được hình dung hầu như là một lớp vỏ hay như một tấm màn che, còn bản chất thì được che giấu ở phía đàng sau. - Còn nếu tiếp tục nói rằng: mọi sự vật đều có một bản chất, tức là muốn nói rằng những sự vật không phải là đúng thật như những gì chúng đang trình hiện một cách trực tiếp. Một sự lẩn quẩn đơn thuần từ một Chất này sang một Chất khác và một sự tiến lên đơn thuần từ cái Chất sang cái Lượng (và ngược (a) (b) (c) (d) Tun / activity; in sich seiende Sein / is self-contained; Reflexion / reflection; ein bloßer (e) Schein / a mere semblance; Dieser Schein ist nun aber nicht gar nicht, nicht ein Nichts / But this semblance is not simply “not”; it is not an utter nothing. (2) caput mortuum: xem chú thích 112 cho §44 (ph n Nh n xét). (a) (b) Nachdenken / “think it over”; ein Bleibendes / something that abides in things. 286 lại) không phải là tất cả, trái lại, trong sự vật, còn có một cái thường tồn(b), và cái này, trước hết, là bản chất của chúng. Còn về ý nghĩa khác và việc sử dụng phạm trù “bản chất”, ở đây, trước hết ta hãy nhớ lại, trong tiếng Đức, ta đã sử dụng trợ động từ “sein” [là, tồn tại] để biểu thị thì quá khứ trong thuật ngữ “Wesen” [đã là, đã tồn tại / bản chất] như thế nào. | Đó là bằng cách biểu thị sự tồn tại đã qua như là “gewesen” [đã là, đã từng là]. Trong tính bất quy tắc này của việc sử dụng ngôn ngữ, quả có cơ sở là một trực quan đúng đắn về mối quan hệ của tồn tại với bản chất, trong chừng mực ta có thể xét bản chất như là tồn tại đã qua; và, qua đó, ta chỉ nên lưu ý rằng: cái gì đã qua thì không phải vì thế mà bị phủ định một cách trừu tượng, trái lại, được thủ tiêu và đồng thời được bảo lưu. Chẳng hạn, ta nói: “Cäsar đã từng ở xứ Gaulle” (Cäsar ist in Gallien gewesen), thì cái bị phủ định ở đây chỉ là tính trực tiếp của những gì được khẳng định về Cäsar chứ không phải việc ông ở xứ Gaulle nói chung, bởi chính việc này tạo nên nội dung của câu nói, chỉ có điều, nội dung ấy ở đây được hình dung như là đã được thủ tiêu, vượt bỏ. - Trong đời sống thường ngày, khi ta nói về chữ “Wesen”, thì nó thường chỉ có S233 nghĩa là một sự tập hợp hay một tổng thể, theo đó, ta [người Đức] nói về “Zeitungswesen” [ngành báo chí], về “Postwesen” [ngành bưu điện], về “Steuerwesen” [ngành thuế] v.v… và điều này chỉ được hiểu là những sự vật cần phải được nắm lấy không phải một cách riêng lẻ trong sự trực tiếp của chúng, mà như một phức hợp với tất cả những mối quan hệ khác nhau của chúng. Vậy, trong việc sử dụng ngôn ngữ như thế, hầu như ta đã có tất cả những gì có cùng nội dung là “bản chất” đối với ta. - Ta cũng còn nói về những “bản chất” hữu hạn, và ta gọi con người là một “bản chất” hữu hạn. Nhưng, khi đã nói về “bản chất” như thế, tức ta thực sự đã vượt ra ngoài tính hữu hạn, và, trong chừng mực đó, việc biểu thị con người như thế là không chính xác. Rồi nếu bảo tiếp rằng: “có [es gibt] một Bản chất tối cao”, qua đó để biểu thị Thượng đế, thì ở đây có hai điểm đáng chú ý. Thứ nhất, thuật ngữ “có” (“geben”) là một thuật ngữ để chỉ cái hữu hạn, vì thế, ta nói chẳng hạn: “Có những hành tinh như thế, như thế…”, hay “Có những cây cối với tính chất này và có những cây cối với tính chất kia…”. “Có” những sự vật như thế có nghĩa là còn “có” những sự vật khác ở bên ngoài và ở bên cạnh chúng. Nhưng, Thượng đế, với tư cách là bản thân cái Vô-hạn tuyệt đối, không phải là cái gì “có” [theo nghĩa “được cho”], và bên ngoài và bên cạnh Người cũng còn có những bản chất khác. Những cái gì còn có ở bên ngoài Thượng đế, thì không có được tính bản chất(a) khi tách rời với Thượng đế, mà đúng hơn, phải xem cái gì tồn tại trong sự cô lập ấy như là một cái không có- bản chất và không có chỗ dựa, như là một vẻ ngoài đơn thuần. Và điều này còn bao hàm một điểm thứ hai nữa: đó là, nói về Thượng đế như một Bản chất tối cao là không thỏa đáng. Phạm trù Lượng được mang ra dùng ở đây, thật ra, chỉ có chỗ đứng ở trong lĩnh vực của cái hữu hạn. Chẳng hạn, ta nói: đây là (a) Wesenlichkeit / essentiality. 287 ngọn núi cao nhất trên trái đất, và qua đó, ta có hình dung rằng ngoài ngọn núi cao nhất ấy ra cũng còn có những ngọn núi cao khác. Cũng hệt như thế khi ta nói về người giàu nhất hay uyên bác nhất trong một nước. Trong khi đó, Thượng đế không đơn thuần là một Bản chất và cũng không đơn thuần là Bản chất cao nhất, trái lại, đúng hơn là bản thân Bản chất (das Wesen), đồng thời cũng lưu ý rằng tuy quan niệm này về Thượng đế là một cấp độ quan trọng và cần thiết trong sự phát triển của ý thức tôn giáo, nhưng, qua đó, vẫn tuyệt nhiên không tát cạn được sự sâu sắc của hình dung Kitô giáo về Thượng đế. Nếu ta chỉ xem Thượng đế một cách đơn giản và thuần túy như là bản chất và dừng lại ở đó, ta biết Người chỉ như là Quyền lực phổ biến, bất khả đề kháng, hay nói cách khác, như là vị Chúa tể (Herr). Thế nhưng, kinh sợ trước vị Chúa tể đã đành là sự bắt đầu, song cũng chỉ mới là sự bắt đầu của sự hiền minh mà thôi!(3) - Chính là thoạt đầu trong tôn giáo Do Thái rồi muộn hơn trong tôn giáo Islam, S234 Thượng đế đã được lý giải như là vị Chúa tể, và, về cơ bản, chỉ như là vị Chúa tể. Khuyết điểm của các tôn giáo này, nói chung, là ở chỗ không dành quyền [chính đáng] cho cái hữu hạn, trong khi đó, việc bám chặt lấy cái hữu hạn nơi bản thân nó (für sich) (dù đó là một cái hữu hạn tự nhiên hay trong lĩnh vực tinh thần) là điểm đặc trưng của các tôn giáo thế tục và đồng thời là phiếm thần. - Một lập trường khác cũng thường được khẳng định là cho rằng không thể có một nhận thức nào về Thượng đế như là về “Bản chất tối cao”. Đó là quan điểm chung của phong trào Ánh sáng hiện đại, vốn tự hài lòng với câu nói: “Il y a un être suprême” [tiếng Pháp trong nguyên bản: “Có một Hữu thể tối cao”](4), và để cho sự việc dừng lại ở đó. Khi người ta nói như thế và xem Thượng đế chỉ như là “bản chất tối cao” ở phía bên kia, thì tức là họ nhìn thế giới như là cái gì cố định, khẳng định, và quên rằng bản chất chính là sự vượt bỏ mọi cái trực tiếp. Là bản chất trừu tượng ở phía bên kia, còn bên ngoài nó, mọi sự phân biệt và tính quy định đều phải mất hết, thì, trong thực tế, chỉ là một tên gọi suông, là một caput mortuum đơn thuần(5) của giác tính trừu tượng. Nhận thức đúng thật về Thượng đế bắt đầu với việc biết rằng: những sự vật, trong tồn tại trực tiếp của chúng, không có chân lý. - Điều cũng thường xảy ra nữa là, không chỉ trong quan hệ với Thượng đế mà cả trong các quan hệ khác, phạm trù “bản chất” được sử dụng theo cách trừu tượng, và, trong việc nghiên cứu về những sự vật, bản chất của chúng bị cố định hóa như cái gì dửng dưng với nội dung nhất định của vẻ ngoài của chúng, (3) Xem: Hegel, Hi n tư ng h c Tinh th n: … “cho dù s kinh s trư c ch nhân là kh i i m c a s minh tri t, thì, trong vi c y, ý th c v n chưa ph i là s t n t i-cho-mình i v i chính mình”… (§195), S d, BVNS, tr. 451. ây, Hegel dùng hình nh “kính s Chúa Tr i” trong Kinh Thánh, Ca v nh, 100, 10. (4) ây là khái ni m v Thư ng c a “tri t gia” trong th k Ánh sáng. (5) Xem l i chú thích cho §44. 288 như cái gì tự tồn nơi chính nó (für sich). Cho nên, ta cũng thường nói rằng điều chính yếu nơi con người là bản chất của họ, chứ không phải những gì họ làm hay hành xử. Điều hoàn toàn đúng trong cách nói này là ở chỗ: những gì con người làm thì không được xem xét chỉ trong tính trực tiếp của người ấy mà như là được trung giới thông qua cái bên trong và là biểu hiện của cái bên trong nội tâm. Nhưng, không được quên rằng bản chất cũng như nội tâm bên trong chỉ chứng tỏ đúng như bản thân nó bằng cách chuyển sang lĩnh vực của hiện tượng, trong khi đó, gốc rễ của việc viện dẫn đến bản chất như là cái gì khác với nội dung những gì con người thực sự làm thường chỉ là mục đích khẳng định tính chủ quan đơn thuần của mình và thoát ly khỏi những gì có giá trị tự-mình-và-cho-mình. CHÚ GI I D N NH P: §112 Ph n II c a Lôgíc h c: H c thuy t v B n ch t Ba ti u o n (§§112, 113, 114) d n nh p và cho m t cái nhìn t ng quan v lĩnh v c m i m c a tư tư ng: lĩnh v c B n ch t. Vì t m quan tr ng c a chúng trong vi c tìm hi u ph n II này (và cũng vì cách vi t quá cô ng, khó hi u c a Hegel), trư c h t, ta th l n lư t phân tích t ng câu m t c a ti u o n §112 trong ph n Chính văn và, sau ó, bàn thêm v ph n Nh n xét. - … “B n ch t là Khái ni m v i tư cách là Khái ni m ã ư c thi t nh”… Như ã nói, Khái ni m là th c t i duy nh t t tri n khai thông qua ba lĩnh v c c a Ý ni m lôgíc: T n t i, B n ch t và Khái ni m. Câu 1 này xác nh v trí c a lĩnh v c B n ch t b ng cách so sánh v i hai lĩnh v c kia: T n t i và Khái ni m: - Trong lôgíc h c v T n t i, Khái ni m ch m i t tri n khai trong s tr c ti p c a cái t -mình c a nó. Vì th , các m i quan h h p nh t chu i b t liên t c c a nh ng ph m trù c a T n t i ch là ngo i t i. - Ngư c l i, B n ch t (vi t hoa, ch toàn b m t lĩnh v c) là Khái ni m v i tư cách là Khái ni m ư c thi t nh, nghĩa là, ư c minh nhiên hóa, ư c “thi t nh ra bên ngoài”, i ra kh i tính t -mình, khi n cho nh ng ph m trù – trong ó B n ch t th hi n – mang trong lòng chúng d u v t c a tính quan h gi a chúng v i nhau (ch không ph i ch cho m t s ph n tư t bên ngoài) c a tính n i t i trong v n ng ph n tư c a B n ch t, , cu i cùng, ư c ti p thu vào trong tính ph nh tuy t i (= ph nh c a ph nh) c a Khái ni m ( úng nghĩa). 289 - So v i tr ng thái nguyên th y và tr c ti p c a Khái ni m như là T n t i, ây là m t s ti n b , nhưng so v i nh ng quy nh c a Khái ni m xét như là Khái ni m (ph n III), c n th y rõ s khi m khuy t, nghèo nàn c a nh ng quy nh c a Khái ni m v i tư cách là B n ch t. Th t th , trong B n ch t, nh ng quy nh ch ơn thu n tương quan v i nhau, nghĩa là ch ư c thi t nh ch chưa ph i như là cho-mình, t c, chưa ph i là s t -quy nh hay s t -thi t nh vô h n, chưa ph i là ư c ph n tư vào trong chính mình m t cách tuy t i gi ng như nh ng quy nh c a Khái ni m ( c p sau), trong ó m i s ph n chi u trong-cái khác, hay úng hơn, m i s ph n tư-trong- cái khác u là m t s ph n tư-trong-chính mình (gi ng như ánh sáng t trư c t m gương, ph n chi u vào t m gương nhưng hình nh y không ng ng quay l i v i chính nó, nghĩa là t -ph n chi u hay t -ph n tư trong chính mình ngay khi t i ra kh i mình). Ta c n lưu ý: trong §83, ta ã g i B n ch t là t n t i-cho mình, theo nghĩa là cơ s c l p t ch c a m i s hi n h u, nhưng, trong cái t n t i-cho mình y, nó v n còn là cái gì (t n t i) tr c ti p, tương quan v i v ngoài (Schein), là nơi nó t trung gi i trong s h u h n, vì th , chưa ph i là ã ư c ph n tư-trong-chính-mình m t cách tuy t i trong hình th c c a m t cái cho-mình tuy t i (như c p c a “Khái ni m”). - B n ch t như là t n t i t trung gi i mình v i mình b i tính ph nh chính mình Câu th hai này cũng nói lên nét chung c a lĩnh v c B n ch t, nhưng nh n m nh ch y u n cái bên trong c a b n thân B n ch t ch không quy chi u n hai lĩnh v c khác là T n t i và Khái ni m như câu trư c. V m t ngôn ng , hình th c c a B n ch t v n còn t m th i vay mư n thu t ng c a lĩnh v c trư c ó là T n t i. Vì th , câu này, ta th y có m t s thu t ng trong nh nghĩa v B n ch t cu i §111 trư c ây, ch y u là câu “B n ch t là t n t i t trung gi i mình v i mình”*. Hi u như s trung gi i v i mình, B n ch t quan h v i mình ng th i quan h v i cái khác. Quan h v i mình ây là quan h c a cái Vô h n ích th c, tr thành cái cơ ch t cho m i * Cùng theo nghĩa đó, ta tìm thấy các định nghĩa sau đây về Bản chất trong các tác phẩm của Hegel: - “Bản chất là cái độc lập tự chủ tồn tại trong chừng mực nó tự trung giới với mình bởi sự phủ định của nó với mình; vậy, bản chất là sự thống nhất của tính phủ định tuyệt đối và tính trực tiếp” ([Đại] Khoa học Lôgíc II, 11d-12a); - “Bản chất là tồn tại với tư cách là tồn tại đơn giản với mình thông qua sự thủ tiêu sự tồn tại” (nt, I, 398c); hoặc, còn chính xác hơn nữa: “Bản chất là Tồn tại được tái lập trong sự thống nhất đơn giản với mình, thoát ra khỏi sự trực tiếp và khỏi mối quan hệ dửng dưng với cái khác của Tồn tại” (Bài giảng Dự bị triết học / Philosophische Propädentik, II, 2, §33). 290 quy nh c a T n t i, và do ó, nh ng quy nh này, t nay, không còn là nh ng b ph n c u thành tr c ti p (như trong lĩnh v c T n t i) mà ch là nh ng mômen mang tính ý th (Ideel) hay b th tiêu, th i h i. R i, ngay v i tính cách c a tính ý th và s th tiêu, th i h i y, cái khác tr c ti p – mà B n ch t quan h và ng th i cũng là quan h v i mình – th c ra không ph i là m t cái khác th c s (như trong lĩnh v c T n t i), t c, không còn là m t cái ang t n t i (Seiendes / what is / étant) mà là cái gì ư c thi t nh và ư c trung gi i. (M t ví d d hình dung: khi chi c chong chóng quay tròn, m i i m c a ngo i vi không ph i là b ph n c u thành tr c ti p (t n t i) mà ch là quy nh có tính “ý th , ư c thi t nh và ư c trung gi i” b i s trùng h p v i chính mình c a v n ng xoay tròn trong t ng “mômen” c a vòng quay). Nói cách khác, thay vì có m t s b n v ng t -mình c a cái Khác tr c ti p trong lĩnh v c T n t i, thì cái Khác trong B n ch t ch có “tính kh ng nh” (Positivität) trong ch ng m c là m t mômen c a tính ph nh vô h n như là cái t -mình ích th c. Nó ư c tính ph nh vô h n này “thi t nh” như m t mômen l p t c b th tiêu, th i h i; và cũng l p t c ư c trung gi i b i tính [v n] ng tuy t i này, và b n thân nó – trong tính n nh phù du – ch là v ngoài (Schein / shine / semblance / l’apparence superficielle) mà thôi. - “T n t i không b tiêu bi n… [nhưng] b n ch t là t n t i như là “ánh hi n” [tr thành v ngoài] trong chính mình. Câu th ba này có hai n i dung: - T n t i ã không bi n m t, trái l i, b n ch t, trong ch ng m c là quan h ơn gi n v i mình, là t n t i. (Ch “b n ch t” bây gi không vi t hoa ch m t ph m trù trong lĩnh v c B n ch t). Ví d : s v n ng thu n túy, trong ch ng m c là s v n ng thu n túy, là ng nh t v i chính nó, và, theo nghĩa ó, là b t ng. B n ch t cũng th . Trong ch ng m c s ph nh thu n túy là s ph nh thu n túy và s quan h ơn gi n v i chính nó, b n ch t có s tr c ti p c a t n t i, và, theo nghĩa ó, là t n t i. Nhưng, có còn phương di n khác n a: - Trong b n ch t (“Wesen”), t n t i (Sein) là t n t i ã qua (das gewesene Sein / the being that is past / l’être passé). D a theo quy nh phi n di n trư c ây là m t cái tr c ti p thu n túy, bây gi , t n t i b h th p xu ng (herabgesetz / degraded / rabaissé) thành m t t n t i ch mang tính ph nh (trong ch “herab-gesetzt”, ta g p l i ch “gesetzt” / “ ư c thi t nh” trư c ó). Ch “ch ” (nur) g n v i ch “mang 291 tính ph nh” cho th y cái sau ư c hi u theo nghĩa b ng c a cái gì b ph nh, ch không theo nghĩa ch ng c a cái ph nh. N u trong lĩnh v c trư c ây, t n t i có v là cái gì mang tính kh ng nh thì bây gi “b h th p xu ng” trong quan h v i b n ch t và b i b n ch t. Nó ch còn là m t “v ngoài” (Schein). Nhưng, ó là v ngoài c a b n thân b n ch t, vì nó chính là b n thân b n ch t trong quy nh b th i h i c a s t n t i c a nó, t c, c a m i quan h v i chính mình. i v i b n ch t, v ngoài t nay là hình th c hoàn toàn m i m c a t n t i v i tư cách là t n t i “ÁNH HI N” hay “HI N HÌNH” trong chính mình (Scheinen in sich selbst), v i tư cách là hành vi thu n túy c a vi c “hi n hình”, “hi n ra” khi n cho t n t i tr c ti p trong lĩnh v c lôgíc trư c ây ch còn là mômen tĩnh t i, vĩnh vi n b vư t b , vì th Hegel vi t h t s c cô ng: “B n ch t là t n t i như là ánh hi n trong chính mình”. Ta c n tìm hi u câu này rõ hơn m t chút. - B n ch t không còn là t n t i tr c ti p, m c n a mà là m t v n ng “lóe sáng”: nó là t n t i trong s bùng n và bành trư ng s “lóe sáng” thu n túy. S “lóe sáng”, “ánh hi n” ra kh i chính mình là c i m riêng c a b n ch t, do ó, m i ph m trù c a nó u mang c i m y c a vi c vư t ra kh i chính mình, c a tính quan h (Relativität / relationality) c a m i cái hư ng n nh ng cái khác, m t cách v a n i t i v a minh nhiên. Nói khác i, b n ch t là m i quan h v i s tr c ti p mà nó là s ph nh tuy t i*. - Song, s “ánh hi n” thu n túy c a b n ch t – như là tính ph nh tuy t i – không th không có “ánh tư ng" hay “v ngoài” (Schein) mà nó là s ph nh. Khi thi t nh và ph nh, s ánh hi n này c a b n ch t là m t s ánh hi n trong chính mình, nghĩa là, s bành trư ng và y chính mình l i ng nh t v i m t s quay v v i chính mình; nghĩa là, m t quan h v i cái khác ng nh t v i m t quan h v i chính mình. Khi ánh hi n ra trong cái khác – là nh tư ng c a nó –, b n ch t ch ánh * Hegel dùng chữ “Schein” / động từ: “scheinen” vì chữ này vừa có nguồn gốc lịch sử (“ảo tượng siêu nghiệm” / “transzendentaler Schein” nơi Kant, Phê phán lý tính thuần túy, B350 và tiếp) vừa là cách chơi chữ giữa chữ Schein và Sein (tồn tại). Ở đây, ta cần nắm vững nội dung tư biện của chữ này như vừa nói trên: vẻ ngoài hay ánh tượng (Schein) là tồn tại trong chừng mực tồn tại được “nâng cao” trong hình thức tồn tại mới, đó là bản chất. Nó không còn là tồn tại mờ đục trong sự trực tiếp của nó nữa mà là tồn tại đã được “soi sáng”, còn bản chất là sự “chiếu sáng” thuần túy. Trong tiếng Đức, động từ scheinen vừa có nghĩa là “sáng lên”, “lóe lên”, vừa có nghĩa là “hiện ra”, “tỏ ra”. Do đó, tạm dịch sang tiếng Việt là: “ánh hiện”, hay “hiện hình”, “hiện ra như vẻ ngoài”, còn Schein được dịch là “ánh tượng", “vẻ ngoài”. (Xem thêm chú thích 257 trong bản dịch Hiện tượng học Tinh thần về “vẻ ngoài” (Schein) và “hiện tượng" (Erscheinung), BVNS, Sđd, tr. 344-346). Về “hiện tượng", ta sẽ gặp ở §131 và tiếp. 292 hi n trong chính nó (s bàn k §115), vì cái khác c a nó l i là b n thân nó trong hình th c c a s tr c ti p, và, vì th , ch là m t mômen c a nó, , thông qua vi c ph nh cái khác này, b n ch t t -kh ng nh mình trong tính ph nh tuy t ic a nó. (Ta có th nói, trong tính ph nh tuy t i c a b n ch t như là s ph nh c a ph nh, b n ch t là mômen c a s ph nh làm công vi c ph nh, còn ánh tư ng hay v ngoài là mômen c a s ph nh b ph nh. Tuy nhiên, c hai là m t và cùng m t tính ph nh vô h n, không có s phân bi t gi a hai h n t y). Ph n Nh n xét cho §112: - nh nghĩa m i v cái Tuy t i: cái Tuy t i là b n ch t - Là ph m trù cơ b n t o nên n n t ng c a m i t n t i, b n ch t mang l i m t nh nghĩa m i v cái Tuy t i: cái Tuy t i là b n ch t. Nhưng, b n ch t ây m i ch là s ph nh u tiên i v i t n t i, do ó chưa ư c quy nh m t cách c th , chưa mang l i cho mình m t t n t i-hi n có úng nghĩa. Nó ch m i là tính ph nh thu n túy trong tính ơn gi n và trong tính n i t i c a m i quan h v i chính mình. Do ó, nh nghĩa m i này v cái Tuy t i, theo m t nghĩa nào ó, cũng không khác gì nh nghĩa trư c ây r ng cái Tuy t i là t n t i, trong ch ng m c t n t i cũng là m i quan h ơn gi n v i chính mình. Tuy nhiên, nh nghĩa m i này ng th i là ư c nâng cao hơn so v i nh nghĩa trư c, vì b n ch t là t n t i ã i vào trong chính mình (das in sich gegangene Sein / being that has gone into itself / l’être qui est allé dans soi), nghĩa là, t n t i ã ư c ào sâu thêm, do ó, t n t i trư c ây ch còn là m t mômen h i h t. Như th , m i quan h ơn gi n v i chính mình c a b n ch t không còn là m i quan h ơn gi n v i chính mình c a t n t i n a, mà là ư c thi t nh; là s trung gi i (t c: ư c t trong m i quan h ) gi a mình (như là ánh tư ng tr c ti p) trong mình (trong và b i v n ng tuy t i c a tính ph nh thu n túy) v i chính mình (như là b n ch t ngang b ng hay ng nh t v i chính mình trong tính ph nh vô h n). - Cái Tuy t i bây gi ư c xác nh như là b n ch t ch không còn như là t n t i. Nhưng, b n ch t là tính ph nh vô h n. N u ta hi u b n ch t theo ki u hình dung b ng bi u tư ng thông thư ng, nó ch là hình th c tr ng r ng vì b tư c b h t m i quy nh c th , nghĩa là, tính ph nh có nguy cơ b ng nh n là m t s tr u tư ng (hóa) kh i m i thu c tính nh t nh. Trong trư ng h p y, s tr u tư ng (và i kèm v i nó là tính ph nh) ch còn là m t s ph n tư ngo i t i, xa l v i b n thân s v n ng c a b n ch t. Hành vi ph nh tr u tư ng y không ph i là v n ng ph nh c a b n thân b n ch t mà rơi ra kh i nó, quy gi n nó thành cái caput mortumm (xem 293 chú thích cho §44), t c thành cái “c n bã” c a s tr u tư ng, thành m t ph m trù cơ b n nhưng tr ng r ng và tr u tư ng, thành m t k t qu tr n tr i mà không có ti n c a chính nó, t c không có s v n ng t -ph nh c a t n t i và c a m i quy nh. - Trong khi ó, không ph i m t s ph nh ngo i t i là d nt nt i n ch t ào sâu chính mình, mà là m t phép bi n ch ng n i t i như nh nghĩa §81 (s t th i h i nh ng quy nh h u h n và chuy n sang cái i l p). Tuy b n ch t ư c g i là chân lý c a t n t i (và là s ph nh c a nó) nhưng ó là k t qu c a s t -ph nh c a t n t i, nghĩa là: không gì khác hơn là t n t i t n i t i hóa, t i vào trong chính mình, t ph nh mình tr thành “ánh tư ng" hay “v ngoài” h i h t. V y, trong ti n trình tr thành b n ch t, t n t i cho th y tính nh b i n i t i: s tr c ti p và s trung gi i ngay trong v n ng c a b n ch t. S khác bi t gi a “t n t i- ã- i- vào-trong-chính mình” (t c: b n ch t) và t n t i tr c ti p là s v n ng bi n i tính n i t i (“trong chính mình”) thành cái v ngoài h i h t (“t n t i”) và ngư c l i. V n ng n i t i c a b n ch t (không còn s tĩnh t i tr c ti p c a t n t i) g i là s PH N TƯ c a b n ch t hay s “ánh hi n trong chính mình”, hai thu t ng bi u th quy nh riêng có c a b n thân b n ch t. Th nào là “ph n tư”? Khác v i t n t i tr c ti p, b n ch t có m t s t -v n ng n i t i (Selbstbewegung / automouvement: xem i Lô gíc h c II, 13a). Như ã nói, b n ch t là t n t i v i tư cách là “ánh chi u trong chính mình”. “Ánh chi u” (Scheinen) là v n ng i ra kh i chính mình quan h v i cái khác, và, như ã th y, v n ng này là ng nh t v i v n ng quay v v i chính mình và quan h v i chính mình (in sich selbst). Và ó cũng chính là n i dung c a ph m trù “s ph n tư”. Ph n tư là ra kh i chính mình i vào trong chính mình (như hình nh ph n chi u l i t t m gương hay khi ta “nghĩ i nghĩ l i” hi u m t i tư ng). ó là s v n ng nơi chính mình, s t -v n ng ph n tư c a b n ch t, như Hegel nh nghĩa rõ hơn trong [ i] Lôgíc h c: khác v i t n t i tr c ti p, b n ch t là s ph n tư, t c là “v n ng c a s tr thành và c a s chuy n sang cái khác mà v n trong chính mình, là nơi cái ư c phân bi t ch ư c quy nh m t cách tuy t i như là cái ph nh t mình, như là v ngoài [hay “ánh tư ng"]” (II, 13c). Hai mômen c a v n ng này là: ph n tư-trong-cái khác và ph n tư-trong-mình. Khác v i lĩnh v c Khái ni m ( ph n III), trong lĩnh v c B n ch t, mômen trư c chi m ưu th , vì nh ng quy nh c a nó, như ã th y, u trong m i tương quan v i nhau, ch chưa ư c ph n tư trong chính mình m t cách tuy t i như trong Khái ni m ( úng nghĩa). §113 294 Trong b n ch t, s quan h -v i-chính mình là hình th c c a s ng nh t, c a s ph n tư- -trong-chính mình. ây, hình th c này ã th ch cho s tr c ti p c a t n t i; [nhưng] c hai u là các s tr u tư ng gi ng như nhau c a s quan h -v i-mình(a). S235 Tính vô-tư tư ng c a c m năng(b) [nh n th c c m tính] – n m l y m i cái b gi i h n và h u h n như là m t cái gì ơn thu n t n t i(c) – chuy n thành tính ngoan c c a giác tính, n m b t m i cái h u h n như là cái gì ng nh t v i chính nó [và] không t mâu thu n n i t i(d). CHÚ GI I D N NH P: §113 Hình th c c a tính ng nh t trong b n ch t th ch cho s tr c ti p c a t n t i… - Như ã th y ti u o n trư c, b n ch t ch là m i quan h v i chính mình trong ch ng m c quan h này là quan h v i cái khác, nhưng, ó là v i cái khác ư c thi t nh và ư c trung gi i ch như là v ngoài, ánh tư ng. ó là s khi m khuy t c a c hai i c c c a b n ch t: t n t i ch t n t i như là v ngoài c a b n ch t, và b n ch t ch là b n ch t c a [t n t i như là] v ngoài. - Tuy có s trung gi i c a m i quan h v i cái khác, nhưng b n ch t là quan h v i chính mình. Xét m t cách tr u tư ng, nghĩa là, m t cách cô l p, quan h v i chính mình trong b n ch t là s tr u tư ng hoàn toàn hình th c, hay, nói cách khác, là hình th c c a s ng nh t, c a s ph n tư- trong-mình. R i, do là s ánh hi n, B n ch t là s ph n tư, hư ng n cái khác, t d bi t hóa, nhưng s ánh hi n y – tuy không tuy t i – v n quay l i v i chính mình như là s ánh hi n trong chính mình, nên, xét m t cách cô l p, s ph n tư- -trong-mình này c a B n ch t cũng là mômen hình th c c a s ng nh t c a nó, c a m i quan h v i chính mình. Th nhưng, quan h - v i-chính mình là nh nghĩa v s tr c ti p c a t n t i. Do ó, n t t n t i, s ng nh t hay s ph n tư- -trong-chính mình trong B n ch t bây gi th ch cho s tr c ti p c a t n t i trong lĩnh v c trư c ây. Th t th , c hai: s ng nh t c a B n ch t và s tr c ti p c a T n t i u là cùng nh ng s tr u tư ng c a s quan h -v i- chính mình. - Tuy nhiên, v n có m t s khác bi t m t tr i m t v c gi a s ng nh t c a b n ch t v i s tr c ti p c a t n t i (s “th ch ” hàm nghĩa m t s khác bi t). Nh ng ph m (a) (b) (c) Beziehung-auf-sich / relation-to-self; Sinnlichkeit / sense-knowledge; ein Seiendes / (d) something that [simply] is; als ein mit sich Identisches, sich in sich nicht Widersprechendes / as something-identical-with-itself, [and] not inwardly contradichtig itself. 295 trù trong B n ch t s là nh ng hình th c tr u tư ng t th hi n b n thân chúng như là s ng nh t quay tr l i v i chính mình, i u chưa có ư c trong nh ng ph m trù c a T n t i: [trong lĩnh v c T n t i] chúng b c l khuy t i m c a chúng ch : không ph i nh m t s ánh hi n ch ng trong cái khác m t cách n i t i mà ch nh vào m t s chuy n sang hay quá sang cái khác m t cách d ng dưng. - Ph n Nh n xét: §113 ây là Nh n xét áng chú ý: - Hai s tr u tư ng trên bình di n siêu hình h c (m t bên là s tr c ti p c a t n t i và bên kia là s ng nh t c a b n ch t) có th ư c chuy n sang bình di n nh n th c lu n, khi n cho t n t i và b n ch t tr thành c p i ng v m t nh n th c: c m năng và giác tính. Khi xem c m năng và giác tính là hai “quan năng c a nh n th c”, ta g p l i m t s tr u tư ng tương t . S “vô-tư tư ng" s ngoan c bám ch t l y các hình th c tr u tư ng c a t n t i và c a s ng nh t: c m năng xem t t c nh ng gì h u h n và b h n ch là cái ang t n t i tr c ti p, không có s ph nh và thay i; giác tính thì n m l y cái ang t n t i này như là cái gì ng nh t v i chính mình, thoát kh i tính ph nh c a s khác bi t v i chính mình và do ó, không t -mâu thu n n i t i. Như ta s th y §§115-116, s khác bi t và s mâu thu n là hai quy nh c a s ph n tư, luôn g n li n m t cách m t thi t v i s ng nh t. §114 S ng nh t này – n t t n t i – [nên] tho t u xu t hi n ra(a) như b dính ch t ch v i nh ng quy nh c a t n t i, và [v i tính ch t y] quan h v i t n t i như v i m t cái gì ngo i t i. Khi t n t i ư c n m l y m t cách tách r i v i b n ch t như th , nó [t n t i] b g i là cái “không-b n ch t”(b). Nhưng, b n ch t là t n t i- trong-chính mình(c); nó có tính b n ch t ch trong ch ng m c nó có cái ph nh c a mình trong chính mình, [nghĩa là] có s quan h -v i-cái khác hay có s trung gi i bên trong chính mình. Vì th , nó có cái không-b n ch t như là “v ngoài” c a riêng nó trong nó(d). Nhưng, vì l trong vi c ánh hi n [thành v ngoài] hay trong vi c trung gi i có ch a ng vi c phân bi t, nên b n thân cái ư c phân bi t cũng mang hình th c c a s ng nh t, trong s phân bi t c a nó v i s ng nh t mà t ó nó n y sinh ra và trong ó nó không “t n t i” hay [ch ] trong ó như là “v ngoài”. | Cho nên, b n thân cái ư c phân bi t cũng trong hình th c hay phương cách (Weise) c a s tr c ti p t -quan h v i mình hay c a t n t i. | Và, vì lý do ó, lĩnh v c (a) (b) (c) (d) erscheint / appears; das Unwesentliche / the “inessential”; Insichsein / being-within-self; als seinen eigenen Schein in sich / as its own shine within itself. 296 c a B n ch t tr thành m t s n i k t b t toàn [không hoàn h o] gi a s tr c ti p và s trung gi i. T t c u ư c thi t nh trong lĩnh v c y theo ki u t quan h mình v i chính mình [s tr c ti p], ng th i ã i ra kh i s tr c ti p y [t c: s trung gi i]. | Nó ư c thi t nh như là m t t n t i c a s ph n tư [hay ph n chi u], m t t n t i trong ó m t cái khác “chi u” vào và nó “chi u” vào bên trong m t cái khác. – Vì th , lĩnh v c c a B n ch t cũng là lĩnh v c c a s mâu thu n ư c thi t nh, trong khi ó, trong lĩnh v c c a T n t i, s mâu thu n này ch m i là t -mình [m c nhiên]. Vì l [ch có] M t Khái ni m là cái gì có tính “b n th ”(a) trong t t c , nên nh ng quy nh di n ra trong s phát tri n c a B n ch t cũng cùng là nh ng quy nh di n ra trong s phát tri n c a T n t i, ch có i u, chúng di n ra trong hình th c ã ư c ph n tư [ ã ư c ph n chi u]. Do ó, thay vì t n t i và hư vô thì bây gi , các hình th c c a cái kh ng nh và cái ph nh bư c vào. | Tho t u, cái kh ng nh – như là s ng nh t – tương ng v i t n t i không có s i l p, trong khi cái ph nh (ánh hi n trong chính mình(b)) phát tri n như là s khác bi t [hay phân bi t](c). | R i, s tr thành, cùng cách y, th hi n ra như là chính cơ s (d) c a t n t i-hi n có, và, t n t i-hi n có – như là ã ư c ph n tư v cơ s c a mình – là s hi n h u(e) [xem §123] và v.v… S236 - Ph n này c a Lôgíc h c là ph n khó nh t vì nó ch a ng h u h t các ph m trù c a Siêu hình h c và c a khoa h c nói chung: nó ch a ng chúng như là các s n ph m c a giác tính ph n tư, t c th giác tính v a thi t nh nh ng s khác bi t như là c l p t t n [v i nhau](a) v a ng th i thi t nh tính quan h c a chúng(b). | Nhưng, nó ch n i k t c hai i u này l i bên c nh nhau hay n i ti p theo nhau b ng m t cái Cũng, ch không t p h p các tư tư ng này l i v i nhau [trong m t th th ng nh t]; [t c], không h p nh t chúng l i thành Khái ni m. CHÚ GI I D N NH P: §114 Cái “không-b n ch t” (das Unwesentliche / the unessential / l’inessentiel) và cái [có tính] b n ch t” (das Wesentliche / the essential / l’essentiel) - M t cách nào ó, có th nói: tư tư ng v b n ch t n t tư tư ng v t n t i. Vì, ngay t u c a s phát tri n lôgíc, tư tư ng t kh ng nh trư c h t như là “t n t i”, trong s tr c ti p c a nó. R i “sau ó”, do s tr c ti p t ph nh, nên tư tư ng t kh ng (a) (b) (c) das Substantielle / what is substantial; in sich sheinend / shining within itself; der Unterschied (d) (e) / difference, distinction; Grund / ground; Existenz / existence. (a) (b) Selbständig / independent / autosubsistant (Pháp); ihre Relativität / their relationality. 297 nh như b n ch t, t c như s trung gi i hay tính ph nh vô h n. V phương di n trình t lôgíc, b n ch t n t t n t i, nhưng trong th c t , chính b n ch t làm cơ s cho t n t i vì nó thi t nh t n t i như là mômen b th i h i trong s quan h ơn gi n c a nó v i chính mình. - B n ch t “ n t ” t n t i nên tho t u xu t hi n trong s tr c ti p c a m i quan h - v i-mình, trong s tr u tư ng c a s ph n tư-trong-chính mình, t c, trong m t s ng nh t v i chính mình; nói khác i, ph c h i s tr c ti p c a t n t i c p b n ch t. - V i tư cách y, b n ch t b tác ng hay b “dính ch t” v i nh ng quy nh c a t n t i. i l p v i s tr c ti p c a t n t i, b n ch t tho t u xu t hi n ra như m t s tr c ti p khác, cũng “t n t i” gi ng như t n t i. C hai tr thành hai cái “khác” c a nhau, v i tính ngo i t i và tính h u h n v n thu c v quy nh c a t n t i, hay, úng hơn, c a t n t i-hi n có (Dasein / Being-there / l’être-là). Theo nghĩa ó, b n ch t- ng-nh t-v i-mình quan h v i t n t i gi ng như cái gì ngo i t i quan h v i m t cái ngo i t i. T n t i quan h v i b n ch t gi ng h t như trong lĩnh v c t n t i-hi n có, m t cái-gì- ó (Etwas / something / Quelque-chose) bên c nh m t cái khác. N u cái-gì- ó ngo i t i này ư c n m l y m t cách cô l p, tách r i v i b n ch t, nó ư c g i là “cái không-b n ch t”. - Nhưng, m i quan h ngo i t i như th gi a cái t n t i-không b n ch t v i cái t n t i khác, g i là cái có tính b n ch t (hay b n ch t) là không n, không ng v ng. Vì l , b n ch t – do tính ph nh chính mình – là t n t i t -trung gi i v i chính mình; nó là “t n t i-trong-chính mình”, là “cái có tính b n ch t” trong ch ng m c nó có bên trong nó cái ph nh chính mình, t c, như §112 ã nói, có trong chính nó m i quan h v i cái khác (hay s “trung gi i”), nghĩa là, có s “bi n i” lĩnh v c t n t i, khi n cho cái khác ch là m t “v ngoài”, m t “ánh tư ng" c a nó. B n ch t không th quan h v i cái không-b n ch t c a v ngoài như v i cái-gì- ó bên ngoài. Ngư c l i, theo nh nghĩa, nó có cái ph nh c a chính nó bên trong nó, nghĩa là có cái không-b n ch t như là v ngoài hay ánh tư ng c a riêng nó. - Hành vi thu n túy c a s trung gi i ti n-gi nh m t h n t tr c ti p nó trung gi i. Do ó, luôn có m t s nhân ôi hay hóa ôi (Verdoppelung) trong lòng b n ch t, nghĩa là có m t s phân bi t hay m t s d bi t hóa gi a hai h n t . Vì th , Hegel vi t: … “ trong vi c ánh hi n hay trong vi c trung gi i có ch a ng m t vi c phân bi t” (“Das Unterscheiden ist enthalten im Scheinen oder Vermitteln / there is a distinguishing contained in the shining or mediating / le différencier est 298 contenue dans le paraître ou le médiatiser). Cái ư c phân bi t ây là v ngoài, ánh tư ng. Nó nt s ng nh t c a b n ch t và t o nên m t trong nh ng mômen c a b n ch t, nhưng nó không t n t i, nói rõ hơn, nó không t n t i trong s ng nh t này, b i s ng nh t này là s ng nh t c a s ph nh tuy t i, qua ó m i t n t i tr c ti p u b h th p xu ng thành m t t n t i ơn thu n mang tính ph nh, thành m t v ngoài. Nó không t n t i mà ch có m t ơn thu n như v ngoài, ánh tư ng. B n ch t “ánh hi n” (sheint) trong ánh tư ng này như trong m t mômen c a nó mà thôi. - Trong ánh tư ng (hay trong cái ư c phân bi t này), ta th y rõ hai nét tiêu bi u c a b n ch t: tính ph nh và tính tr c ti p. Tính ph nh bi n nó thành m t v ngoài ơn thu n. ng th i, tính tr c ti p mang l i cho nó m t hình th c tr u tư ng c a s ng nh t, như th cái gì thu c v t n t i. V y, cái ư c phân bi t, cái v ngoài hay cái không-b n ch t này mang tính ngh ch lý: có s t t n c a m t t n t i tr c ti p, nhưng l i là ph nh, không t n t i ngay trong lòng b n ch t. úng hơn, ây không ph i là m t ngh ch lý (Paradox) mà là s mâu thu n (Widerspruch / contradiction) c u t o nên lĩnh v c B n ch t. - Do ó, Hegel k t lu n: lĩnh v c B n ch t tr thành m t mi ng t ph c t p c a “m t s n i k t b t toàn [không hoàn h o] gi a s tr c ti p và s trung gi i”. T i sao là “b t toàn”? Ta hãy th so sánh v i lĩnh v c Khái ni m ph n III. Trong lĩnh v c c a Khái ni m, s trung gi i s là s tr c ti p trong m t s liên t c tuy t i và tương h : cái ph bi n s ti p t c m t cách tuy t i trong cái c thù, và s th ng nh t- i l p c a hai mômen này s t o nên Khái ni m trong mômen ơn nh t c a s khai tri n b n thân và c a tính ph nh tuy t i. Trái l i, ây, trong lĩnh v c B n ch t, s mâu thu n này ch ư c thi t nh ch chưa ư c gi i quy t. S mâu thu n y t th hi n trong B n ch t b ng m t cái “Cũng” gi n ơn, m t s n i k t theo ki u “ t bên c nh nhau” tr u tư ng, và, t giác y, là m t s n i k t b t toàn gi a s tr c ti p và s trung gi i. M i mômen có tính b n ch t hay không-b n ch t u ư c thi t nh như là quan h v i mình [s tr c ti p], và “ ng th i ã i ra kh i s tr c ti p y [s trung gi i], nghĩa là như t n t i ư c trung gi i m t cái khác “ánh chi u” vào, và, ngư c l i, “ánh chi u” trong cái khác. - Trong lĩnh v c T n t i trư c ây, s mâu thu n này ã có m t nhưng ch m i là “t - mình” (m c nhiên); nó t gi u mình àng sau nh ng s quá t ng t và s luân phiên c a ph m trù này sang ph m trù kia; còn thi u s liên t c và s tương quan trong ó vi c “ánh chi u” qua l i c a m i ph m trù vào trong nhau có th mang hình 299 th c minh nhiên c a s mâu thu n, vì không có s tương quan thì cũng không có s mâu thu n. S mâu thu n y (m i ph m trù, vd: n i dung, hình th c, kh năng, t t y u, nguyên nhân, k t qu … là m t t n t i nhưng l i hư ng n ph m trù kia, t ph n tư / ph n chi u trong ó, ánh chi u trong ó, vì th , là m t t n t i c a s ph n tư), như ã nói, ch m i ư c thi t nh ch chưa ư c gi i quy t, nghĩa là chưa có ư c nguyên t c ph bi n và t do có ư c tính kh ni m tuy t i [tính có th hi u ư c] v m i quy nh c thù. - Ph n Nh n xét cho §114 Ph n Nh n xét này có nhi u i m áng chú ý: - Trong s phát tri n c a B n ch t, ta g p l i chính nh ng quy nh trong s phát tri n c a T n t i trư c ây. Nhưng, ch khác bi t, như ã nói, là: trong B n ch t, nh ng quy nh không còn mang hình th c c a s tr c ti p như trong T n t i mà dư i hình th c ư c ph n tư, nghĩa là, chúng ph n chi u nhau, quan h v i nhau nhưng không i kh i chính mình. Trong T n t i, ta có các ph m trù tr c ti p c a tư tư ng là t n t i và hư vô tr c ti p. Phép bi n ch ng v n hành ó là s quá song ôi c a cái này sang cái kia trong hình th c b t liên t c c a vi c chuy n sang nhau t ng t và tr c ti p. Trong B n ch t, tình hình khác h n. Th ch cho t n t i và hư vô, ta có các ph m trù u tiên c a B n ch t trong hình th c c a cái kh ng nh và cái ph nh. (G i cái kh ng nh và cái ph nh là “các hình th c” vì chúng tho t u là các hình th c c a s ph n tư thu n túy c a B n ch t trư c khi chuy n hóa thành s hi n h u (§§123 và ti p). - Cái kh ng nh tho t tiên (như s th y ti u o n sau) th hi n trong hình th c tr u tư ng nh t c a s ng nh t (§115). Nhưng, dù là s ng nh t ơn gi n, nó ch tương ng v i “t n t i thu n túy” c a lĩnh v c T n t i trong ch ng m c ưa cái sau lên m t c p lôgíc cao hơn. Th t th , t n t i không th c s i l p v i hư vô, gi a hai cái không có m i quan h nào (xem l i: §88). Ngư c l i, s ng nh t hư ng n s khác bi t vì ch có s ng nh t khi có s phân bi t, và hơn th n a, cái kh ng nh luôn g n li n v i cái i l p c a nó là cái ph nh, gi ng như hai c c c a m t nam châm. - Cũng th , cái ph nh tho t u th hi n trong hình th c tr u tư ng nh t c a s khác bi t (§116), tương ng v i hư vô trong lĩnh v c T n t i. Nhưng, khác v i hư vô còn b bao b c trong s tr c ti p, không có quan h và không có s i l p, cái ph nh là cái gì ã phát tri n, là s ph n tư-trong-cái-khác, t c trong cái kh ng nh mà nó 300 v n g n li n. R i ti p t c cũng th , trong B n ch t, cơ s (Grund / Ground / fondement) tương ng v i s tr thành trong lĩnh v c T n t i. Nhưng, trong khi s tr thành “s p ” l p t c trong t n t i- ang-có như là k t qu tr c ti p c a nó, thì cơ s l i làm cơ s cho t n t i- ang-có, vì cơ s , do b n tính c a nó, ch là cơ s trong ch ng m c nó là cơ s cho cái-gì- ó, hay, nói khái quát hơn, cho t n t i-hi n có trong ch ng m c t n t i-hi n có – thoát thai t cơ s và ư c cơ s thi t nh – không còn mang hình th c ơn gi n, tr c ti p c a t n t i-hi n có n a, trái l i, mang hình th c ư c ph n tư c a s hi n h u (§123). (Ch “s hi n h u” / Existenz, như s th y, nói lên m i quan h xu t phát t ngu n g c, cơ s (“ex”) t ó có s t t n (Ex- sistenz). - Hegel b o H c thuy t v B n ch t là ph n khó nh t c a Lôgíc h c, ch a ng ch y u nh ng ph m trù c a Siêu hình h c c truy n (ch ng h n: cơ s hay lý do t n t i, b n ch t và hi n h u, ch t li u và hình th c, kh năng và t t y u v.v…) cũng như nh ng ph m trù c a các khoa h c nói chung (ch ng h n: s v t và các thu c tính c a nó, l c và s ngo i t i hóa c a nó, nguyên nhân và k t qu v.v…). Nhưng, “khó” ây không ch có nghĩa là “khó hi u” mà còn là khó vi c kh c ph c tính c ng nh c và phi n di n c a chúng. - Th t th , các ph m trù này c a Siêu hình h c và các khoa h c là s n ph m c a giác tính ph n tư theo nh nghĩa §80, nghĩa là, s n ph m c a tư duy bám ch t l y các quy nh c ng nh c, c nh, chúng ư c phân bi t trong m i quan h v i nh ng s n ph m khác nên thư ng ư c xem như nh ng s khác bi t c l p-t t n. - Song, trong ch ng m c giác tính thi t nh các ph m trù, nó m c nhiên bư c vào mômen “bi n ch ng” (theo nh nghĩa §81), t c, th a nh n s t -th tiêu c a nh ng quy nh h u h n và s chuy n sang nh ng cái i l p c a chúng. T ó, giác tính s trên ư ng i n lý tính. Nhưng, sai l m c a giác tính là d ng l i s n i k t ơn gi n gi a hai phương di n “ c l p t t n” và “tính quan h ”; nó t v a lòng v i vi c t hai phương di n này bên c nh nhau b ng m t cái “Cũng” ơn gi n, thay vì t p h p c hai cái i l p vào trong m t nh t th c th c a Khái ni m. Nói khác i, giác tính chưa gi i quy t ư c s mâu thu n do chính nó thi t nh nên b ng m t s t - trung gi i và t -quy nh hoàn h o như c p c a Khái ni m sau này. 301 A (a) B N CH T NHƯ LÀ CƠ S C A S HI N H U a: Các quy nh thu n túy c a s ph n tư 1. S ng nh t §115 B n ch t ánh hi n trong mình(b) hay [nói cách khác] là s ph n tư thu n túy. | B ng cách y, nó ch là s quan h v i mình (không ph i như là s quan h tr c ti p mà như là s quan h ã ư c ph n tư): s ng nh t v i mình(c). S ng nh t này là s ng nh t hình th c hay là s ng nh t-c a- giác tính(d), trong ch ng m c nó b n m ch t l y và b tr u tư ng hóa [hay b tư c b ] kh i s khác bi t [hay phân bi t]. Hay, nói úng hơn, chính s tr u tư ng là vi c thi t nh s ng nh t hình th c này, là vi c bi n m t cái gì c th trong b n thân thành hình th c này c a tính ơn gi n, – ho c ó là trư ng h p m t b ph n c a cái a t p hi n di n trong cái c th b tư c b i (thông qua cái g i là s phân tích) và ch có m t trong nh ng y u t a t p này là ư c l c l a ra; ho c, b ng cách tư c b tính khác nhau(e) c a chúng, [khi n cho] nh ng tính quy nh a t p b d n l i thành M t. Khi s ng nh t ư c g n v i cái Tuy t i như là ch ng c a m t m nh , thì m nh y là: “Cái Tuy t i là cái ng nh t v i chính mình”. – M nh này tuy là úng nhưng l i không rõ mu n nói gì trong ý nghĩa úng th t c a nó. | Hay ít ra m nh này cũng không hoàn ch nh trong s di n t, b i ta v n không bi t nó d t khoát mu n nói gì: ph i chăng ó ch là s ng nh t-c a-giác tính, t c, s ng nh t trong s i l p l i v i nh ng quy nh khác c a B n ch t, ho c ó qu th t là s ng nh t c th trong chính nó. | Cái sau này (như s th y sau) tho t u là cơ s , và r i, trong chân lý [hay s th t] cao hơn c a nó, là Khái ni m. – V l i, chính b n thân ch “tuy t i” cũng thư ng không có nghĩa gì khác hơn so v i nghĩa c a ch “tr u tư ng”, cho nên “không gian tuy t i”, “th i gian tuy t i” ch ng có nghĩa gì khác hơn là không gian tr u tư ng và th i gian tr u tư ng(6). (a) (b) Grund / ground; das Wesen scheint in sich / Essence shines within itself / l’Essence paraît dans (c) (d) soi; Identität mit sich / identity with itself / Identité avec soi; Verstandesidentität / identity-of-the- (e) understanding; ihre Verschiedenheit / their diversity. (6) “ab-solut”: nghĩa t nguyên là “tách r i”, “ c l p v i cái khác”, do ó, ng nghĩa v i “tr u tư ng”. 302 Nh ng quy nh c a B n ch t – n u ư c n m l y như là nh ng quy nh có tính b n ch t (wesentlich) – s tr thành nh ng thu c tính [hay nh ng v ng ] c a m t ch th [hay m t ch ng ] ã ư c ti n-gi nh; và, b i chúng là có tính b n ch t, nên ch th [hay ch ng ] này là T t c . Các m nh ra i t ó ư c phát bi u như là các quy lu t ph bi n c a tư duy. Theo ó, m nh [hay nguyên t c] c a s ng nh t là: “T t c là ng nh t v i mình; A=A”; và ph nh là: “A không th ng th i là A và không ph i A”. – Thay vì là m t quy lu t úng th t c a tư duy, m nh này không gì khác hơn là quy lu t c a giác tính tr u tư ng. Ngay b n thân hình th c c a m nh ã mâu thu n l i v i nó: vì l m t m nh như th cũng h a h n [có] m t s khác bi t [hay phân bi t] gi a ch ng và v ng , nhưng l i không làm ư c i u mà hình th c c a nó òi h i. Nh t là, nó b chính các cái g i là các quy lu t c a tư duy ti p theo nó th tiêu, b i các cái này bi n cái i l p c a quy lu t này thành nh ng quy lu t. - N u ai ó b o r ng m nh này là không th ch ng minh ư c, mà trái l i, m i ý th c u ti n hành phù h p v i nó và l p t c nh t trí v i nó như kinh nghi m cho th y, thì, i l p l i v i th kinh nghi m t phong này c a trư ng c, ta có th ưa ra kinh nghi m ph bi n ngư c l i, r ng ch ng có ý th c nào l i suy nghĩ, hình dung hay nói d a theo quy lu t y c , và cũng tuy t nhiên ch ng có s hi n h u nào, dù thu c b t c lo i gì, l i hi n h u phù h p v i nó h t! Ăn nói cho phù h p v i cái g i là quy lu t này c a chân lý (“m t hành tinh là… m t hành tinh; t tính là… t tính; tinh th n… là m t tinh th n) thì th t là chán phèo; ó m i qu th t là kinh nghi m ph bi n! Trư ng c – là nơi duy nh t các quy lu t này có giá tr – ã t lâu m t h t uy tín trư c lý trí con ngư i lành m nh l n trư c lý tính do cái Lôgíc h c ư c nó rao gi ng m t cách tr nh tr ng S238 y. Giảng thêm: Sự đồng nhất, trước hết, là sự lặp lại của cái ta đã có trước đây như là tồn tại, nhưng, bây giờ, như là tồn tại đã trở thành thông qua sự vượt bỏ tính quy định trực tiếp, và, do đó, nó là tồn tại xét như tính ý thể(a). - Điều cực kỳ quan trọng là phải đạt được sự hiểu biết thích đáng về ý nghĩa đúng thật của sự đồng nhất, và điều này có nghĩa trước hết là: nó không được phép lý giải đơn thuần như là sự đồng nhất trừu tượng, nghĩa là, như sự đồng nhất loại trừ sự khác biệt. Đó chính là điểm phân biệt mọi thứ triết học tồi với nền triết học duy nhất xứng danh là triết học. Trong chân lý của nó, như là tính ý thể của cái gì tồn tại trực tiếp, sự đồng nhất là một quy định cao vời, vừa đối với ý thức tôn giáo của ta, vừa đối với mọi tư duy và ý thức khác nói chung. Có thể nói rằng nhận thức đúng thật về Thượng đế bắt đầu ở điểm (a) Idealität / ideality / idéalité = ph i b vư t b (aufgehoben / sublated / supprimé). 303
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net