logo

Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng

Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng
HIỆP ĐỊNH VỀ TRỢ CẤP VÀ CÁC BIỆN PHÁP ĐỐI KHÁNG Các Thành viên, bằng Hiệp định này, thoả thuận như sau: PHẦN 1: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG Điều 1 Định nghĩa trợ cấp 1.1Theo Hiệp định này, trợ cấp được coi là tồn tại nếu: (a)(1) có sự đóng góp về tài chính của chính phủ hoặc một cơ quan công cộng trên lãnh thổ của một Thành viên ( theo Hiệp định này sau đây gọi chung là “chính phủ”) khi: (i) chính phủ thực tế có chuyển trực tiếp các khoản vốn (ví dụ như cấp phát, cho vay, hay góp cổ phần), có khả năng chuyển hoặc nhận nợ trực tiếp (như bảo lãnh tiền vay); (ii) các khoản thu phải nộp cho chính phủ đã được bỏ qua hay không thu (ví dụ: ưu đãi tài chính như miễn thuế )[1]; (iii) chính phủ cung cấp hàng hoá hay dịch vụ không phải là hạ tầng cơ sở chung, hoặc mua hàng ; (iv) chính phủ góp tiền vào một cơ chế tài trợ, hay giao hoặc lệnh cho một tổ chức tư nhân thực thi một hay nhiều chức năng đã nêu từ điểm (i) đến (iii) trên đây, là những chức năng thông thường được trao cho chính phủ và công việc của tổ chức tư nhân này trong thực tế không khác với những hoạt động thông thuờng của chính phủ. hoặc (a) (2) có bất kỳ một hình thức hỗ trợ thu nhập hoặc trợ giá nào theo nội dung Điều XVI của Hiệp định GATT 1994; và (b) một lợi ích được cấp bởi điều đó. 1.2. Trợ cấp theo định nghĩa tại khoản khoản 1 phải chịu sự điều chỉnh của các quy định tại Phần II hoặc các quy định tại Phần III hoặc Phần V chỉ khi đó là một trợ cấp riêng theo các quy định tại Điều 2. Điều 2 Tính riêng biệt 2.1. Để xác định liệu một trợ cấp theo định nghĩa tại khoản 1 Điều 1 có được áp dụng riêng cho một doanh nghiệp hay một nhóm các doanh nghiệp hay ngành sản xuất ( theo Hiệp định này gọi là “các doanh nghiệp nhất định") trong phạm vi quyền hạn của cơ quan có thẩm quyềncấp trợ cấp hay không, các nguyên tắc sau sẽ được áp dụng: (a) Khi cơ quan có thẩm quyền cấp trợ cấp hay luật mà cơ quan đó thực hiện hạn chế rõ ràng diện các doanh nghiệp nhất định được hưởng trợ cấp , thì các trợ cấp đó sẽ mang tính riêng biệt. (b) Khi cơ quan có thẩm quyền cấp trợ cấp hay luật mà cơ quan đó thực hiện đặt ra các tiêu chuẩn khách quan hoặc điều kiện[2] được trợ cấp hay giá trị khoản trợ cấp, thì không được coi là có tính riêng biệt nếu khả năng nhận trợ cấp được mặc nhiên áp dụng và các tiêu chuẩn, điều kiện đó được tuân thủ chặt chẽ. Các tiêu chuẩn hoặc điều kiện đó phải được thể hiện một cách rõ ràng trong luật, quy định hoặc tài liệu chính thức khác, để có thể nhận biết được. (c) Cho dù bề ngoài không mang tính riêng biệt do kết qủa của việc áp dụng các nguyên tắc nêu tại điểm (a) và (b), nhưng nếu có lý do để tin rằng, trợ cấp đó trên thực tế mang tính riêng biệt, thì có thể xem xét đến các yếu tố khác. Các yếu tố đó là: chỉ một số lượng có hạn các doanh nghiệp được hưởng trợ cấp trợ cấp nhiều hơn cho một số doanh nghiệp nhất định, cấp số tiền trợ cấp chênh lệch lớn cho một số doanh nghiệp nhất định và việc này được cơ quan có thẩm quyền thực hiện một cách tuỳ tiện khi quyết định trợ cấp[3]. Khi áp dụng điểm này, cần tính đến mức độ của việc đa dạng hoá các hoạt động kinh tế trong phạm vi quyền hạn của cơ quan có thẩm quyền cấp trợ cấp, cũng như cần tính tới khoảng thời gian hoạt động của chương trình trợ cấp. 2.2. Trợ cấp áp dụng hạn chế đối với các doanh nghiệp nhất định hoạt động tại một vùng địa lý xác định thuộc quyền hạn của cơ quan có thẩm quyền cấp trợ cấp phải được coi là mang tính riêng biệt. Việc chính quyền ở tất cả các cấp quy định hay thay đổi thuế suất áp dụng chung không được coi là trợ cấp riêng biệt theo Hiệp định này. 2.3. Bất kỳ trợ cấp nào thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 3 sẽ được coi là trợ cấp riêng. 2.4.Việc xác định tính riêng biệt của trợ cấp theo các quy định của Điều này phải được chứng minh rõ ràng trên cơ sở bằng chứng thực tế. PHẦN II: TRỢ CẤP BỊ CẤM Điều 3 Những quy định cấm 3.1. Trừ khi có quy định khác tại Hiệp định nông nghiệp, các khoản trợ cấp sau đây theo định nghĩa tại Điều 1 sẽ bị cấm: (a) quy định khối lượng trợ cấp, theo luật hay trong thực tế[4], dù là một điều kiện riêng biệt hay kèm theo những điều kiện khác, căn cứ vào kết quả thực hiện xuất khẩu, kể cả những khoản trợ cấp minh hoạ tại Phụ lục I[5]; (b) quy định khối lượng trợ cấp, dù là một điều kiện riêng biệt hay kèm theo những điều kiện khác, ưu tiên sử dụng hàng nội địa hơn hàng ngoại. 3.2. Mỗi Thành viên sẽ không cấp hay duy trì những khoản trợ cấp nêu tại khoản 1 Điều 4 Các chế tài 4.1. Mỗi khi một Thành viên có lý do để tin rằng một khoản trợ cấp bị cấm đang được một Thành viên khác áp dụng hay duy trì, thì Thành viên đó có thể yêu cầu được tham vấn với Thành viên kia. 4.2. Yêu cầu tham vấn nêu tại khoản 1 phải kèm theo một bản trình bày chứng cứ hiện có về sự tồn tại và tính chất của trợ cấp nói trên. 4.3. Khi có yêu cầu tham vấn theo quy định tại khoản 1, Thành viên bị coi là đang áp dụng hay duy trì trợ cấp bị cấm sẽ tiến hành tham vấn trong thời gian sớm nhất có thể được. Mục tiêu tham vấn là nhằm làm rõ sự thật tình và đi đến một thoả thuận chung giữa các bên. 4.4. Nếu trong vòng 30 ngày[6] kể từ ngày có yêu cầu tham vấn mà không đạt được một giải pháp được các bên chấp nhận, thì bất kỳ Thành viên nào tham gia tham vấn cũng có thể đưa vấn đề ra Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB "DSB") để ngay lập tức thành lập một ban hội thẩm , trừ khi DSB nhất trí quyết định không thành lập ban hội thẩm để giải quyết vấn đề đó. 4.5. Ngay khi được thành lập, ban hội thẩm có thể yêu cầu sự trợ giúp của Nhóm Chuyên gia thường trực[7] ( theo Hiệp định gọi tắt là "PGE") để đánh giá xem biện pháp đang được nêu ra có phải là trợ cấp bị cấm không. Nếu được yêu cầu, PGE sẽ tiến hành xem xét ngay các chứng cứ về sự tồn tại và tính chất của biện pháp được nêu ra và sẽ tạo cơ hội để Thành viên đang áp dụng hay duy trì biện pháp đó chứng minh rằng biện pháp đó không phải là trợ cấp bị cấm. Trong thời hạn do ban hội thẩm quy định, PGE sẽ báo cáo kết luận lên ban hội thẩm. Kết luận của PGE về việc biện pháp được nêu ra có phải là trợ cấp cấm hay không sẽ được ban hội thẩm chấp nhận mà không được phép sửa đổi 4.6. Ban hội thẩm sẽ nộp báo cáo cuối cùng cho các bên tranh chấp. Báo cáo sẽ được gửi cho các Thành viên trong vòng 90 ngày, kể từ ngày ban hội thẩm được thành lập và các điều khoản tham chiếu được chấp nhận 4.7. Nếu biện pháp nêu ra được xác định là trợ cấp bị cấm, ban hội thẩm sẽ khuyến nghị Thành viên đang duy trì trợ cấp bỏ ngay trợ cấp đó. Ban hội thẩm sẽ nêu rõ trong khuyến nghị thời hạn để bỏ biện pháp đó. 4.8. Trong vòng 30 ngày kể từ khi ban hội thẩm gửi báo cáo cho tất cả các Thành viên, DSB sẽ thông qua báo cáo, trừ khi một bên tranh chấp thông báo chính thức với DSB về quyết định kháng cáo của mình hoặc DSB nhất trí quyết định không thông qua bản báo cáo đó. 4.9. Khi báo cáo của ban hội thẩm bị kháng cáo, Cơ quan Phúc thẩm sẽ có quyết định trong vòng 30 ngày kể từ khi bên tranh chấp chính thức thông báo ý định kháng cáo. Khi Cơ quan Phúc thẩm thấy rằng không thể có được báo cáo trong vòng 30 ngày, Cơ quan đó sẽ thông báo bằng văn bản cho DSB về lý do chậm trễ cùng với thời gian dự kiến sẽ nộp báo cáo. Trong mọi trường hơp, thời hạn giải quyết kháng cáo không được quá 60 ngày. Báo cáo phúc thẩm sẽ được DSB thông qua và các bên liên quan chấp nhận một cách vô điều kiện trừ khi, trong vòng 20 ngày kể từ ngày gửi báo cáo tới các Thành viên[8], DSB nhất trí quyết định không thông qua báo cáo phúc thẩm. 4.10. Trong trường hợp khuyến nghị của DSB không được thực thi trong thời hạn được ban hội thẩm đề ra, tính từ ngày thông qua báo cáo của ban hội thẩm hoặc báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm, DSB sẽ cho phép Thành viên có khiếu nại áp dụng biện pháp đối kháng phù hợp[9] trừ khi DSB nhất trí quyết định từ chối yêu cầu được áp dụng biện pháp đó. 4.11. Trong trường hợp một bên tranh chấp yêu cầu trọng tài theo khoản 6 Điều 22 của Thoả thuận về giải quyết tranh chấp (DSU), thì trọng tài viên sẽ xác định xem biện pháp đối kháng có thích hợp hay không[10]. 4.12. Để giải quyết các tranh chấp theo Điều này, ngoại trừ những thời hạn được quy định cụ thể tại Điều này, thời hạn quy định để giải quyết các tranh chấp đó sẽ chỉ bằng một nửa thời hạn quy định trong DSU. PHẦN III: TRỢ CẤP CÓ THỂ ĐỐI KHÁNG Điều 5 Tác động nghịch Không một Thành viên nào thông qua việc sử dụng bất kỳ trợ cấp nào nêu tại khoản 1 và 2 của Điều 1 để gây ra tác động có hại đến quyền lợi của Thành viên khác, cụ thể như: (a) gây tổn hại cho một ngành sản xuất của một Thành viên khác[11]; (b) làm vô hiệu hay gây phương hại đến những quyền lợi mà Thành viên khác trực tiếp hoặc gián tiếp được hưởng từ Hiệp định GATT 1994, đặc biệt là những quyền lợi có được từ những nhân nhượng đã cam kết theo Điều 2 của Hiệp định GATT 1994[12]; (c) gây tổn hại nghiêm trọng tới quyền lợi của một Thành viên khác[13]. Điều này không áp dụng với những trợ cấp được áp dụng với nông sản quy định tại Điều 12 Hiệp định nông nghiệp. Điều 6 Tổn hại nghiêm trọng 6.1 Theo điểm (c) của Điều 5, tổn hại nghiêm trọng được coi là tồn tại trong trường hợp: (a) tổng trị giá trợ cấp[14]cho một sản phẩm vượt quá 5%[15]; (b) trợ cấp để bù cho sự thua lỗ kéo dài trong hoạt động kinh doanh của một ngành sản xuất; (c) trợ cấp để bù cho các hoạt động kinh doanh thua lỗ của một doanh nghiệp, trừ khi đó là một biện pháp nhất thời một lần và không lặp lại với doanh nghiệp đó và được cấp chỉ thuần tuý để cho phép có thời gian tìm kiếm một giải pháp lâu dài và tránh phát sinh một vấn đề xã hội gay gắt; (d) trực tiếp xoá nợ như xoá một khoản nợ Nhà nước hay cấp kinh phí để thanh toán nợ[16]. 6.2 Cho dù có các quy định tại khoản 1, sẽ không coi là có tổn hại nghiêm trọng nếu Thành viên áp dụng trợ cấp chứng minh được rằng việc trợ cấp được nêu ra không dẫn đến bất kỳ tác động nào nêu tại khoản 3. 6.3 Tổn hại nghiêm trọng hiểu theo nghĩa của của điểm (c) Điều 5 có thể phát sinh trong bất kỳ trường hợp nào khi: (a) trợ cấp làm triệt thoái hay ngăn cản nhập khẩu các sản phẩm tương tự của một Thành viên khác vào thị trường Thành viên đang áp dụng trợ cấp; (b) trợ cấp đã làm triệt thoái hay ngăn cản xuất khẩu các sản phẩm tương tự của một Thành viên khác từ thị trường của một nước thứ ba; (c) trợ cấp đã làm hạ giá ở mức độ lớn của một sản phẩm được trợ cấp so với giá của sản phẩm tương tự của một Thành viên khác trên cùng một thị trường hay gây ra ép giá, đè giá hay giảm doanh số đáng kể trên cùng một thị trường. (d) trợ cấp đã làm tăng thị phần trên thị trường thế giới của Thành viên đang áp dụng trợ cấp với một sản phẩm hoặc mặt hàng chưa chế biến được trợ cấp[17]so với mức thị phần trung bình của Thành viên đó trong ba năm trước đó hoặc trợ cấp như vậy duy trì một tốc độ tăng đều trong thời kỳ được trợ cấp. 6.4 Theo điểm 3(b), sự triệt thoái hay ngăn cản xuất khẩu bao gồm bất kỳ trường hợp nào đã chứng minh được, tuỳ thuộc quy định của khoản 7, rằng có sự thay đổi tương quan thị phần bất lợi cho một sản phẩm tương tự không được trợ cấp (trong một thời gian đủ mang tính đại diện để chứng minh cho một xu thế tiến triển thị trường của sản phẩm liên quan, mà trong tình huống bình thường cũng phải tối thiểu là một năm). “Sự thay đổi tương đối thị phần” bao gồm bất kỳ một tình huống nào sau đây: (a) có sự tăng thị phần của sản phẩm được trợ cấp; (b) thị phần của sản phẩm được trợ cấp vẫn được giữ vững trong hoàn cảnh mà nếu không có trợ cấp sẽ bị giảm; (c) thị phần của sản phẩm được trợ cấp suy giảm, nhưng với tốc độ chậm hơn so với trường hợp không có trợ cấp. 6.5 Theo điểm 3(c), hạ giá bao gồm những trường hợp, mà trong đó việc hạ giá này được chứng tỏ qua so sánh giá hàng được trợ cấp với giá của sản phẩm tương tự không được trợ cấp cung cấp vào cùng một thị trường. So sánh phải được tiến hành với cùng mức giao thương và với thời gian so sánh được, có tính toán đúng đến bất kỳ nhân tố nào khác tác động đến việc so sánh giữa các loại giá. Tuy nhiên, nếu so sánh trực tiếp không thể thực hiện được, có thể chứng minh có sự hạ giá trên cơ sở đơn giá xuất khẩu. 6.6 Mỗi Thành viên trên thị trường được coi là có sự tổn hại nghiêm trọng sẽ, theo các quy định của khoản 3 - Phụ lục V, sẵn sàng cung cấp cho các bên tranh chấp theo các quy định tại Điều 7 và cho ban hội thẩm được thành lập theo khoản 4 Điều 7, mọi thông tin liên quan có thể có về sự thay đổi thị phần của các bên tranh chấp cũng như những thông tin về giá sản phẩm liên quan tới tranh chấp. 6.7 Không được coi là có sự triệt thoái hay ngăn cản dẫn tới tổn hại nghiêm trọng nêu tại khoản 3, khi có bất kỳ trường hợp nào dưới đây tồn tại[18] trong thời kỳ được xem xét: (a) cấm hay hạn chế xuất khẩu một sản phẩm tương tự từ Thành viên có khiếu nại hay nhập khẩu từ Thành viên có khiếu nại vào một thị trường một nước thứ ba có liên quan; (b) chính phủ một nước nhập khẩu áp dụng độc quyền thương mại hay thương mại nhà nước đối với sản phẩm liên quan quyết định chuyển việc nhập khẩu, vì những lý do phi thuơng mại, từ nước có khiếu nại sang nhập khẩu từ một hay nhiều nước khác; (c) có thiên tai, đình công, đình trệ giao thông hay những hoàn cảnh bất khả kháng khác tác động đáng kể đến sản xuất, chất lượng hay giá cả của sản phẩm dành cho xuất khẩu từ Thành viên có khiếu nại; (d)có sự thoả thuận hạn chế xuất khẩu từ Thành viên có khiếu nại; (e) tự nguyện giảm khối lượng hàng xuất khẩu liên quan của nước có khiếu nại (bao gồm , nhưng không giới hạn bởi, trường hợp các hãng thuộc Thành viên có khiếu nại chủ động phân bố lại việc xuất khẩu sản phẩm đó vào các thị trường khác); (f) không tuân theo các tiêu chuẩn hay yêu cầu quy định của nước nhập khẩu. 6.8 Khi không có những tình huống nêu tại khoản 7, tổn hại nghiêm trọng có thể được xác định trên cơ sở các thông tin mà ban hội thẩm được cung cấp hay có được, kể cả những thông tin được cung cấp theo các quy định của Phụ lục V. 6.9 Điều này không áp dụng đối với trợ cấp được duy trì với nông phẩm theo quy định tại Điều 13 Hiệp định nông nghiệp. Điều 7 Các chế tài 7.1.Trừ những trường hợp quy định tại Điều 13 Hiệp định nông nghiệp, bất kỳ khi nào một Thành viên có lý do để tin rằng một khoản trợ cấp nêu tại Điều 1 được một Thành viên khác áp dụng hay duy trì, dẫn đến thiệt hại, làm vô hiệu hoá, suy giảm hoặc gây tổn hại nghiêm trọng cho một ngành sản xuất của mình, Thành viên này có thể yêu cầu tham vấn với Thành viên kia. 7. 2 Yêu cầu tham vấn nêu tại khoản 1 phải nêu rõ bằng chứng hiện có về (a) sự tồn tại và tính chất của một khoản trợ cấp đã nêu, và (b) thiệt hại gây ra cho ngành sản xuất trong nước, hay sự vô hiệu hoá, suy giảm hoặc tổn hại nghiêm trọng[19]gây ra với quyền lợi của Thành viên yêu cầu tham vấn. 7. 3 Khi có yêu cầu tham vấn theo khoản 1, Thành viên được coi là đang áp dụng hay duy trì trợ cấp sẽ tiến hành tham vấn trong thời gian sớm nhất có thể . Mục đích của tham vấn là nhằm làm rõ thực tế tình hình và đạt được một giải pháp giữa các bên. 7.4 Nếu việc tham vấn không đạt được giải pháp giữa các bên trong vòng 60 ngày[20],bất kỳ Thành viên tham vấn nào cũng có thể đưa vấn đề ra DSB và yêu cầu lập ban hội thẩm giải quyết trừ khi DSB nhất trí quyết định không thành lập ban hội thẩm. Thành phần và nhiệm vụ của ban hội thẩm sẽ được xác định trong vòng 15 ngày kể từ ngày ban được thành lập. 7.5 Ban hội thẩm sẽ xem xét lại vấn đề và có báo cáo gửi các bên tranh chấp. Báo cáo sẽ được gửi tới mọi Thành viên trong vòng 120 ngày kể từ ngày ban hội thẩm được thành lập và điều khoản tham chiếu của ban được xác định. 7.6 Trong vòng 30 ngày kể từ ngày ban hội thẩm có báo cáo gửi các Thành viên, báo cáo sẽ được DSB thông qua[21] trừ khi có một trong các bên đang tranh chấp chính thức thông báo cho DSB về quyết định của mình sẽ kháng cáo hoặc DSB nhất trí không thông qua báo cáo. 7.7 Khi một bản báo cáo của ban hội thẩm bị kháng cáo, Cơ quan Phúc thẩm sẽ ra quyết định trong vòng 60 ngày kể từ ngày bên kháng cáo chính thức thông báo ý định kháng cáo. Khi không có điều kiện quyết định trong vòng 60 ngày, Cơ quan Phúc thẩm sẽ thông báo bằng văn bản cho DSB lý do chậm trễ cùng với thời hạn dự kiến sẽ gửi báo cáo. Trong mọi trường hợp, thủ tục giải quyết kháng cáo cũng không quá 90 ngày. Báo cáo phúc thẩm sẽ được DSB thông qua vô điều kiện và được các bên tranh chấp chấp nhận trừ khi DSB nhất trí không thông qua báo cáo đó trong vòng 20 ngày kể từ ngày gửi báo cáo tới các Thành viên[22]. 7.8 Khi báo cáo của Ban hội thẩm hay báo cáo của Cơ quan phúc thẩm được thông qua xác định có tồn tại bất kỳ trợ cấp nào dẫn tới những tác động có hại tới quyền lợi của một Thành viên khác theo nội dung của Điều 5, thì Thành viên cấp hay duy trì trợ cấp sẽ có những biện pháp thích hợp để loại bỏ tác động có hại đó hoặc loại bỏ trợ cấp. 7.9 Trong trường hợp một Thành viên không thực hiện những biện pháp thích hợp để loại bỏ tác động nghịch đó hoặc loại bỏ trợ cấp trong vòng 6 tháng kể từ ngày DSB thông qua báo cáo hội thẩm hay báo cáo phúc thẩm, và khi không có thoả thuận về đền bù, thì DSB cho phép bên khiếu nại có biện pháp đối kháng, tương xứng với mức độ và tính chất của tác động có hại đã xác định được, trừ khi nhất trí quyết định từ chối yêu cầu đó. 7.10 Trong trường hợp một bên tranh chấp yêu cầu trọng tài theo quy định tại khoản 6 Điều 22 của DSU, trọng tài sẽ xác định xem biện pháp đối kháng có tương xứng với mức độ và tính chất của tác động nghịch đã được xác định là có tồn tại không. PHẦN IV: NHỮNG TRỢ CẤP KHÔNG THỂ ĐỐI KHÁNG Điều 8 Xác định những trợ cấp không thể đối kháng 8.1 Những trợ cấp dưới đây được coi là không thể đối kháng[23]: (a) trợ cấp không mang tính chất riêng biệt nêu tại Điều 2; (b) trợ cấp mang tính chất riêng biệt như nêu tại Điều 2 nhưng đáp ứng mọi điều kiện nêu tại các điểm 2(a), 2(b) hoặc 2(c) dưới đây. 8.2 Cho dù có các quy định tại Phần III và V, những trợ cấp dưới đây là những trợ cấp không thể đối kháng: (a) hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu do các hãng hay các cơ sở đào tạo cao học hoặc cơ sở nghiên cứu thông qua ký hợp đồng với các hãng thực hiện. Nếu[24],[25],[26]: - sự hỗ trợ không chiếm[27] quá 75% chi phí cho nghiên cứu công nghiệp[28] hoặc 50% chi phí cho phát triển sản phẩm tiền cạnh tranh[29],[30]. và với điều kiện là sự trợ giúp như vậy được hạn chế hoàn toàn trong: (i) chi phí nhân sự (các nhà nghiên cứu, kỹ thuật viên và cán bộ hỗ trợ chi sử dụng cho hoạt động nghiên cứu); (ii) chi phí công cụ, thiết bị, đất đai và nhà cửa hoàn toàn và thường xuyên (trừ khi được sử dụng vào mục đích thương mại) sử dụng cho hoạt động nghiên cứu; (iii) chi phí tư vấn và các dịch vụ tương đương chỉ sử dụng hoàn toàn cho hoạt động nghiên cứu, kể cả thanh toán cho nghiên cứu thuê bên ngoài, hiểu biết kỹ thuật, bản quyền, v. v. ; (iv) chi phí bổ sung phụ trội phát sinh trực tiếp là hoạt động nghiên cứu; (v) các chi phí điều hành khác (như là vật liệu, vật tư được cung cấp và các thứ tương tự) phát sinh trực tiếp từ hoạt động nghiên cứu; (b) trợ giúp cho các vùng khó khăn trên lãnh thổ của một Thành viên theo chương trình chung phát triển vùng[31] và không mang tính chất riêng biệt (hiểu theo nghĩa của Điều 2) trong phạm vi vùng đủ điều kiện được hưởng trợ cấp với điều kiện là: (i) mỗi vùng khó khăn phải được xác định ranh giới một cách rõ ràng về địa lý với đặc điểm kinh tế và hành chính có thể làm rõ được; (ii) vùng đó được coi là một vùng khó khăn trên cơ sở những tiêu chí vô tư và khách quan[32], nêu rõ ràng những khó khăn của vùng đó phát sinh từ những nhân tố không chỉ mang tính chất nhất thời; các tiêu thức đó phải được nêu rõ trong luật, quy định hay những văn bản chính thức khác để có thể cho phép kiểm tra; (iii) các tiêu trí đó bao gồm việc xác định mức độ phát triển kinh tế dựa vào ít nhất một trong những yếu tố sau: - một trong các chỉ tiêu thu nhập tính theo đầu người hoặc thu nhập hộ gia đình theo đầu người hoặc tổng sản phẩm quốc gia (GDP) tính theo đầu người và chỉ tiêu đó không được vượt quá 85% thu nhập trung bình của vùng lãnh thổ liên quan; - chỉ số thất nghiệp, phải là mức thất nghiệp không dưới 110% mức thất nghiệp trung bình của vùng lãnh thổ liên quan; và được tính toán trong thời kỳ 3 năm; tuy nhiên cách tính đó có thể là một yếu tố phức hợp hay bao gồm nhiều yếu tố khác. (c) hỗ trợ nhằm xúc tiến nâng cấp những phương tiện hạ tầng hiện có[33]cho phù hợp với yêu cầu mới về môi trường do luật pháp, hay các quy định đặt ra, làm cho các hãng phải chịu khó khăn hoặc gánh nặng tài chính lớn hơn, với điều kiện sự hỗ trợ đó: (i) là một biện pháp nhất thời không kéo dài; và (ii) giới hạn không quá 20% chi phí nâng cấp; và (iii) không bao gồm chi phí thay thế và vận hành khoản đầu tư đã hỗ trợ, những chi phí này phải hoàn toàn do các hãng tự chịu; và (iv) phải có liên hệ trực tiếp tới hay tương ứng với các chương trình giảm tiếng ồn và ô nhiễm của doanh nghiệp, và không bao gồm bất kỳ khoản tiết kiệm chi phí sản xuất nào có thể đạt được; và (v) được cấp cho mọi doanh nghiệp có thể ứng dụng thiết bị mới hay quy trình sản xuất mới. 8.3.Việc thực hiện Chương trình trợ cấp quy định tại khoản 2 phải được thông báo trước cho ủy ban theo các quy định tại Phần VII. Mọi thông báo như vậy phải đủ mức rõ ràng để các Thành viên khác có thể đánh giá được tính phù hợp của chương trình với các điều kiện và tiêu trí quy định tại khoản 2. Các Thành viên hàng năm cũng sẽ thông báo cho ủy ban những cập nhật mới nhất của các thông báo trên, và những điều chỉnh trong các chương trình đó, cụ thể là cung cấp thông tin về tổng số chi phí toàn cầu cho mỗi chương trình đó. Các Thành viên khác có quyền yêu cầu thông tin về những trường hợp cụ thể được trợ cấp theo những chương trình đã thông báo[34]. 8.4. Khi một Thành viên có yêu cầu, Ban Thư ký sẽ xem xét lại thông báo được thực hiện theo khoản 3, và khi cần thiết có thể yêu cầu Thành viên đang áp dụng trợ cấp cung cấp thêm thông tin về các chương trình đã thông báo đang được rà soát. Ban Thư ký sẽ báo cáo kết luận của mình cho ủy ban. Khi có yêu cầu, ủy ban sẽ nhanh chóng rà soát kết luận của Ban Thư ký (hoặc nếu trước đó không có yêu cầu Ban Thư ký rà soát, thì xem xét chính bản thông báo), nhằm xác định xem các điều kiện và tiêu chí nêu tại khoản 2 có được đáp ứng không. Thủ tục quy định tại khoản này phải hoàn thành chậm nhất vào phiên họp thường lệ đầu tiên của ủy ban tiếp theo ngày tiếp nhận thông báo về chương trình trợ cấp, với điều kiện thông báo được tiếp nhận không dưới hai tháng trước phiên họp thường kỳ của ủy ban. Khi có yêu cầu, thủ tục rà soát nêu tại khoản này cũng được áp dụng đối với những điều chỉnh đáng kể của chương trình đã được thông báo cập nhật hàng năm nêu tại khoản 3. 8.5. Khi một Thành viên có yêu cầu, sự xác định của Uỷ ban nêu tại khoản 4, hoặc khi ủy ban không xác định được, cũng như sự vi phạm các điều kiện đã được nêu trong thông báo với mỗi trường hợp riêng biệt sẽ được đưa ra trọng tài giải quyết và quyết định của trọng tài là ràng buộc. Trừ khi có quy định khác tại khoản này, thì DSU sẽ được áp dụng đối với thủ tục trọng tài được tiến hành theo khoản này. Điều 9 Tham vấn và các chế tài được phép 9.1.Trong quá trình thực hiện chương trình nêu tại khoản 2 Điều 8, cho dù chương trình đã phù hợp với các tiêu chí quy định tại khoản đó, nhưng nếu một Thành viên có lý do để tin rằng chương trình này đã dẫn tới những những tác hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước của Thành viên đó, tới mức có thể gây thiệt hại khó có thể khắc phục được, thì Thành viên đó có thể yêu cầu tham vấn với Thành viên đang áp dụng hoặc duy trì trợ cấp. 9.2. Khi có yêu cầu tham vấn nêu tại khoản 1, Thành viên đang áp dụng hay duy trì chương trình trợ cấp được nêu ra sẽ tiến hành tham vấn trong thời gian sớm nhất có thể. Mục đích của việc tham vấn là nhằm làm rõ sự việc và để đạt tới một giải pháp có thể được các bên chấp nhận. 9.3. Nếu không đạt được giải pháp có thể chấp nhận trong vòng 60 ngày kể từ ngày yêu cầu tham vấn theo quy định tại khoản 2 thì thành viên yêu cầu tham vấn có thể đưa vấn đề ra trước ủy ban để giải quyết . 9.4.Khi một vấn đề được đưa ra trước ủy ban, ủy ban sẽ lập tức xem xét sự việc liên quan và các bằng chứng về tác động nêu tại khoản 1. Nếu xác định có tác động như vậy, thì ủy ban có thể khuyến nghị với Thành viên đang áp dụng trợ cấp điều chỉnh chương trình trợ cấp sao cho triệt tiêu được tác động đó. ủy ban phải có kết luận trong vòng 120 ngày kể từ ngày vấn đề được đưa ra trước ủy ban như quy định tại khoản 3. Trong trường hợp các khuyến nghị nói trên không được tuân thủ trong vòng 6 tháng, ủy ban sẽ cho phép Thành viên yêu cầu được áp dụng những biện pháp đối kháng tương xứng với tính chất và mức độ của tác động đã được xác định. PHầN V: CÁC BIệN PHÁP ĐốI KHÁNG Điều 10 Áp dụng Điều VI GATT 1994[35] Các Thành viên sẽ thực hiện những biện pháp cần thiết để bảo đảm rằng việc đánh thuế đối kháng[36] với bất kỳ sản phẩm nào của bất kỳ Thành viên nào nhập khẩu vào lãnh thổ của một Thành viên khác phù hợp với các quy định của Điều VI Hiệp định GATT 1994 và phù hợp với các các quy định của Hiệp định này. Các loại thuế đối kháng chỉ được áp dụng căn cứ trên cơ sở điều tra đã được khởi tố và thực hiện[37] phù hợp với các quy định của Hiệp định này và Hiệp định về nông nghiệp. Điều 11 Khởi tố và tiến hành điều tra 11.1Trừ trường hợp quy định tại khoản 6, việc điều tra để xác định sự tồn tại, mức độ và tác động của việc được coi là trợ cấp sẽ được khởi xướng trên cơ sở đề nghị bằng văn bản của hoặc thay mặt cho một ngành sản xuất trong nước. 11. 2 Đề nghị nêu tại khoản 1 phải bao gồm những bằng chứng về sự tồn tại của: (a) khoản trợ cấp và nếu có thể nêu rõ cả giá trị trợ cấp, (b) thiệt hại theo nghĩa của Điều VI Hiệp định GATT 1994 được giải thích theo Hiệp định này, và (c) mối quan hệ nhân quả giữa nhập khẩu được trợ cấp với thiệt hại được cho là đã xảy ra. Một sự khẳng định giản đơn, không thuộc về bản chất thì không thể được coi là đủ để đáp ứng các yêu cầu của khoản này. Đơn yêu cầu sẽ phải bao gồm những thông tin mà người yêu cầu có được một cách hợp lý về những nội dung sau đây: (i) Căn cứ của người yêu cầu và mô tả về khối lượng và trị giá của sản xuất trong nước về sản phẩm tương tự của người yêu cầu . Khi đơn yêu cầu được nộp nhân danh một ngành sản xuất trong nước, thì đơn yêu cầu đó sẽ xác định ngành sản xuất trong nước bằng một danh sách những nhà sản xuất trong nước sản xuất sản phẩm tương tự (hoặc hiệp hội những nhà sản xuất trong nước về sản phẩm tương tự) và trong chừng mực có thể, mô tả khối lượng và trị giá sản xuất trong nước của sản phẩm tương tự mà những nhà sản xuất này sản xuất ra (ii) mô tả đầy đủ về sản phẩm bị coi là được trợ cấp, tên nước hay những nước xuất xứ hoặc xuất khẩu sản phẩm đó, căn cứ của mỗi nhà xuất khẩu hay nhà sản xuất nước ngoài đã biết và một danh sách những người nhập khẩu sản phẩm đó đã biết. (iii) bằng chứng về sự tồn tại, số lượng và tính chất của trợ cấp. (iv) bằng chứng về thiệt hại được coi là đã xảy ra đối với ngành sản xuất trong nước do sản phẩm nhập khẩu được trợ cấp gây ra do tác động của trợ cấp; bằng chứng đó phải có những thông tin về sự thay đổi trong khối lượng nhập khẩu hàng có trợ cấp, tác động của nhập khẩu đó với giá cả những sản phẩm tương tự trên thị trường trong nước và những tác động của hàng nhập khẩu đó đối với ngành sản xuất trong nước, được chứng minh bằng những yếu tố cùng chỉ số có liên quan thể hiện tình trạng của ngành sản xuất trong nước, như các vấn đề nêu tại các khoản 2 và 4 Điều 15. 11.3 Cơ quan có thẩm quyền phải kiểm tra lại tính đúng đắn và đầy đủ của bằng chứng được cung cấp trong đơn để xác định xem bằng chứng đó có đủ để bắt đầu điều tra không. 11.4 Việc điều tra theo quy định tại khoản 1 sẽ không được bắt đầu trừ khicơ quan có thẩm quyền, trên cơ sở xem xét mức độ đồng tình hay phản đối của những nhà sản xuất trong nước những sản phẩm tương tự với yêu cầu đã xác định rằng đơn yêu cầu đã được nộp bởi[38] hoặc nhân danh ngành sản xuất trong nước[39]. Đơn yêu cầu được coi là được nộp bởi hoặc nhân danh một ngành sản xuất trong nước nếu được những nhà sản xuất có chung khối lượng sản xuất chiếm trên 50% của tổng lượng sản xuất sản phẩm tương tự của những nhà sản xuất thể hiện sự ủng hộ hay phản đối đơn yêu cầu. Tuy nhiên, việc điều tra sẽ không được tiến hành nếu tiếng nói của các nhà sản xuất trong nước ủng hộ đơn đó không vượt quá 25% tổng khối lượng của ngành sản xuất sản phẩm tương tự trong nước. 1.5Cơ quan có thẩm quyền sẽ tránh không công bố đơn yêu cầu bắt đầu điều tra, trừ khi đã có quyết định bắt đầu điều tra. 11. 6 Trong trường hợp đặc biệt, khi cơ quan có thẩm quyền quyết định điều tra mà không nhận được đơn của và nhân danh một ngành sản xuất trong nước yêu cầu tiến hành điều tra, thì Cơ quan có thẩm quyền chỉ bắt đầu điều tra nếu đã có đủ bằng chứng về một trợ cấp, thiệt hại và mối quan hệ nhân quả như đã nêu tại khoản 2 để chứng minh rằng việc bắt đầu tiến hành điều tra này là cần thiết. 11. 7 Bằng chứng của cả việc trợ cấp lẫn thiệt hại sẽ được xem xét cùng một lúc: (a) khi ra quyết định có bắt đầu điều tra không và (b) sau đó trong tiến trình điều tra, bắt đầu vào một ngày không chậm hơn ngày sớm nhất mà một biện pháp tạm thời có thể được áp dụng theo quy định của Hiệp định này. 11.8 Trong trường hợp sản phẩm không được nhập khẩu trực tiếp từ nước xuất xứ mà được xuất khẩu vào Thành viên nhập khẩu thông qua một nước trung gian, các quy định của Hiệp định này vẫn được áp dụng đầy đủ, và (những) giao dịch đó vẫn được coi là được tiến hành trực tiếp giữa nước xuất xứ và Thành viên nhập khẩu theo Hiệp định này. 11.9.Đơn yêu cầu nêu tại khoản 1 bị từ chối và việc điều tra bị chấm dứt ngay lập tức khi cơ quan có thẩm quyền có liên quan thấy không đủ bằng chứng về việc tồn tại một trợ cấp hay tổn hại để tiến hành điều tra. Trong trường hợp trợ cấp chỉ ở mức tối thiểu (de minimis) hoặc khối lượng nhập khẩu được trợ cấp hiêệ tại hoặc trong tương lai, hoặc thiệt hại là không đáng kể, thì việc điều tra sẽ được chấm dứt ngay lập tức. Theo khoản này, khối lượng trợ cấp được coi là ở mức tối thiểu nếu thấp hơn 1% ị giá trị của sản phẩm. 11. 10. Việc điều tra không được làm ảnh hưởng đến thủ tục thông quan. 11. 11 Trừ trường hợp đặc biệt, thủ tục điều tra phải được kết thúc trong thời hạn một năm, và trong mọi trường hợp không quá 18 tháng, kể từ ngày bắt đầu. Điều 12 Bằng chứng 12.1Những Thành viên quan tâm và tất cả các bên quan tâm đến việc điều tra thuế đối kháng được thông báo về những thông tin mà các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu và được tạo mọi cơ hội để cung cấp mọi bằng chứng bằng văn bản mà họ cho là có liên quan đến cuộc điều tra. 12.1.1Nhà xuất khẩu, nhà sản xuất nước ngoài và các Thành viên quan tâm nhận được phiếu hỏi được sử dụng trong điều tra về thuế đối kháng sẽ có ít nhất 30 ngày để trả lời[40]. Bất kỳ yêu cầu gia hạn trả lời thêm 30 ngày nữasẽ được chú trọng đúng mức, và, khi có lý do chính đáng Cơ quan có thẩm quyền sẽ được chấp nhận vào bất cứ khi nào có thể thực hiện được. 12.1.2Tùy thuộc vào yêu cầu bảo vệ các thông tin không phổ biến, những bằng chứng được một Thành viên quan tâm hoặc một bên có quan tâm gửi tới bằng văn bản sẽ được sẵn sàng cung cấp nhanh chóng cho các Thành viên quan tâm hay các bên hữu quan tham gia vào cuộc điều tra. 12.1.3 Ngay khi mở cuộc điều tra, các cơ quan có thẩm quyền sẽ cung cấp bản đầy đủ đơn yêu cầu điều tra quy định tại khoản 1 Điều 11 tới các nhà xuất khẩu đã biết[41] và tới các cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu liên quan và khi có yêu cầu, sẽ cung cấp cho các bên quan tâm liên quan. Các bên cần chú trọng thích đáng việc giữ gìn thông tin không phổ biến quy định tại khoản 4. 12. 2 Các Thành viên và các bên quan tâm, khi giải trình được, cũng có quyền cung cấp những thông tin miệng. Sau khi cung cấp những thông tin miệng đó, các Thành viên và các bên quan tâm phải nộp thông tin đó bằng văn bản. Quyết định của các cơ quan có thẩm quyền điều tra chỉ được dựa vào những thông tin và lập luận ghi trong hồ sơ của mình và đã sẵn sàng cung cấp cho các Thành viên và các bên quan tâm tham gia điều tra, có tính đến một cách đầy đủ yêu cầu bảo vệ thông tin không phổ biến. 12. 3 Khi có điều kiện, các cơ quan có thẩm quyền sẽ tạo cơ hội đúng lúc cho các Thành viên và các bên có quan tâm được biết mọi thông tin liên quan tới phần trình bầy của mình, nếu không phải là những thông tin không phổ biến quy định tại khoản 4, và là những thông tin được các cơ quan có thẩm quyền sử dụng trong điều tra về thuế đối kháng, và để chuẩn bị trình bày trên cơ sở thông tin đó. 12.4 Mọi thông tin mang tính chất bí mật (ví dụ nếu bị tiết lộ sẽ tạo thêm lợi thế cạnh tranh đáng kể cho một đối thủ cạnh tranh hoặc gây ra tác hại cho cá nhân đã cung cấp thông tin đó hay cho một người là nguồn để nhà cung cấp có được thông tin đó), hoặc thông tin được các bên trong cuộc điều tra cung cấp trên cơ sở tin bí mật, và có lý do chính đáng để cơ quan có thẩm quyền coi là thông tin bí mật. Các thông tin đó không được tiết lộ nếu không có sự cho phép cụ thể của bên cung cấp[42]. 12.4.1Cơ quan có thẩm quyền sẽ yêu cầu các Thành viên và các bên quan tâm cung cấp bản tóm tắt không mang tính chất bí mật về các thông tin bí mật đó. Bản cung cấp sẽ mô tả chi tiết đến mức cần thiết để cho phép hiểu một cách đúng mức về nội dung thông tin đã cung cấp được baỏ mật. Trong trường hợp ngoại lệ này, các Thành viên hoặc bên nói trên có thể chỉ ra rằng thông tin đó không thể tóm tắt được. Trong trường hợp ngoại lệ đó, bản trình bày về lý do không thể tóm tắt thông tin phải được cung cấp. 12.4.2 Nếu Cơ quan có thẩm quyền thấy rằng yêu cầu cầu giữ bí mật thông tin không được bảo đảm và nếu người cung cấp thông tin không đồng ý cho công bố thông tin hoặc không cho phép tiết lộ dưới hình thức tóm tắt hoặc khái quát thông tin, Cơ quan có thẩm quyền có thể bỏ qua thông tin đó trừ khi có nguồn thích đáng chứng minh thoả đáng rằng thông tin đó là đúng[43]. 12. 5 Trừ trường hợp nêu tại khoản 7, trong quá trình điều tra, cơ quan có thẩm quyền có thể tự mình xác định tính chính xác của thông tin được các Thành viên hay các bên cung cấp mà căn cứ vào đó cơ quan có thẩm quyền đã đưa ra các kết luận của mình. 12. 6 Cơ quan có thẩm quyền đang điều tra có thể tiến hành điều tra trên lãnh thổ của Thành viên khác khi cần thiết, với điều kiện là phải thông báo kịp thời cho Thành viên hữu quan biết và trừ khi Thành viên đó phản đối việc điều tra. Tiếp nữa cơ quan có thẩm quyền có thể tiến hành điều tra tại trụ sở của một công ty và có thể xem xét bản lưu chứng từ của một công ty nếu: (a) được công ty đó đồng ý và (b) Thành viên liên quan được thông báo và không phản đối. Thủ tục nêu tại phụ lục VI áp dụng đối với các cuộc điều tra tại trụ sở một công ty. Theo yêu cầu bảo vệ thông tin không phổ biến, cơ quan có thẩm quyền phải sẵn sàng cung cấp kết quả điều tra, hoặc tiết lộ nội dung về cuộc điều tra, theo quy định tại khoản 8, cho các công ty có liên quan và sẵn sàng cung cấp kết quả đó cho người nộp đơn yêu cầu điều tra. 12. 7Trong trường hợp bất kỳ Thành viên hoặc bên có quan tâm nào từ chối cho phép tiếp cận hoặc không cung cấp những thông tin cần thiết trong thời hạn hợp lý hoặc cản trở đáng kể việc điều tra, thì quyết định ban đầu hay cuối cùng, mang tính khẳng định hay phủ định sẽ được đưa ra trên cơ sở các sự việc thực tế sẵn có. 12. 8 Trước khi ra quyết định cuối cùng, cơ quan có thẩm quyền sẽ thông báo cho mọi Thành viên và bên có quan tâm về những sự việc chủ yếu đã được xem xét và là cơ sở để quyết định việc có áp dụng một biện pháp chính thức. Thông báo đó sẽ dành một thời gian đủ để các bên bảo vệ quyền lợi của họ. 12. 9.Theo Hiệp định này, thuật ngữ "các bên quan tâm" bao gồm: (i) nhà xuất khẩu hay nhà sản xuất nước ngoài hoặc nhà nhập khẩu một sản phẩm là đối tượng của cuộc điều tra, hoặc hiệp hội sản xuất kinh doanh mà đa số các thành viên là những nhà sản xuất hay xuất khẩu hoặc nhập khẩu sản phẩm đó; và (ii) một nhà sản xuất một sản phẩm tương tự tại Thành viên nhập khẩu hoặc hiệp hội sản xuất kinh doanh mà đa số các thành viên sản xuất sản phẩm tương tự trên lãnh thổ của Thành viên nhập khẩu. Danh mục này không ngăn cản các Thành viên cho phép các bên trong nước hay nước ngoài khác với các đối tượng nêu trên được coi là bên quan tâm. 12. 10. Cơ quan có thẩm quyền sẽ tạo cơ hội cho người sử dụng trong ngành sản xuất sản phẩm đang được điều tra, và cho các tổ chức đại diện cho người tiêu dùng trong trường hợp sản phẩm được bán lẻ rộng rãi, được cung cấp thông tin liên quan đến cuộc điều tra về trợ cấp, thiệt hại và mối quan hệ nhân quả. 12. 11. Cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét một cách hợp lý bất kỳ khó khăn nào mà các bên quan tâm gặp phải, nhất là các doanh nghiệp nhỏ, trong việc cung cấp thông tin được yêu cầu, và sẽ dành cho họ sự trợ giúp khi có thể. 12. 12 Thủ tục nêu trên không nhằm ngăn cản cơ quan có thẩm quyền của một Thành viên khẩn trương tiến trình điều tra, ra quyết định ban đầu hay cuối cùng, mang tính chất khẳng định hay phủ định hoặc ngăn cản việc áp dụng những biện pháp tạm thời hay cuối cùng, phù hợp với các quy định của Hiệp định này. Điều 13 Tham vấn 13.1 Ngay sau khi đơn yêu cầu theo quy định của Điều 11 được chấp nhận, và tại bất kỳ thời điểm nào trước khi mở cuộc điều tra, Thành viên có sản phẩm có thể là đối tượng của cuộc điều tra sẽ được mời tham vấn với mục đích làm sáng tỏ tình hình về những vấn đề nêu tại khoản 2 Điều 11và đạt được giải pháp do hai bên thoả thuận. 13.2 Hơn nữa, trong giai đoạn điều tra, Thành viên có sản phẩm có thể là đối tượng của cuộc điều tra đó sẽ được tạo cơ hội hợp lý để tiếp tục tham vấn, nhằm mục đích làm rõ tình hình thực tế và đi đến một giải pháp do hai bên cùng thoả thuận[44]. 13.3 Trên tinh thần không gây ảnh hưởng đến nghĩa vụ tạo cơ hội hợp lý để tham vấn, các quy định về tham vấn này không nhằm ngăn cản các cơ quan có thẩm quyền của một Thành viên khẩn trương tiến trình điều tra, đi đến những quyết định ban đầu hay cuối cùng, mang tính định khẳng định hay phủ định hoặc ngăn cản việc áp dụng những biện pháp tạm thời hay cuối cùng, theo các quy định của Hiệp định này. 13.4Thành viên dự định mở cuộc điều tra hoặc đang tiến hành một cuộc điều tra, khi được yêu cầu, sẽ cho phép (những) Thành viên có sản phẩm là đối tượng bị điều tra được tiếp cận các bằng chứng không không phổ biến, kể cả các bản tóm tắt không phổ biến của các thông số bí mật đang được sử dụng để bắt đầu hoặc tiến hành điều tra. Điều 14 Tính toán tổng số trợ cấp về mặt lợi ích của người nhận Theo Phần V, bất kỳ phương pháp nào được Cơ quan có thẩm quyền đang điều tra sử dụng trong tính toán mức lợi ích mà người nhận trợ cấp được hưởng theo khoản 1 Điều 1 phải được quy định trong luật quốc gia hoặc được nêu trong văn bản hướng dẫn thi hành của Thành viên liên quan và việc vận dụng vào mỗi trường hợp cụ thể phải minh bạch và được giải thích thích đáng. Hơn nữa, phương pháp tính toán phải phù hợp với các hướng dẫn sau đây. (a) việc chính phủ góp vốn cổ phần không được coi là một lợi ích, trừ khi quyết định đầu tư có thể bị coi là không phù hợp với thực tiễn hoạt động đầu tư thông thường (kể cả việc cấp vốn đầu tư có nhiều rủi ro) của các đầu tư tư nhân trên lãnh thổ Thành viên; (b) một khoản vay từ nguốn vốn chính phủ sẽ không được coi là đem lại lợi ích, trừ khi có sự chênh lệch giữa khoản tiền mà công ty được vay trả cho chính phủ với số tiền lẽ ra phải trả cho một khoản vay thương mại tương tự có thể có được khi vay vốn trên thị trường. Trong trường hợp có sự chênh lệch, lợi ích là mức chênh lệch giữa hai khoản phải trả đó; (c) bảo lãnh vay của chính phủ sẽ không được coi là đem lại lợi ích, trừ khi có sự chênh lệch giữa khoản tiền mà công ty được bảo lãnh vay trả cho khoản vay được chính phủ bảo lãnh với số tiền lẽ ra phải trả cho một khoản vay thương mại tương tự trong trường hợp không có sự bảo lãnh của chính phủ; Trong trường hợp này nguồn lợi là khoản chênh lệch giữa hai khoản tiền phải trả, có tính đến sự chênh lệch về lệ phí. (d) việc chính phủ cung cấp hàng hoá hay dịch vụ hoặc mua hàng sẽ không được coi là đem lại lợi ích, trừ khi việc cung cấp đó được thanh toán với một số tiền ít hơn mức thích đáng hoặc thanh toán tiền mua hàng cao hơn mức thích đáng. Thanh toán thích đáng sẽ được xác định trong tương quan với điều kiện thị trường phổ biến đối với hàng hoá hoặc dịch vụ tại nước cung cấp hay tiến hành mua (kể cả giá, chất lượng, tính sẵn có, điều kiện thị trường, vận chuyển hay các điều kiện khác về mua và bán). Điều 15 Xác định thiệt hại[45] 15.1 Việc xác định thiệt hại theo Điều VI Hiệp định GATT 1994 phải dựa trên bằng chứng khẳng định và với nội dung xem xét khách quan đồng thời (a) khối lượng nhập khẩu hàng có trợ cấp và tác động của nhập khẩu được trợ cấp đối với giá cả trên thị trường trong nước của sản phẩm tương tự[46] và (b) tác động tiếp theo của việc nhập khẩu đó với các ngành sản xuất trong nước của các sản phẩm đó. 15.2 Đối với khối lượng nhập khẩu hàng hoá được trợ cấp, cơ quan có thẩm quyền đang điều tra sẽ xét xem có sự tăng trưởng đáng kể nhập khẩu hàng hoá có trợ cấp hay không, hoặc tính theo mức tuyệt đối hay tương đối, khối lượng sản xuất hoặc tiêu thụ tại Thành viên nhập khẩu. Đối với tác động của hàng hoá nhập khẩu được trợ cấp lên giá, cơ quan có thẩm quyền đang điều tra sẽ xét xem có sự giảm giá đáng kể do hàng nhập khẩu được trợ cấp hay không so với giá của sản phẩm tương tự tại Thành viên nhập khẩu, hoặc tác động của việc nhập khẩu đó có ép giá tới mức đáng kể hay ngăn cản giá hàng tăng lên, so với sự thay đổi giá cả bình thường nếu trong trường hợp khác hay không. Cũng không nhất thiết là một hay nhiều nhân tố đã kể trên đây sẽ có vai trò quyết định đối với việc xem xét nói trên. 15.3 Khi hàng nhập khẩu từ hai hay nhiều nước cùng là đối tượng điều tra chịu thuế đối kháng, cơ quan có thẩm quyền đang điều tra có thể đánh giá tác động gộp của nhập khẩu từ các nước đó chỉ khi đã xác định được (a) tổng số trợ cấp được áp dụng liên quan tới nhập khẩu từ từng nước cao hơn mức tối thiểu (de minimis) nêu tại khoản 9 Điều 11và khối lượng nhập khẩu từ từng nước đó không phải là không đáng kể và (b) căn cứ vào những điều kiện cạnh tranh giữa hàng nhập khẩu với nhau và điều kiện cạnh tranh giữa hàng nhập khẩu và hàng trong nước dẫn đến việc đánh giá gộp các tác động của hàng nhập khẩu là thích hợp. 15.4 Việc xem xét tác động của hàng nhập khẩu được trợ cấp đối với ngành sản xuất trong nước sẽ bao gồm cả việc đánh giá mọi yếu tố và chỉ tiêu kinh tế liên quan ảnh hưởng tới tình trạng của ngành, kể cả sự sụt giảm sản lượng, số lượng bán ra, thị phần, lợi nhuận hay năng suất, thu hồi vốn đầu tư hay tỷ lệ khai thác công suất hiện tại hoặc tiềm tàng trong tương lai; những yếu tố ảnh hưởng giá cả trong nước; những tác động tiêu cực đối với luân chuyển vốn, lượng hàng dự trữ, việc làm, tiền lương, sự tăng trưởng, khả năng tăng vốn hay đầu tư, và trong trường hợp liên quan tới nông nghiệp, sẽ đánh giá việc các chương trình hỗ trợ của chính phủ có vì thế mà thêm nặng gánh hay không. Danh sách nêu trên chưa phải là tất cả và cũng không nhất thiết là một hay nhiều nhân tố đã kể trên đây có vai trò quyết định đối với việc xem xét nói trên. 15.5 Phải chỉ ra được rằng hàng nhập khẩu được trợ cấp, chính vì sự trợ cấp[47] đó đã gây thiệt hại nói trong Hiệp định này. Việc chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được trợ cấp và sự tổn hại đối với một ngành sản xuất trong nước sẽ được dựa trên kết quả xem xét mọi bằng chứng liên quan trước cơ quan có thẩm quyền. Cơ quan có thẩm quyền cũng xem xét bất kỳ yếu tố nào đã biết đến ngoài việc nhập khẩu được trợ cấp nhưng cũng gây thiệt hại đến ngành sản xuất trong nước, và những thiệt hại do các yếu tố đó gây ra sẽ không được coi là do việc nhập khẩu được trợ cấp. Những yếu tố có thể liên quan như đề cập ở trên sẽ bao gồm, nhưng không giới hạn bởi, khối lượng và giá cả hàng cùng chủng loại không được trợ cấp, giảm nhu cầu hay thay đổi cơ cấu tiêu thụ, việc hạn chế thương mại và cạnh tranh giữa các nhà sản xuất trong và ngoài nước, sự phát triển của công nghệ và khả năng xuất khẩu và năng suất của ngành sản xuất trong nước. 15.6 Tác động của nhập khẩu được trợ cấp phải được đánh giá trong tương quan với sản lượng sản xuất trong nước một sản phẩm tương tự khi số liệu cho phép xác định sản lượng sản xuất đó trên cơ sở những chỉ tiêu như quy trình sản xuất, tình hình bán ra và lợi nhuận của nhà sản xuất. Nếu việc xác định sản lượng đó không thể thực hiện được, tác động của nhập khẩu được trợ cấp sẽ được đánh giá thông qua việc xem xét sản lượng của một nhóm hoặc chủng loại nhỏ hẹp nhất của sản phẩm, bao gồm cả sản phẩm tương tự mà qua đó có thể có được thông tin cần thiết cho việc đánh giá. 15.7 Việc xác định mối đe doạ gây ra thiệt hại vật chất sẽ được dựa trên sự thật chứ không dựa trên sự suy đoán, quy kết hay khả năng xa xôi. Sự thay đổi hoàn cảnh có thể tạo ra một tình huống theo đó một trợ cấp có thể gây ra thiệt hại phải được nhận thấy trước một cách rõ ràng và sát thực. Khi ra một quyết định về mối đe doạ gây thiệt hại vật chất, cơ quan có thẩm quyền đang điều tra sẽ xem xét, nhưng không giới hạn bởi những yếu tố sau đây: (i) tính chất của trợ cấp và những tác động về mặt thương mại có khả năng xảy ra; (ii) sự gia tăng đáng kể tỷ lệ nhập khẩu hàng được trợ cấp vào thị trường trong nước cho thấy khả năng nhập khẩu tăng mạnh; (iii) khả năng của một nhà xuất khẩu đã sẵn sàng, hay sắp hoặc đã tăng lên đáng kể cho thấy khả năng gia tăng xuất khẩu sản phẩm được trợ cấp đến thị trường Thành viên nhập khẩu, có tính đến sự hiện diện những khả năng của những thị trường xuất khẩu khác trong tiếp nhận năng lực xuất khẩu bổ sung; (iv) việc xem xét liệu nhập khẩu đang xâm thị với mức giá sẽ có khả năng gây tác động ép giá hay loại trừ trên thị trường trong nước, và có khả năng tăng nhu cầu nhập khẩu thêm nữa hay không; và (v) lượng dự trữ của sản phẩm đang được điều tra. Không nhất thiết là một hay nhiều nhân tố đã kể trên đây sẽ có vai trò quyết định, nhưng tổng thể các nhân tố đó sẽ phải dẫn đến kết luận rằng việc tiếp tục trợ cấp rất dễ xảy ra và có thể gây ra tổn hại vật chất, trừ khi một hành động bảo vệ được thực thi. 15.8 Đối với những trường hợp khi mà sự tổn thất bị đe doạ bởi hàng nhập khẩu được trợ cấp, việc áp dụng thuế đối kháng sẽ được xem xét và quyết định. Điều 16 Định nghĩa ngành trong nước 16.1 Trong Hiệp định này, ngoại trừ trường hợp được quy định tại khoản 2, thuật ngữ “ngành sản xuất trong nước” được hiểu là nói đến những nhà sản xuất cùng một sản phẩm tương tự hay những nhà sản xuất có sản lượng chung chiếm đa số trong tổng sản xuất trong nước của những sản phẩm đó, trừ khi nhà sản xuất liên quan[48] tới những nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu hoặc chính họ là nhà nhập khẩu những sản phẩm được coi là hàng nhập khẩu được trợ cấp hay nhà nhập khẩu những sản phẩm tương tự từ một nước khác, và trong trường hợp này, thuật ngữ “ngành sản xuất trong nước” được hiểu là các nhà sản xuất còn lại. 16.2 Trong những hoàn cảnh đặc biệt, lãnh thổ của một Thành viên có thể được phân định thành hai hay nhiều thị trường cạnh tranh và các nhà sản xuất trong phạm vi mỗi thị trường có thể được coi là một ngành sản xuất riêng biệt nếu (a) các nhà sản xuất trong phạm vi thị trường đó bán toàn bộ hay hầu như toàn bộ sản lượng sản phẩm của họ trên thị trường đó, và (b) nhu cầu của thị trường đó không được đáp ứng ở mức độ đáng kể từ nguồn sản xuất ngoài thị trường đó trên cùng lãnh thổ . Trong những trường hợp này, có thể xác định có tổn hại ngay cả khi phần lớn ngành sản xuất trong nước không bị tổn hại, với điều kiện là có sự tập trung nhập khẩu được trợ cấp vào một thị trường riêng biệt như vậy và hơn nữa là nhập khẩu được trợ cấp đó đang gây ra tổn hại cho những nhà sản xuất dại diện cho toàn bộ hay hầu như toàn bộ nền sản xuất trên thị trường đó. 16.3 Khi ngành sản xuất trong nước được hiểu là nói đến những nhà sản xuất trong một địa bàn nào đó, ví dụ như thị trường nói tại khoản 2, thuế đối kháng chỉ đánh vào những những sản phẩm đã nêu và được giao cho tiêu dùng trong địa bàn đó. Khi luật hiến pháp của Thành viên nhập khẩu không cho phép đánh thuế đối kháng dựa trên cơ sở nêu trên, Thành viên nhập khẩu có thể đánh thuế đối kháng không hạn chế chỉ khi (a) nhà xuất khẩu trước đó đã có cơ hội để ngừng xuất khẩu hàng vào địa bàn đó với giá có trợ cấp, hoặc là có sự bảo đảm quy định tại Điều 18 nhưng đã không khẩn trương đưa ra sự đảm bảo đó và (b) thuế đối kháng này không được chỉ đánh vào sản phẩm của những nhà sản xuất cụ thể cung cấp hàng cho khu vực này. 16.4 Khi hai hay nhiều nước, theo quy định tại điểm 8 (a) Điều XXIV Hiệp định GATT 1994, đã đạt tới trình độ hội nhập đến mức có những đặc điểm của một thị trường chung, thống nhất, ngành sản xuất của toàn bộ khu vực đó sẽ được coi là ngành sản xuất trong nước như nêu tại khoản 1 và khoản 2. 16.5 Các quy định của khoản 6 Điều 15 sẽ được áp dụng đối với Điều này. Điều 17 Các biện pháp tạm thời 17.1 Các biện pháp tạm thời chỉ được áp dụng khi: (a) việc điều tra được bắt đầu tiến hành phù hợp với các quy định của Điều 11, đã có thông báo công khai về việc điều tra này và các Thành viên và các bên quan tâm đã được tạo cơ hội thích đáng dể cung cấp thông tin và nhận xét; (b) đã xác định sơ bộ rằng có tồn tại trợ cấp và việc nhập khẩu được trợ cấp đã gây tổn hại cho ngành sản xuất trong nước; và (c) Cơ quan có thẩm quyền liên quan cho rằng các biện pháp đó là cần thiết để ngăn chặn thiệt hại xảy ra trong quá trình điều tra. 17.2 Các biện pháp tạm thời có thể dưới hình thức thuế đối kháng tạm thời được bảo đảm bằng việc đặt cọc tiền tương đương với giá trị trợ cấp được tạm tính. 17.3 Các biện pháp tạm thời không được áp dụng trước quá 60 ngày, kể từ ngày bắt đầu điều tra. 17.4 Các biện pháp tạm thời chỉ được giới hạn trong thời gian ngắn nhất có thể, không vượt quá bốn tháng. 17.5 Các quy định có liên quan tại Điều 19 phải được tuân thủ trong quá trình áp dụng các biện pháp tạm thời. Điều 18 Cam kết 18.1 Quá trình điều tra[49] có thể bị đình chỉ hay chấm dứt mà không áp dụng các biện pháp tạm thời hay thuế đối kháng ngay khi nhận được cam kết tự nguyện với nội dung: (a) chính phủ của Thành viên xuất khẩu chấp nhận xoá bỏ hay hạn chế trợ cấp hoặc có những biện pháp khác có cùng kết quả; hoặc (b) nhà xuất khẩu đồng ý xem xét lại giá sao cho Cơ quan có thẩm quyền đang điều tra thấy rằng biện pháp trợ cấp không còn gây ra thiệt hại. Việc tăng giá theo các cam kết này không cần cao quá mức cần thiết để triệt tiêu khối lượng trợ cấp. Có thể chấp nhận mức tăng giá thấp hơn khối lượng trợ cấp nếu thấy đã thích đáng để khắc phục thiệt hại gây ra cho ngành sản xuất trong nước. 18.2. Không được yêu cầu cam kết hay chấp nhận cam kết trừ khi cơ quan có thẩm quyền của Thành viên đang nhập khẩu đã có sự xác định ban đầu là có trợ cấp và có thiệt hại do trợ cấp gây ra và trong trường hợp cam kết do nhà xuất khẩu thực hiện, đã được Thành viên đang xuất khẩu thoả thuận. 18.3 Các cam kết không cần thiết phải được chấp nhận nếu cơ quan có thẩm quyền của Thành viên nhập khẩu thấy việc chấp nhận của mình là không thực tế, ví dụ nếu số lượng các nhà xuất khẩu hiện tại hoặc tiềm tàng quá lớn hoặc có những lý do khác, kể cả lý do thuộc chính sách chung. Nếu có trường hợp như vậy phát sinh và khi có điều kiện thực hiện, cơ quan có thẩm quyền sẽ cho nhà xuất khẩu biết lý do tại sao việc chấp nhận cam kết là không thực tế, và ở mức độ có thể, sẽ tạo điều kiện cho các nhà xuất khẩu trình bày ý kiến của mình. 18.4 Nếu cam kết được chấp nhận, nhưng Thành viên xuất khẩu mong muốn hoặc Thành viên đang nhập khẩu quyết định hoàn thành cuộc điều tra thì cuộc điều tra sẽ được tiếp tục đến khi hoàn thành. Trong trường hợp cuộc điều tra đi đến kết luận không thuận đối với trợ cấp và sự tổn hại, bản cam kết sẽ tự động mất hiệu lực, ngoại trừ trường hợp kết luận đó chủ yếu là do có bản cam kết. Trong trường hợp đó, cơ quan có thẩm quyền liên quan có thể yêu cầu cam kết tiếp tục có hiệu lực một thời gian hợp lý phù hợp với các quy định của Hiệp định này. Trong trường hợp xác định là có trợ cấp và tổn hại thì cam kết vẫn tiếp tục có hiệu lực, theo những điều khoản của nó và các quy định của Hiệp định này. 18.5 Cơ quan có thẩm quyền của Thành viên đang nhập khẩu có thể gợi ý đưa ra cam kết về giá, nhưng nhà xuất khẩu không bị buộc phải đưa ra cam kết đó. Việc chính phủ Thành viên hay nhà xuất khẩu không đưa ra đề nghị có cam kết hoặc không chấp nhận lời đề nghị đó thì trong mọi trường hợp sẽ không ảnh hưởng đến việc xem xét đánh giá về vụ việc đó. Tuy nhiên, cơ quan có thẩm quyền được tự do xác định rằng mối đe doạ gây tổn hại sẽ càng trở nên hiện thực nếu việc nhập khẩu được trợ cấp vẫn được tiếp tục duy trì. 18. 6. Cơ quan có thẩm quyền của Thành viên nhập khẩu có thể yêu cầu bất kỳ chính phủ hay nhà xuất khẩu nào có cam kết đã được chấp nhận cung cấp định kỳ thông tin liên quan tới việc thực hiện cam kết và cho phép kiểm tra lại các số liệu liên quan. Trong trường hợp vi phạm cam kết, thì căn cứ vào Hiệp định này và các quy định của Hiệp định, cơ quan có thẩm quyền của Thành viên nhập khẩu có thể áp dụng ngay những biện pháp tạm thời trên cơ sở thông tin tối đa có được. Trong trường hợp đó, có thể đánh thuế đối kháng chính thức, theo Hiệp định này, đối với hàng nhập khẩu đã được đưa vào tiêu thụ không quă 90 ngày trước khi biện pháp tạm thời được áp dụng, ngoại trừ việc đánh giá mang tính hồi tố này không áp dụng đối với hàng nhập khẩu được đưa vào trước khi có sự vi phạm cam kết.
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net