Hiện tượng tảo lam trong ao nuôi tôm
Trong các mô hình nuôi tôm sú, đặc biệt là mô hình nuôi tôm bán công nghiệp (bán thâm canh) và nuôi tôm công nghiệp (thâm canh), mật độ nuôi tôm dày, sử dụng thức ăn công nghiệp dạng viên và các loại thuốc, men sinh học thường xuyên.
Hiện tượng tảo lam trong ao nuôi tôm
Nguồn: vietlinh.com.vn
Trong các mô hình nuôi tôm sú, đặc biệt là mô hình nuôi tôm bán công
nghiệp (bán thâm canh) và nuôi tôm công nghiệp (thâm canh), mật độ nuôi tôm
dày, sử dụng thức ăn công nghiệp dạng viên và các loại thuốc, men sinh học
thường xuyên. Sau một thời gian nuôi, thường từ cuối tháng nuôi thứ 2 trở đi, ao
nuôi bắt đầu xuất hiện một số hiện tượng như màu nước ao nuôi trở nên xanh đậm
hoặc xanh đen, độ trong dưới mức 25cm, điều này với tôm nuôi là một trở ngại rất
lớn. Trong ao nuôi kèm theo hiện tượng tảo lam (màu nước xanh lam) xuất hiện
ngày càng dày đặc, các dề bùn (lab lab) nổi lên từng mảng. Nước ao nuôi trở nên
keo, đặc quánh, đôi khi kèm theo hiện tượng rong nhớt, rong đáy xuất hiện với
mật độ cao. Tôm nuôi có hiện tượng dơ mang, đen mang. Vỏ tôm mềm trong thời
gian kéo dài. Các vấn đề trên trực tiếp ảnh hưởng tôm nuôi trong ao, thông qua
dinh dưỡng, tăng trưởng, đồng đều, sức đề kháng và dịch bệnh… Có thể nói,
nguồn gốc căn cơ của vấn đề trên, trước tiên bắt đầu từ khâu cải tạo ao nuôi ban
đầu, thể hiện nhiều sự bất cập. Công tác sên vét bùn đáy, thụt rửa, vệ sinh ao nuôi,
thực hiện sơ sài, không đúng yêu cầu kỹ thuật tương ứng với qui trình nuôi. Lượng
bùn đáy trong ao nuôi còn quá nhiều, nơi đây chứa rất nhiều khí độc như NH3,
H2S, NO2 và các mầm mống gây bệnh như vi khuẩn, virus, trùng khí sinh…Ngòai
ra, khâu gây nuôi màu nước không đúng loại phân yêu cầu, không khịp thời, để ao
quá trong trong một thời gian khá dài. Khi độ trong lớn, ánh sáng mặt trời đi
xuyên qua tầng nước, chiếu thẳng xuống đáy, kích thích rong đáy, tảo lam, rong
nhớt phát triển mạnh. Và, việc cho tôm ăn và quản lý thức ăn, người nuôi tôm
thường máy móc khi cho tôm ăn, vô tư vung rải thức ăn, để thực hiện xong nhiệm
vụ cho tôm ăn. Nhưng, ít khi quan tâm đến chất lượng nền đáy ao nuôi, chỗ nào
sạch, nơi nào ô nhiễm, vùng nào tôm sinh sống. Ít quan tâm đến diễn biến các yếu
tố môi trường ao nuôi, như độ trong, độ phèn, oxy, nhiệt độ, độ mặn… diễn biến
như thế nào. Không quan tâm đến yếu tố thời tiết, mùa vụ nuôi. Nuôi tôm trong
mùa mưa, khi đô mặn giảm thấp, các yếu tố môi trường khác trong ao nuôi biến
động liên tục, sẽ làm vỏ tôm mềm kinh niên. Việc dùng vó (sàng ăn) chưa được áp
dụng đúng mục đích, việc kiểm tra tình trạng tôm nuôi, môi trường, nền đáy…
thông qua sàng ăn còn chiếu lệ, trễ mảng. Thường lạm dụng trong việc dùng
thuốc, hóa chất, các loại chế phẩm, các loại men, dầu, đánh thẳng xuống môi
trường hay trộn qua thức ăn. Góp phần rất lớn trong việc gia tăng chất hữu cơ
không cần thiết trong ao nuôi. Trong quá trình nuôi, phân tôm, xác tôm chết, thức
ăn dư thừa, xác tảo - rong tàn, lụi, thuốc - hóa chất, chế phẩm, tất cả những nhân tố
này là nguồn nguyên liệu phong phú, cung cấp dinh dưỡng cần thiết cho việc phát
triển dày đặc của tảo lam trong ao nuôi. Khi tảo lam phát triển trong ao nuôi, là
dấu hiệu cho thấy nền đáy ao nuôi đã quá dơ bẩn, môi trường nước ao nuôi đã ô
nhiễm khá nặng, các thông số môi trường đang biến động rất lớn. Sự xuất hiện của
tảo lam, làm độ phèn (PH) ao nuôi tăng cao, khi tảo tàn, lắng xuống đáy ao, tích tụ
dần, thúc đẩy quá trình phân hủy hữu cơ diễn ra mạnh mẽ hơn và nguy hiểm hơn,
khí độc sinh ra với cường độ nhiều hơn. Nhằm hạn chế chủ động những tác hại do
tảo lam gây ra, ngay từ khi bắt đầu vụ nuôi, nên quan tâm đến việc cải tạo và xử lý
ao nuôi. Gây nuôi màu nước kỹ trước khi thả tôm. Cho tôm ăn nên theo nguyên
tắc: định tính, định lượng, định vị, định thời, định lần, thành phần… Lưu ý đến
diễn biến môi trường ao nuôi, trạng thái tôm nuôi, thời tiết, khí hậu, giai đoạn
nuôi… mà chủ động điều chỉnh cho phù hợp. Để các mô hình nuôi tôm sú thực sự
hiệu quả, an toàn, bề vững, bà con chỉ nên nuôi tôm chính vụ, thực hiện nghiêm
túc các công đoạn trong qui trình kỹ thuật nuôi, quản lý thức ăn, hạn chế sử dụng
thuốc - hóa chất, chủ động điều tiết môi trường.