Hệ thống quản lý môi trường và sản xuất sạch hơn
Sự phát triển của các tiêu chẩn tự nguyện trong quản lý môi trường bắt đầu ở Anh vào năm 1972 với BS 7750. Sau đó, một số nước Châu Âu khác đã hưởng ứng và hiện nay Uỷ ban Kế hoạch kiểm tra và quản lý Kinh tế của cộng đồng Châu Âu (EMAS) đã đạt tới tiêu chuẩn quốc tế.
Hệ thống quản lý môi trường và sản xuất
sạch hơn
Ruth Hillary
tiêu chuẩn tự nguyện quốc tế có thể là những
4. Các
hàng rào thương mại
1. Lời giới thiệu:
Sự phát triển của các tiêu chẩn tự nguyện trong quản lý môi trường bắt đầu ở Anh vào
năm 1972 với BS 7750. Sau đó, một số nước Châu Âu khác đã hưởng ứng và hiện nay Uỷ
ban Kế hoạch kiểm tra và quản lý Kinh tế của cộng đồng Châu Âu (EMAS) đã đạt tới tiêu
chuẩn quốc tế. Trong thời gian vừa qua, Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế (ISO) đã phát triển
một hệ thống các tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 14 000, nhằm mục tiêu cải thiện
công tác môi trường trong ngành công nghiệp và thương mại. Bằng cách cung cấp một tiêu
chuản quốc tế cho hệ thống quản lý môi trường (ISO 14 001), ISO phấn đấu đạt tới sự hài
hòa giữa các tiêu chuẩn của quốc gia và của khu vực.
Khó khăn trong việc đặt ra một tiêu chuẩncho toàn thế giới là tiêu chuẩn này phải áp dụng
được cho các quốc gia với trình độ phát triển kinh tế và quản lý môi trường khác nhau. Do
những khác biệt kinh tế và quản lý môi trường, đặc biệt là giữa các nước phát triển và các
nước đang phát triển, các tiêu chuẩn này có thể dẫn đến tình trạng các nước công nghiệp
tiến bộ áp đặt những yêu cầu và hệ thống quản lý của mình cho các nước đang phát triển.
Cũng không rõ ngành công nghiệp ở các nước phát triển có chấp nhận hệ thống quản lý
môi trường (EMS) trên quy mô lớn hay không và những chính sách này sẽ hạn chế hay tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu của họ.
Một cuộc điều tra gần đây do Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) tiến hành
trong số các chuyên gia tham gia đặt tiêu chuẩn ISO 14000 cho thấy, họ cũng không chắc
chắn các tiêu chuẩn này có tạo ra hàng rào thương mại phi thuế quan hay không?
Một trong những ý kiến bất đồng chủ yếu với ISO 14001 là việc tự giác đăng ký tiêu
chuẩn. Vì là một kế hoạch tự giác nên tiêu chuẩn ISO 14 001 không thể tạo ra một hàng
rào thương mại chính thức như theo định nghĩa của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO)
về các hàng rào chuyên môn của hiệp định thương mại (TBT). Tuy nhiên, ảnh hưởng của
ISO 14001 đối với thương mại của các nước đang phát triển sẽ phụ thuộc vào mức độ
điều chỉnh của các tiêu chuẩn đó đối với doanh nghiệp. Việc triển khai rộng rãi các tiêu
chuẩn ISO 9000 đã chứng tỏ rằng, mặc dù việc thực hiện các tiêu chuẩn này là tự nguyện
nhưng đã trở thành yêu cầu của các tổ chức trên toàn thế giới. Người ta cũng đang trông
đợi ISO 14001 cũng được như vậy. Hiện nay, chính phủ các nước công nghiệp đang xem
xét vai trò của tiêu chuẩn này trong hệ thống quản lý của họ.
Trong phạm vi cộng đồng Châu Âu, chứng chỉ ISO 14001 có thể đáp ứng yêu cầu của
EMAS về hệ thống quản lý môi trường (EMS).
Như đã thảo luận ở Hội nghị Liên hiệp quốc về thương mại (UNCTAD) (xem UNCTAD
1995) và hội nghị của tổ chức phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc (UNIDO) (xem Luken
et al - ISO /CASCO 1995), ISO 14001 có thể có cả tác động tích cực và tác động tiêu cực
đối với thưong mại. Yêu cầu về chứng chỉ ISO 14001, cho dù là do chính quyền hay do thị
trường đưa ra, đều có thể gây khó khăn cho các nhà sản xuất ở các nước đang phát triển
bởi vì dù sao việc giành được chứng chỉ cũng là rất khó đối với họ. Những nhà sản xuất
này có thể bị mất một phần khả năng cạnh tranh hoặc thậm chí mất thị trường tiêu thụ.
Mặt khác, với những công ty đã được cấp chứng chỉ ở các nước đang phát triển, ISO
14001 có thể có những ảnh hưởng tích cực. Trong những phần dưới đây, chúng tôi sẽ phân
tích khả năng tạo hàng rào thương mại phi thuế quan của ISO 14001 cũng như việc liệu
các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển có đang đối mặt với những khó khăn đặc biệt
trong việc giành chứng chỉ EMS hay không và làm thế nào để giải toả bớt những vấn đề
đó.
Những tác động tích cực đến thương mại
Nếu ISO thành công trong việc thống nhất giữa các tiêu chuẩn EMS của khu vực và của
quốc gia, người được lợi có thể là những nhà xuất khẩu ở các nước đang phát triển. Việc
tiếp nhận những thông tin về một tiêu chuẩn quốc tế sẽ dễ dàng hơn việc tìm hiểu về
một số tiêu chuẩn riêng lẻ của các quốc gia khác nhau.
Một tiêu chuẩn quốc tế sẽ giúp tránh được những yêu cầu trái ngược nhau, giảm chi phí
cho thanh tra đa phương và giảm những phiền phức cho các công ty của các nước đang
phát triển khi thực hiện những yêu cầu của các cơ quan cấp chứng chỉ ở các nước nhập
khẩu khác nhau.
Không giống như hệ thống của Anh và cộng đồng Châu Âu, ISO 14001 không bao gồm
yếu tố thực hiện. Ðiều này có thể có ảnh hưởng tích cực đối với thương mại của các
nước đang phát triển, nếu không kể đến những nhược điểm khác của hệ thống ISO 14001.
Nếu một công ty được phép đặt ra những mục tiêu công tác môi trường của riêng mình,
trên cơ sở một hệ thống quản lý quốc gia thì công ty đó có thể dễ dàng được cấp chứng
chỉ hơn.
Chứng chỉ hệ thống quản lý môi trường của một công ty có thể làm gia tăng tín nhiệm của
khách hàng, cơ quan tài chính, công ty bảo hiểm và những người điều hành đối với công ty
đó. Công ty được cấp chứng chỉ có thể có thêm khả năng cạnh tranh, tiếp cận thị trường
nhanh hơn và rộng hơn, cải thiện được thị phần và thu được nhiều lợi nhuận hơn từ xuất
khẩu. Sự tham gia vào ISO 14001 của các nước đang phát triển có thể làm tăng tín nhiệm
với nước ngoài do được tin tưởng hơn vào năng lực quản lý của địa phương.
Tuy nhiên, theo một cuộc điều tra do UNIDO tiến hành trong số các hiệp hội công nghiệp
và các cơ quan tiêu chuẩn hóa ở các nước đang phát triển, phần lớn các tổ chức đều cho
rằng việc không tuân thủ ISO 14001 sẽ đe dọa khả năng cạnh tranh của các công ty địa
phương và do đó sẽ áp đặt một hàng rào thương mại (Xem UNIDO 1995a).
Hàng rào thương mại có thể có
Một số điều khoản của tiêu chuẩn quốc tế ISO 14001 có thể tạo ra những hàng rào
thương mại. Người ta khuyến khích các công ty xem xét những tác động đến môi trường
của các sản phẩm của họ khi đặt ra những mục tiêu môi trường. Những sản phẩm không
phù hợp với những mục tiêu này có thể bị loại bỏ. Thêm vào đó, những phương thức và
những yêu cầu liên quan đến khía cạnh môi trường do công ty đặt ra cần được thông báo
cho nhà cung cấp (xem ISO 1996, ISO 14001, phần 4.2a và 4.1.6c). Các công ty lớn ở các
nước công nghiệp có thể gây áp lực với các nhà phân phối của mình, bao gồm cả những
nhà phân phối ở các nước đang phát triển, buộc họ phải được công nhận và có chứng chỉ
nhằm đảm bảo việc cải tiến công tác môi trường và thể hiện trách nhiệm môi trường của
họ.
Những áp lực này có thể đi xa hơn, trở thành việc sử dụng chứng chỉ làm một tiêu chí để
đạt được những ưu đãi trong thương mại, mua quotas của nhà cung cấp hay thậm chí từ bỏ
những nhà cung cấp không có chứng chỉ để làm ăn với những phía khác có chứng chỉ. Ðây
là một kinh nghiệm của ISO 9000. Chứng chỉ cho tiêu chuẩn chất lượng thường buộc các
nhà cung cấp phải duy trì các mối quan hệ buôn bán mặc dù đó không phải là một yêu cầu
bắt buộc khi đăng ký làm nhà cung cấp.
Ngay cả khi những công ty của các nước đang phát triển không bị buộc phải có chứng chỉ
ISO 14001, họ có thể vẫn phải xem xét ít nhất là một số yêu cầu nhất định về EMS, nếu
như các công ty của các nước đang phát triển đã có chứng chỉ này. Ðiều này có thể buộc
các nhà cung cấp phải thực hiện nhiều yêu cầu khác nhau của mỗi một công ty khách
hàng. Việc thực hiện những yêu cầu này sẽ càng trở nên khó khăn nếu những yêu cầu đó
trái ngược nhau hoặc nêú vai trò của công ty môi trường chỉ chiếm hàng thứ yếu ở đất
nước của nhà cung cấp (xem UNCTAD 1995).
Các nhà sản xuất ở những nước đang phát triển có thể phải xem xét những tiêu chuẩn của
một hàng rào thương mại nếu như họ gặp phải khó khăn khi xin chứng chỉ hoặc khi đáp
ứng những yêu cầu của khách hàng. Dưới đây, chúng tôi sẽ mô tả một số trở ngại cả về
mặt chính sách lẫn về phía doanh nghiệp.
Thiếu thông tin và thiếu sự tham gia tích cực
Không giống như khi thiết lập các tiêu chuẩn khu vực hoặc quốc tế, trong quá trình thiết
lập các tiêu chuẩn quốc tế, ISO luôn mở rộng cửa chào đón mọi quốc gia có cơ quan thành
viên của ISO. Mặc dù số lượng các nước đang phát triển là "thành viên tham gia " (tức là
có quyền tham gia và biểu quyết về các tài liệu dự thảo ) của tính chất 207- Uỷ ban làm
việc về hệ thống tiêu chuẩn ISO 14000 đã tăng đến 27 nước (tính đến tháng 9/1996)
nhưng đa số quốc gia đều báo cáo rằng họ không thể tham gia một cách có hiệu quả vào
các họat động tiêu chuẩn hóa. Do khó khăn về tài chính, họ không thể cử đại diện thường
trực tới các cuộc họp của ISO. Sự thiếu khả năng tham gia tích cực vào quá trình đặt ra
những tiêu chuẩn quốc tế làm cho các nước đang phát triển không thể thể hiện được
những mối quan tâm của mình, do đó sẽ ảnh hưởng đến kết quả công việc. Các tiêu
chuẩn, luật lệ, thủ tục chủ yếu do các nước công nghiệp và đại diện của công ty lớn đặt
ra mà động cơ của họ rất khác nhau. Các quốc gia không phải thành viên của ISO thường
không có đầy đủ thông tin về các tiêu chuẩn dự thảo. Do đó, họ rất thiệt thòi vì họ chỉ
được biết về các tiêu chuẩn khi chúng đã được ban hành và như vậy họ sẽ bị tụt hậu so
với những nước trực tiếp tham gia vào quá trình chuẩn bị cho việc cấp chứng chỉ EMS.
Thiếu kiến thức và thiếu chuyên môn
Theo cuộc điều tra của UNIDO, trở ngại chính cho các nước đang phát triển khi tham gia
vào ISO 14001 là sự thiếu kiến thức cần thiết về các tiêu chuẩn EMS của cả phía những
người điều hành cũng như các quan chức chính phủ. Ngoài ra, người ta cũng có thể hiểu
nhầm hoặc sử dụng sai ISO 14000 do cách diễn đạt các tiêu chuẩn đó. Các văn bản về tiêu
chuẩn này cần được người sử dụng dịch ra và cần phải cụ thể hóa hơn nữa trước khi đưa
vào áp dụng thực tế.
Việc thiếu các chuyên gia, thiếu cán bộ kiểm tra đủ tiêu chuẩn và thiếu người tư vấn cũng
là một trở ngại cho các nước đang phát triển. Những công ty của các nước đang phát triển
có thể không có những kin nghiệm cần thiết để thực hiện EMS do họ không quen phải
chấp hành các quy định về môi trường. Nếu không được đào tạo và trợ giúp, nhiều công ty
sẽ không thể hoàn thành những thay đổi về hoạt động và cơ cấu cần thiết và duy trì một
lực lượng cán bộ kiểm tra nội bộ nhằm tuân theo những qui định của tiêu chuẩn ISO
14001.
Thiếu cơ sở hạ tầng và sự tín nhiệm
Chứng chỉ cho bên thứ ba có thể là một rào cản đối với các nước đang phát triển do thiếu
những cơ quan cấp giấy chứng nhận trong nước có uy tín và do chi phí liên quan đến các
cơ quan quốc tế này. Mặc dù ISO 14001 đã cho phép hình thức tự chứng nhận nhưng liệu
hình thức này có được khách hàng chấp nhận hay không thì còn cần phải xem xét. Thiếu
kinh phí và thiếu các kỹ năng chuyên ngành là lí do chủ yếu dẫn đến cơ sở hạ tầng yếu
kém. Mặc dù khi cấp chứng nhận, ISO 14001 không yêu cầu phòng thí nghiệm đắt tiền hay
trang thiết bị quá hiện đại nhưng nhiều khi nó lại đòi hỏi về quản lý chất lượng và các tiêu
chuẩn an toàn cũng như sức khoẻ, mà chính các tiêu chuẩn này lại đòi hỏi cơ sở vật chất
hiện đại cao cấp...Các chuyên gia UNIDO đã phát hiện ra rằng, ở nhiều nước đang phát
triển, đặc biệt là những nước lạc hậu nhất đều thiếu những chính sách phù hợp để phát
triển cơ sở hạ tầng sao cho có thể đạt yêu cầu để được cấp chứng chỉ. Chính phủ các
nước này thường không quan tâm đến sự phát triển và củng cố của các thể chế nhằm giúp
đẩy mạnh thực hiện hệ thống quản lý môi trường EMS (theo UNIDO 195b). Do thiếu luật
pháp về môi trường hoặc do những luật này không được thực hiện nghiêm chỉnh ở các
nước đang phát triển nên các công ty của các nước này khó có cơ sở để xây dựng chính
sách những mục tiêu môi trường.
Ngay cả khi ở các nước đang phát triển có cơ quan cấp chứng nhận riêng thì những công ty
xuất nhập khẩu vẫn có thể gặp những khó khăn do các đối tác buôn bán nước ngoài không
tin tưởng vào chứng chỉ do các tổ chức trong nước cấp. Từ sau khi có ISO 9000, những nhà
nhập khẩu ở các nước công nghiệp hóa thường yêu cầu các chứng chỉ do một tổ chức
quốc tế hoặc tổ chức nước ngoài có uy tín cấp. Uy tín của một hệ thống cấp chứng chỉ
phụ thuộc chủ yếu vào năng lực của cán bộ kiểm tra và đánh giá. Do thiếu một hệ thống
các chuyên gia kiểm tra quốc tế có đủ điều kiện, các nước đang phát triển phải lĩnh hội
kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực này thông qua những khoá đào tạo tại nước ngoài do
các tổ chức có uy tín hướng dẫn. Vấn đề là ở chỗ vai trò của danh tiếng rất quan trọng.
Cùng một tổ chức cấp chứng nhận có thể được các đối tác thương mại khác nhau đánh giá
rất khác nhau.
Thiếu quản lý
Do thiếu những khuyến khích kinh tế từ phía chính quyền, do thiếu thông tin và do thiếu
nhận thức nên có thể dẫn đến việc các công ty của các nước đang phát triển thiếu quản lý
chặt chẽ để triển khai EMS. Chẳng hạn như, nghiệp đoàn công nghiệp ấn Ðộ đã xác định
những trở ngại do quản lý là: rất khó nhận ra những ích lợi của EMS trong khi lại chỉ thấy
những phức tạp của các tiêu chuẩn ISO 14001, nhầm lẫn về sự giống nhau giữa những
tiêu chuẩn của ISO 9000 và ISO 14001 và ấn tượng rằng việc thực hiện theo những tiêu
chuẩn này chỉ tạo thêm lắm công việc (xem CII 1995). Kinh nghiệm thực hiện ISO 9000 ở
Mehico đã cho thấy, sự thiếu giảm tới các phương thức, tư liệu và hồ sơ cũng là một trở
ngại cho việc triển khai ISO 9000 (xem tài liệu cập nhật về hệ thống môi trường quốc tế
1995). ở các công ty của Vigeria thói quen ra quyết định cá nhân thường đi liền với cơ cấu
tổ chức không phân định rõ ràng và nhân viên lại không được đào tạo đến nơi đến chốn.
Cán bộ quản lý có xu hướng không thích các hệ thống vì những biện pháp hệ thống hóa
nhiều khi cản trở việc ra quyết định cá nhân hoặc có thể can thiệp vào những hoạt động
sai trái, tham nhũng hoặc những quy định cá nhân ưu đãi cho một số đối tượng do yêu cầu
riêng của cấp trên, do tín ngưỡng, sắc tộc... sự thờ ơ của nhân viên và thậm chí là những
phản ứng tiêu cực đối với yêu cầu của cán bộ kiểm tra cũng được coi là những trở ngại ở
cả ấn Ðộ, Nigeria (xem CII 1995a và Abalaka 1995).
Thiếu công nghệ
Kiểm nghiệm thực hiện ISO 9000 cho thấy, các nước đang phát triển đang đối mặt với
những khó khăn do thiếu những công nghệ mà các ngành công nghiệp cần để đạt được
những tiêu chuẩn ISO (Barrera 1995). Mặc dù, việc thực hiện ISO 14001 EMS không trực
tiếp đòi hỏi những thiết bị kỹ thuật nhất định nhưng để tuân theo những quy định của nó
và để tiếp tục cải tiến công tác môi trường, không thể không đầu tư cho những công nghệ
mới. Các nước đang phát triển có thể không có sẵn các "công nghệ sạch" và do đó thường
phải nhập công nghệ với giá cao. Việc nhập công nghệ mới cũng đòi hỏi chi phí đào tạo
để nâng cao trình độ nhân viên. Ðầu tư vào công nghệ mới có thể không khả thi về mặt
kinh tế nếu nhà xuất khẩu buộc phải tăng giá bán đến mức không cạnh tranh được trên thị
trường. Theo báo cáo của Bộ Công nghiệp Colombia, đã có một số trường hợp khách hàng
nước ngoài yêu cầu những tiêu chuẩn môi trường đặc biệt nhưng sau đó lại không mua
nữa do giá sản phẩm tăng lên (Barrera 1995).
Các chi phí liên quan
Theo kết quả một cuộc điều tra của UNIDO, những chi phí lớn liên quan đến việc tham
gia vào ISO 14001 là một trong những yếu tố chính đang gây khó khăn cho các nước đang
phát triển. Chi phí cho tư vấn, chi phí để đạt và duy trì chứng chỉ đang là những vấn đề
đặc biệt cho các công ty nhỏ hơn. Theo kinh nghiệm thực hiện ISO 9000, ước tính một
công ty nhỏ không có chương trình môi trường và không có hệ thống kiểm tra chất lượng
tại chỗ có thể phải mất 90.000 USD cho chi phí tư vấn, 20,000 USD cho chi phí đăng ký và
cứ 6 tháng lại mất 10,000 USD để xin gia hạn đăng ký. Ngoài ra, còn các chi phí cho phân
tích, tài liệu và kiểm tra EMS cũng như chi phí đào tạo nhân viện. Do các nước đang phát
triển thiếu cơ quan đánh giá có uy tín trong nước nên các nhà sản xuất có thể tìm đến các
cơ quan đăng ký nước ngoài và mời các cố vấn nước ngoài đến để đào tạo những chuyên
môn cần thiết.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước đang phát triển sẽ gặp nhiều khó khăn nhất khi
thực hiện ISO 14001. Thiếu thông tin, thiếu cán bộ có trình độ và thiếu kinh phí để triển
khai và xin chứng nhận cho EMS là những vấn đề thực sự quan trọng đối với các doanh
nghiệp này.
Thông cảm với những khó khăn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các chuyên gia của Uỷ
ban TC 207 đã tiến hành điều tra về các doanh nghiệp này và năng lực thực hiện EMS của
họ. Kết quả là, không cần phải có tiêu chuẩn riêng cho các doanh nghiệp này và ISO 14001
thích hợp cho mọi công ty với mọi quy mô khác nhau. Kết luận của Uỷ ban tính chất 207
trái ngược hẳn với yêu cầu có một nguyên tắc hướng dẫn đặc biệt cho riêng các xí nghiệp
loại này do các đại biểu của các nước đang phát triển đưa ra và được chấp nhận trong
cuộc họp toàn thể tổ chức vào tháng 6/1996. Một loạt các dự án đang được triển khai để
kiểm tra xem liệu các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thực sự gặp phải những khó khăn khi
thực hiện ISO 14001 hay không, sau đó báo cáo lên Uỷ ban tính chất 207 để quyết định
những bước tiếp theo.
Những chiến lược để tránh hàng rào thương mại
Ðể giảm bớt những khó khăn cho các nước đang phát triển, cần có một phương thức kép
nhằm đạt được sự công nhận của ISO 14001 và cần có các cơ quan cấp chứng nhận có uy
tín. Sự đóng góp của các nước công nghiệp hóa là rất quan trọng để tránh những rào cản
thương mại mà ISO 14001 có thể tạo ra. Dưới đây, chúng tôi xin đề xuất một vài phương
pháp:
áp dụng các tiêu chuẩn một cách có hệ thống
Ðể thu được những kết quả tích cực từ việc thống nhất các tiêu chuẩn quốc gia, các nước
cần sử dụng các tiểu chuẩn quốc tế của ISO 14001 làm cơ sở phát triển và điều chỉnh các
tiêu chuẩn quốc gia. Các quốc gia thành viên của tổ chức thương mại Thế giới (WTO) cần
phải kiểm soát chặt chẽ những hoạt động của mình trong quá trình thiết lập các tiêu chuẩn
và đánh giá việc thực hiện, trên cơ sở hệ thống "Thực hành tốt" do TBT đặt ra. Hệ thống
này đề xuất những hoạt động để chuẩn bị, lựa chọn và áp dụng những tiêu chuẩn nhằm
tránh tạo ra những cản trở không cần thiết cho hoạt động thương mại quốc tế. Tuy nhiên,
những chỉ dẫn của WTO cần được làm rõ trước khi quyết định xem liệu WTO có thể phản
ứng lại không nếu các biện pháp đơn phương về EMS không thể chấp nhận được hoặc có
sự phân biệt và nếu có thì phản ứng bằng cách nào. Nếu công tác quản lý môi trường được
sử dụng làm rào cản thương mại, các bên bị ảnh hưởng cần tiến hành các bước để phản
đối những hành động của bên vi phạm. Nếu có tranh chấp xảy ra, ISO có chức năng như
một trọng tài công bằng, cung cấp chuyên gia, tài liệu hoặc các trợ giúp cần thiết khác cho
WTO (Navarrele in ISO (CASCO 1995)).
Theo dự kiến, cơ quan Công nhận đánh giá hệ thống chất lượng (QSAR)- Một cơ quan
đánh giá của ISO hỗ trợ cho các cơ quan đánh giá và cấp chứng chỉ quốc gia- sẽ được
thành lập vì lợi ích của các nước đang phát triển. Ngoài ra, các nguyên tắc chỉ đạo quốc tế,
cung cấp những thông tin để làm rõ thêm những yêu cầu của ISO 14001 cùng hệ thống
những chuyên gia kiểm tra quốc tế đủ điều kiện sẽ là cơ sở cho những phương thức đánh
giá và chứng nhận khách quan hơn và thống nhất hơn.
Phát triển cơ sở hạ tầng
Các nước đang phát triển cần có sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật để xây dựng cơ sở hạ
tầng trong nước nhằm đạt tiêu chuẩn được cấp chứng nhận EMS. Các cơ quan cấp chứng
nhận trong nước cần được thành lập theo những nguyên tắc chỉ đạo của quốc tế để đảm
bảo uy tín. Một quốc gia có một trung tâm thông tin tiêu chuẩn có thể trở thành một thành
viên của ISONET - 1 trong mạng lưới các trung tâm quốc tế do ISO phát triển để cung cấp
thông tin về các tiêu chuẩn và thủ tục cấp chứng nhận ở các quốc gia khác nhau.
Sự hợp tác khu vực giữa các nước đang phát triển trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng có
thể giúp họ vượt qua những khó khăn do tài chính hạn hẹp. Ví dụ như Hiệp hội thống
nhất Mỹ Latinh (ALADI) đã nỗ lực thành lập một hệ thống hợp tác để củng cố thể chế,
tiêu chuẩn hóa và cấp chứng nhận ở 11 nước Mỹ Latinh nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào
các tổ chức ngoài khu vực.
Tăng cường thông tin và sự tham gia tích cực
Sự tham gia tích cực hơn vào quá trình thiết lập tiêu chuẩn sẽ giúp các nước đang phát
triển có thêm những thông tin cần thiết và nâng cao lợi ích của họ, đồng thời có thể loại
bỏ bất kỳ rào cản tâm lý nào do sự ngộ nhận rằng các tiêu chuẩn là do các nước công
nghiệp hóa áp đặt. Trong khuôn khổ chương trình hỗ trợ của mình, ISO cấp kinh phí đi lại
cho đại biểu của các nước đang phát triển để họ tham dự 1 hoặc 2 cuộc họp, với hy vọng
điều đó sẽ tạo cho họ tham gia rông khắp hơn. Trong tương lai, chương trình này cần
được mở rộng hơn.
ISO nên cho phép cả các nước chưa phải là thành viên của ISO được tiếp cận với những
tiêu chuẩn dự thảo nhằm loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực về thương mại khi các nước
này phải điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu của tiêu chuẩn đó.
ISO nên cho phép cả các nước chưa phải là thành viên của ISO được tiếp cận với những
tiêu chuẩn dự thảo nhằm loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực về thương mại khi các nước
này phải điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu của các tiêu chuẩn đó. ISO cần đảm bảo
rằng, các tiêu chuẩn quốc tế được sử dụng theo hướng có lợi cho các nước đang phát
triển, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ của họ và việc ban hành các tiêu chuẩn này
phải được phổ biến rộng rãi. Mặt khác, các nước đang phát triển cũng cần đảm bảo rằng,
các thông tin thu được từ ISO sẽ được sử dụng hiệu quả và chỉ được phổ biến trong phạm
vi nước mình.
Nâng cao nhận thức và đào tạo
Các biện pháp nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng và ích lợi của ISO 14001 sẽ
góp phần tăng sự nhiệt tình hưởng ứng của cả phía chính quyền lẫn ngành công nghiệp
của các nước đang phát triển. ở một số nước, vai trò của các cơ quan tiêu chuẩn nhà nước
với chức năng điều tiết nền công nghiệp cần phải thay đổi. Sự tham gia của thành phần
kinh tế tư nhân trong quá trình lập kế hoạch, thực hiện các tiêu chuẩn và cung cấp chương
trình đào tạo là rất quan trọng.
Nhu cầu đào tạo và bồi dưỡng năng lực liên quan đến EMS của các nước đang phát triển
rất lớn, đặc biệt nếu họ có chiến lược chỉ đạo. Công tác đào tạo cần tập trung vào các đại
diện chính quyền, đào tạo địa phương và các cơ quan cấp chứng chỉ, các cố vấn và lãnh
đạo doanh nghiệp.
Nguồn trợ giúp cũng bao gồm cả tài liệu giảng dạy và phát triển chương trình giảng dạy.
Cần tập trung các hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì họ là
đối tượng có nhu cầu được hỗ trợ nhiều nhất. Các công ty quyết định thực hiện ISO 14001
cần được hỗ trợ nhiều hơn.
Các cuộc thảo luận và học bổng đào tạo chuyên ngành cho các cá nhân là một phần của
chương trình hỗ trợ chuyên môn của ISO cho các nước đang phát triển. ISO cũng cung cấp
cho các nước đang phát triển những thông tin về các khoá đào tạo do những cơ quan thành
viên của ISO ở các nước OECD tổ chức. Trong tương lai, ISO phối hợp với các cơ quan
khác, cần bắt đầu những nỗ lực để xây dựng 1 hệ thống giúp các nhà tư vấn, chuyên gia
huấn luyện và chuyên viên kiểm tra trong lĩnh vực quản lý môi trường có thể tiếp cận
được với tất cả các nước cần đến chuyên môn của họ.
Chuyển giao công nghệ
Các nhà sản xuất quy mô nhỏ sẽ đặc biệt cần những trợ giúp về tài chính và kỹ thuật để
có những công nghệ phù hợp nhằm thực hiện các luật môi trường và các yêu cầu của ISO
14001. Việc tạo điều kiện cho chuyển giao công nghệ sẽ đáp ứng được nhu cầu của các
nhà sản xuất ở các nước đang phát triển. Chính phủ các nước này cần xúc tiến tự do hóa
nền kinh tế để thu hút được các công nghệ sạch. Việc chuyển giao công nghệ sẽ được
ủng hộ thông qua các luật về quyền sở hữu trí tuệ, nhờ đó giúp người chủ công nghệ yên
tâm vì quyền sở hữu của họ đối với công nghệ đem chuyển giao đã được bảo vệ. Các
ngành công nghiệp được chuyển tới những nước có chi phí sản xuất thấp hơn sẽ mang lại
những công nghệ mới. Tuy nhiên, các nước đang phát triển cần xây dựng những cơ chế
kiểm soát để đảm bảo rằng những công nghệ được chuyển giao cho họ là những công
nghệ sạch (Navarrete in ISO (CASCO 1995)).
Hỗ trợ thành phần kinh tế tư nhân
Thành phần kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng trong việc tránh các hàng rào thương
mại mà ISO 14001 có thể tạo ra. Trước hết, các công ty đã được cấp chứng chỉ ở các nước
công nghiệp hóa, vốn đòi hỏi những nhà cung cấp ở các nước đang phát triển phải tuân
theo những mục tiêu môi trường cụ thể, cần phải xem xét điều kiện môi trường, kinh tế,
xã hội ở nước của nhà cung cấp đó. Thứ hai là, họ cần cho các nhà cung cấp ở các nước
đang phát triển thời gian cần thiết và cung cấp những thông tin mới để giúp điều chỉnh phù
hợp cho những yêu cầu môi trường mới. Thứ ba là, những khách hàng ở các nước công
nghiệp hóa có thể góp phần cải tiến công tác môi trường của các nhà cung cấp mà họ đang
quan hệ làm ăn. Những công ty lớn hoạt động trong lĩnh vực nhạy cảm với môi trường ở
các nước công nghiệp hóa rất có kinh nghiệm trong các vấn đề môi trường và là nguồn
thông tin chuyên môn rất có giá trị cho các công ty nhỏ ở những nước đang phát triển. Họ
cần cố vấn và trợ giúp bằng cách chuyển giao công nghệ sạch cũng như các phương thức
làm việc dưới hình thức "các cố vấn viếng thăm" hoặc các cuộc hội thảo để chia xẻ các
kinh nghiệm.
Cần phải ủng hộ và khuyến khích các chiến lược hợp tác trong phạm vi thành phần kinh
tế tư nhân, đặc biệt là giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các mạng lưới hiệp hội kinh
doanh cũng như các phòng thương mại có thể giúp doanh nghiệp xác định những quy định
môi trường phù hợp và những thay đổi đang tiếp diễn. Liên đoàn công nghiệp ấn Ðộ (CII)
là một ví dụ về 1 mạng lưới doanh nghiệp tích cực. Bên cạnh việc nâng cao trình độ nhận
thức về ISO 14001, CII đang tổ chức các khoá đào tạo và tổ chức hội thảo về hợp tác của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ với Phòng thương mại Quốc tế. Tiếp theo những hoạt động
này là 1 dự án về việc cấp chứng chỉ EMS trong hàng ngũ các doanh nghiệp nhỏ. Mục tiêu
của dự án này là để diễn giải việc triển khai 1 EMS và để tích cực giúp đỡ lựa chọn
những công ty có thể được nhận chứng chỉ.
Kết luận
Theo dự kiến, tiêu chuẩn EMS quốc tế của ISO 14001 mặc dù là tiêu chuẩn tự nguyện
nhưng trong tương lai sẽ trở thành những yêu cầu bắt buộc trong 1 số ngành công nghiệp
nhất định. Việc ngày càng nhiều nước công nghiệp hóa triển khai EMS đã đặt ra những
yêu cầu rất khó thực hiện cho các nhà cung cấp ở các nước đang phát triển. Chi phí cho
việc thực hiện và xin chứng nhận cho 1 hệ thống quản lý môi trường EMS có thể là quá
cao đối với các nhà sản xuất ở các nước đang phát triển, đặc biệt là những doanh nghiệp
nhỏ. Sự thiếu thông tin, công nghệ, chuyên môn và cơ quan chứng nhận có uy tín sẽ là
những trở ngại cho các nước đang phát triển.
Ðể tránh các hàng rào thương mại, các nước đang phát triển cần tham gia tích cực hơn vào
việc soạn thảo các tiêu chuẩn quốc tế, ví dụ như ISO 14000. Hiện nay, quy trtình thiết lập
tiêu chuẩn tự nguyện rất phát triển ở các nhà sản xuất và chính quyền các nước phương
Tây. Các nước đang phát triển sẽ cần có những trợ giúp về tài chính và chuyên môn để xây
dựng cơ sở cho phép họ tham gia có hiệu quả hơn vào ISO 14001.
Ðặc biệt, các doanh nghiệp nhỏ ở các nước đang phát triển có thể có lợi hơn từ sự hợp tác
trong nội bộ thành phần kinh tế tư nhân. Ngoài ra, sự trợ giúp của các đối tác thương mại
ở các nước công nghiệp hóa cho các nhà cung cấp của họ ở những nước đang phát triển
cũng rất có ý nghĩa.
Như hiệp định TBT của Tổ chức thương mại Thế giới đã nhấn mạnh, ISO có vai trò quan
trọng trong việc đặt ra các tiêu chuẩn quốc tế và hỗ trợ cho thương mại toàn cầu. Chỉ khi
các nước thành viên WTO lựa chọn ISO 14001, tránh được những yêu cầu trái ngược nhau
và khi họ kiểm soát được các hoạt động đánh giá thực hiện thì tiêu chuẩn quốc tế mới
thực sự đạt được mục đích.
Chú ý
1. Tài liệu này phản ánh quan điểm của tác giả chứ không phản ánh quan điểm của
UNDP.
1. Thêm vào đó, 11 nước đang phát triển tham gia với tư cách quan sát viên. Với tổng
số 38 thành viên, các nước đang phát triển chiếm hơn một nửa số ghế trong Uỷ ban
TC 207 (trong đó 51 thành viên "P" và 19 thành viên "O"). Năm 1995, ISO có các cơ
quan thành viên ở 85 nước trong đó có 46 nước đang phát triển. Xem tư liệu của
ISO và ISO (1995).
2. Các chi phí tư vấn do 1 công ty Mỹ tính toán, trong thời gian 2 tháng, 22 ngày làm
việc, 1800 USD /ngày (tính cả chi phí đi lại và tiền khách sạn...). ở các nước đang
phát triển, chi phí tư vấn thấp hơn (Theo UNDP 1996 ).
3. Trong điều kiện hiện nay, việc liệu cộng đồng Châu Âu có chấp nhận ISO 14001
hay không rất quan trọng vì EMAS chỉ cấp chứng nhận cho những công ty có cơ sở
công nghiệp ở trên lãnh thổ của Cộng đồng Châu Âu, không tính đến những nhà
sản xuất ở các nước đang phát triển không có cơ sở công nghiệp ở EU.
4. Những nước này gồm có Argentina, Bolivia, Brazil, Chile, Colombia. Ecuador,
Mehico, Paraguay, Peru, Uruguay và Venezuela (xem ALADI 19895).
Tài liệu tham khảo
1. Abalaka, J.A (1995), Tổng giám đốc Tổ chức các tiêu chuẩn của Nigeria - Tuyên bố
tại cuộc họp các chuyên gia UNIDO bàn về những tác động của ISO 9000 và ISO /
DIS 14000 đối với thương mại công nghiệp của các nước đang phát triển - Từ 23
đến 25 tháng 10 /1995, Vien áo.
2. ADI (1995), "các hàng rào chuyên môn đối với thương mại trong phạm vị ALADI",
tuyên bố tại cuộc họp các chuyên gia UNIDO về những tác động của ISO 9000 và
ISO /DIS 14000 đối với thương mại công nghiệp của các nước đang phát triển - từ
23 đến 25 tháng 10 /1995, Vien áo.
3. Barrera, X. (1995) ISO 9000 - ISO 14000 và "kế hoạch sinh thái của Colombia" báo
cáo tại cuộc họp các chuyên gia UNIDO bàn về những tác động của ISO 9000 và
ISO /DIS 14000 đối với thương mại công nghiệp của các nước đang phát triển - Từ
23 đến 25 tháng 10 /1995, Vien áo.
4. CII (1995). "Vai trò của EMS - CII ", báo cáo tại cuộc họp các chuyên gia UNIDO
bàn về những tác động của ISO 9000 và ISO /DIS 14000 đối với thương mại công
nghiệp của các nước đang phát triển - Từ 23 đến 25 tháng 10 /1995, Vien áo.
5. CII (1995a): "Tầm quan trọng của việc thực hiện EMS ở ấn Ðộ", Hội nghị về quản
lý môi trường - Hệ thống và kiểm soát - ISO 14000, Ban quản lý môi trường, Liên
đoàn công nghiệp ấn Ðộ.
6. "Cập nhật hệ thống quản lý môi trường " (1995) - CEEM - Cơ quan thông tin về
ISO 14000, tháng 11 /quyển 2 - số 11.
7. ISO (1996) ISO 14001: Hệ thống quản lý môi trường - Các hướng dẫn sử dụng kỹ
thuật. Geneva, Tổ chức tiêu chuẩn quốc tê.
8. ISO (1995). Các thành viên, Geneva, Tổ chức tiêu chuẩn quốc tê
9. ISO /CASCO (1995) Xúc tiến và đánh giá quản lý môi trường - Hội thảo của ISO
/CASCO - ISO TC 207, Geneva.
10. UNCTAD (1995) Những chính sách môi trường mới với những tác động đến môi
trường: 1 cuộc thảo luận sơ bộ, Geneva, Hội nghị của Liên Hiệp quốc về Thương
mại và Phát triển.
11. UNDP (1996) ISO 14000, các tiêu chuẩn quản lý môi trường và mối liên hệ với các
nhà xuất khẩu trong thị trường phát triển, chương trình phát triển thành phần kinh
tế tư nhân, NewYork, UNDP.
12. UNIDO (1995a): Ðiều tra về liên hệ thương mại của các tiêu chuẩn quốc tế về
chất lượng và quản lý môi trường (ISO 9000 /ISO 14000), báo cáo chuyên môn,
9/1995, Viên áo.
13. UNIDO (1995b) Cuộc họp của các chuyên gia UNIDP về những tác động của ISO
9000 và ISO /DIS 14000 đối với thương mại công nghiệp của các nước đang phát
triển - Từ 23 đến 25 tháng 10 /1995, Vien áo.