Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam - Chuẩn mực số 505 Thông tin xác nhận từ bên ngoài
Mục đích của chuẩn mực này là quy định các nguyên tắc, thủ tục cơ bản và hướng dẫn thể thức áp dụng các nguyên tắc và thủ tục cơ bản đối với việc sử dụng thông tin xác nhận từ bên ngoài
CHUẨN MỰC SỐ 505
THÔNG TIN XÁC NHẬN TỪ BÊN NGOÀI
(Ban hành theo Quyết định số 101/2005/QĐ-BTC
ngày 29 tháng 12 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính)
QUY ĐỊNH CHUNG
Mục đích của chuẩn mực này là quy định các nguyên tắc, thủ tục cơ bản
1.
và hướng dẫn thể thức áp dụng các nguyên tắc và thủ tục cơ bản đối với
việc sử dụng thông tin xác nhận từ bên ngoài nhằm thu thập bằng chứng
kiểm toán của kiểm toán viên và công ty kiểm toán
Kiểm toán viên và công ty kiểm toán cần xem xét sự cần thiết phải sử
2.
dụng thông tin xác nhận từ bên ngoài để thu thập đầy đủ bằng chứng
kiểm toán thích hợp nhằm hỗ trợ cho cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài
chính. Để đưa ra quyết định này, kiểm toán viên cần phải xem xét mức
độ trọng yếu, mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, và cân nhắc
xem những bằng chứng có được từ thủ tục kiểm toán thông tin xác
nhận từ bên ngoài đã và sẽ thực hiện cho các cơ sở dẫn liệu của báo
cáo tài chính có làm giảm rủi ro kiểm toán xuống mức thấp có thể chấp
nhận được hay không.
Kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải tuân thủ các quy định của
3.
chuẩn mực này trong quá trình thu thập thông tin xác nhận từ bên ngoài.
Đơn vị được kiểm toán (khách hàng), các đơn vị, cá nhân liên quan
4.
phải có những hiểu biết cần thiết về các nguyên tắc, thủ tục cơ bản trong
chuẩn mực này để phối hợp công việc và xử lý các mối quan hệ liên quan
với kiểm toán viên và công ty kiểm toán trong quá trình thu thập thông tin xác
nhận từ bên ngoài.
Chuẩn mực kiểm toán số 500 “Bằng chứng kiểm toán” quy định rõ
5.
sự tin cậy của bằng chứng kiểm toán phụ thuộc vào nguồn cung cấp và tính
chất của bằng chứng kiểm toán. Theo chuẩn mực này, những bằng chứng
kiểm toán có nguồn gốc từ bên ngoài đáng tin cậy hơn bằng chứng kiểm
toán có nguồn gốc từ bên trong; bằng chứng kiểm toán dưới dạng văn bản,
hình ảnh đáng tin cậy hơn bằng chứng ghi lại lời nói. Những bằng chứng
kiểm toán dưới dạng văn bản có nguồn gốc từ bên ngoài đáng tin cậy hơn vì
người bên ngoài là người không liên quan trực tiếp tới đơn vị được kiểm
toán. Kiểm toán viên cần xem xét có nên tổng hợp hay tách rời các bằng
chứng kiểm toán từ thủ tục kiểm toán xác nhận từ bên ngoài đã và sẽ thực
hiện có thể giúp giảm rủi ro kiểm toán của cơ sở dẫn liệu có liên quan
xuống mức thấp nhất có thể chấp nhận được.
Việc xác nhận thông tin từ bên ngoài là quá trình thu thập và đánh
6.
giá bằng chứng kiểm toán thông qua việc liên hệ trực tiếp với bên thứ ba để
nhận được phúc đáp của họ về các thông tin cụ thể ảnh hưởng đến cơ sở
dẫn liệu được Ban Giám đốc lập và trình bày trong báo cáo tài chính của đơn
vị được kiểm toán. Để quyết định mức độ sử dụng thông tin xác nhận từ
bên ngoài, kiểm toán viên và công ty kiểm toán nên cân nhắc đặc điểm của
môi trường hoạt động của đơn vị được kiểm toán và khả năng thu thập
được các thông tin đó.
Xác nhận từ bên ngoài thường được sử dụng đối với số dư tài
7.
khoản và các bộ phận cấu thành của nó, nhưng không chỉ giới hạn trong
những khoản mục này. Ví dụ, kiểm toán viên và công ty kiểm toán có thể
yêu cầu sự xác nhận từ bên ngoài về các điều khoản hợp đồng hay giao dịch
của đơn vị được kiểm toán với bên thứ ba. Các tình huống có thể thu thập
thông tin xác nhận từ bên ngoài, gồm:
Số dư tài khoản tiền gửi, tiền vay và những thông tin
a)
khác từ ngân hàng, kho bạc, tổ chức tài chính tương tự;
Số dư các khoản phải thu;
b)
Cổ phiếu gửi bên thứ ba; hàng gia công, hàng gửi bán,
c)
hàng nhờ giữ hộ;
Những văn bản, giấy tờ chứng nhận về quyền sở
d)
hữu tài sản do luật sư giữ, hoặc đang giữ trong két sắt của ngân hàng;
Những khoản đầu tư mua từ các nhà môi giới nhưng
e)
chưa được giao trước thời điểm lập báo cáo tài chính;
Các khoản nợ vay;
f)
Số dư của những khoản nợ phải trả.
g)
Sự tin cậy của bằng chứng kiểm toán thu thập được thông tin xác
8.
nhận từ bên ngoài phụ thuộc vào các thủ tục mà kiểm toán viên đã áp dụng
để yêu cầu xác nhận từ bên ngoài phụ thuộc quá trình thực hiện xác nhận từ
bên ngoài; và đánh giá kết quả của thủ tục xác nhận từ bên ngoài. Những
nhân tố ảnh hưởng đến độ tin cậy của việc xác nhận từ bên ngoài bao gồm:
Sự kiểm soát mà kiểm toán viên thực hiện đối với yêu cầu xác nhận và thư
phúc đáp, tính chất của thư phúc đáp và bất kỳ sự hạn chế nào trong việc
phúc đáp hoặc áp đặt của Ban Giám đốc.
NỘI DUNG CHUẨN MỰC
Mối quan hệ giữa thủ tục xác nhận từ bên ngoài với đánh giá của
kiểm toán viên về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát
Chuẩn mực kiểm toán số 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”
9.
đã quy định về rủi ro kiểm toán và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành
rủi ro là rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện. Chuẩn mực
này cũng quy định quá trình đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát là
để quyết định nội dung, tính chất và lịch trình của các thử nghiệm cơ bản
để giảm rủi ro phát hiện và từ đó giảm rủi ro kiểm toán xuống mức có thể
chấp nhận được.
10. Chuẩn mực kiểm toán số 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ” cũng
quy định rõ nội dung và tính chất của bằng chứng kiểm toán thu thập được
từ việc thực hiện các thử nghiệm cơ bản phụ thuộc vào sự đánh giá rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Mức độ đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát không thể ở mức thấp để loại trừ việc cần thiết phải thực hiện
các thử nghiệm cơ bản. Những thử nghiệm cơ bản này có thể bao gồm cả
thủ tục xác nhận từ bên ngoài cho cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính.
11. Chuẩn mực kiểm toán số 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ” quy
định là nếu đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát càng cao thì bằng
chứng kiểm toán mà kiểm toán viên và công ty kiểm toán cần thu thập từ
thực hiện các thử nghiệm cơ bản càng phải nhiều. Vì thế, khi mức độ đánh
giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát tăng lên thì kiểm toán viên cần thiết
lập các thử nghiệm cơ bản để thu thập thêm bằng chứng kiểm toán thích
hợp về một cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính. Trong những trường hợp
này việc sử dụng thủ tục xác nhận từ bên ngoài sẽ có hiệu quả trong việc
cung cấp đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp.
12. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá càng thấp, thì sự đảm
bảo mà kiểm toán viên cần đạt được từ các thử nghiệm cơ bản càng ít để
đưa ra ý kiến về cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính.
13. Những giao dịch phức tạp hoặc bất thường có thể dẫn tới mức độ rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm soát cao hơn các giao dịch thông thường. Nếu đơn
vị được kiểm toán phát sinh giao dịch bất thường hoặc phức tạp và mức độ
rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá ở mức cao thì kiểm toán
viên phải xem xét việc xác nhận từ bên ngoài về các nội dung liên quan đến
các nghiệp vụ này với các bên liên quan khác trong việc kiểm tra tài liệu
được giữ tại đơn vị.
Cơ sở dẫn liệu cần xác nhận từ bên ngoài
14. Chuẩn mực kiểm toán số 500 “Bằng chứng kiểm toán” quy định cơ sở dẫn
liệu của báo cáo tài chính phải có các tiêu chuẩn: Hiện hữu, quyền và nghĩa
vụ, phát sinh, đầy đủ, đánh giá, chính xác, trình bày và công bố. Mặc dù xác
nhận từ bên ngoài có thể cung cấp bằng chứng kiểm toán liên quan đến
những cơ sở dẫn liệu này, nhưng vì khả năng của một xác nhận từ bên ngoài
cung cấp bằng chứng kiểm toán thích hợp cho một cơ sở dẫn liệu cụ thể
của báo cáo tài chính là khác nhau.
15. Xác nhận từ bên ngoài về một khoản phải thu, cung cấp bằng chứng kiểm
toán đáng tin cậy về sự hiện hữu của một khoản tài sản tại một thời điểm
nhất định. Xác nhận từ bên ngoài cũng có thể cung cấp bằng chứng về sự
hạch toán đúng kỳ của khoản phải thu. Tuy nhiên, sự xác nhận này thông
thường không cung cấp tất cả những bằng chứng kiểm toán cần thiết liên
quan tới việc xác định giá trị, vì sẽ là không thực tế nếu đề nghị người nợ
xác nhận thông tin chi tiết liên quan tới khả năng trả nợ của họ.
16. Trường hợp hàng hóa gửi đi bán, xác nhận từ bên ngoài cũng cung cấp những
bằng chứng đáng tin cậy về sự hiện hữu, quyền và nghĩa vụ của tài sản nhưng
không thể cung cấp bằng chứng đầy đủ về xác định giá trị hoặc khả năng bán
hàng của hàng hóa đó.
17. Sự thích hợp của thông tin xác nhận từ bên ngoài đối với cơ sở dẫn liệu
của báo cáo tài chính cũng bị ảnh hưởng bởi mục tiêu của kiểm toán viên
trong quá trình lựa chọn các thông tin cần xác nhận. Ví dụ: Khi kiểm toán
tính đầy đủ của các khoản nợ phải trả, kiểm toán viên và công ty kiểm toán
cần thu thập những bằng chứng cho thấy không có bất kỳ khoản nợ trọng
yếu nào chưa được hạch toán. Do đó, việc gửi thư yêu cầu xác nhận tới các
nhà cung cấp lớn của đơn vị được kiểm toán đề nghị họ gửi bản kê về các
khoản phải thu của họ trực tiếp cho kiểm toán viên, kể cả trường hợp sổ kế
toán của đơn vị không thể hiện số nợ phải trả nào cho nhà cung cấp này tại
thời điểm đó thường có hiệu quả cao trong việc phát hiện các khoản nợ
phải trả đã không được hạch toán, hơn là việc chọn ra các tài khoản dựa trên
số dư lớn trong sổ kế toán chi tiết tài khoản phải trả để gửi thư xác nhận.
18. Khi thu thập bằng chứng kiểm toán cho cơ sở dẫn liệu không được đánh
giá đầy đủ bằng việc xác nhận thì kiểm toán viên cần thực hiện những thủ
tục kiểm toán khác để bổ sung cho thủ tục xác nhận hoặc có thể thay thế
thủ tục xác nhận.
Thiết lập nội dung thông tin cần xác nhận từ bên ngoài
19. Kiểm toán viên và công ty kiểm toán cần thiết lập những nội dung
thông tin cần xác nhận từ bên ngoài phù hợp với những mục tiêu kiểm
toán cụ thể. Khi thiết lập những yêu cầu đó, kiểm toán viên cần xem xét
các cơ sở dữ liệu được kiểm toán và những nhân tố có thể ảnh hưởng đến
độ tin cậy của sự xác nhận. Những nhân tố như hình thức, yêu cầu xác
nhận, kinh nghiệm của các cuộc kiểm toán trước đó hay của các cuộc kiểm
toán tương tự, tính chất của những thông tin được xác nhận, và đối tượng
yêu cầu xác nhận, đều có ảnh hưởng đến việc thiết lập yêu cầu bởi những
nhân tố này có ảnh hưởng trực tiếp đến độ tin cậy của bằng chứng thu thập
được thông qua thủ tục xác nhận từ bên ngoài.
20. Khi thiết lập các nội dung thông tin cần xác nhận, kiểm toán viên và công ty
kiểm toán cần cân nhắc tới các loại thông tin mà người được yêu cầu có thể
sẵn sàng xác nhận ngay, vì điều này có thể ảnh hưởng đến tỉ lệ phúc đáp và
nội dung của bằng chứng thu thập được. Ví dụ, hệ thống kế toán của một
số đơn vị được yêu cầu xác nhận chỉ có thể trợ giúp cho việc xác nhận
những giao dịch đơn lẻ hơn là số dư tài khoản tổng hợp. Hơn nữa người
được yêu cầu xác nhận không phải lúc nào cũng có thể xác nhận được một
số loại thông tin, ví dụ họ không xác nhận được số dư các khoản phải thu
tổng hợp, nhưng họ có thể xác nhận những hoá đơn riêng lẻ nằm trong số
dư tổng hợp đó.
21. Thông tin xác nhận từ bên ngoài thường phải được Ban Giám đốc đơn vị
được kiểm toán đồng ý và cung cấp thông tin cho kiểm toán viên. Sự phản
hồi có thể dễ dàng đạt được hơn với những yêu cầu xác nhận có sự đồng ý
của Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán. Kiểm toán viên và công ty kiểm
toán có thể không nhận được thư phúc đáp khi không được Ban Giám đốc
của đơn vị được kiểm toán đồng ý .
Sử dụng thư xác nhận đóng và mở
22. Kiểm toán viên có thể sử dụng thư xác nhận đóng hoặc mở hoặc kết hợp
cả hai.
23. Thư xác nhận mở (dạng khẳng định) là đề nghị người được yêu cầu trả
lời, ký nhận trong mọi trường hợp hoặc phúc đáp lại cho kiểm toán viên là
đồng ý hoặc không đồng ý với thông tin cần xác nhận bằng cách yêu cầu
điền vào thông tin. Một sự phản hồi các yêu cầu xác nhận mở thường cung
cấp bằng chứng kiểm toán đáng tin cậy. Tuy nhiên, có rủi ro là người được
đề nghị xác nhận có thể không kiểm tra thông tin là chính xác mà đã xác
nhận thì kiểm toán viên khó có thể phát hiện được điều đó. Tuy nhiên kiểm
toán viên có thể giảm rủi ro này xuống bằng cách sử dụng thư xác nhận mở
nhưng yêu cầu điền thông tin đúng vào chỗ cần phúc đáp hoặc cung cấp
những thông tin khác chứ không ghi rõ số liệu hoặc các thông tin khác cần
xác nhận. Ngoài ra, sử dụng thư xác nhận mở có thể ít nhận được thông tin
phản hồi do người phản hồi phải thực hiện một số công việc.
24. Thư xác nhận đóng (dạng phủ định) chỉ đòi hỏi sự phản hồi khi không đồng
ý với thông tin yêu cầu xác nhận. Khi đồng ý với thông tin xác nhận thì không
nhất thiết phải phản hồi. Tuy nhiên, nếu không có sự phản hồi từ yêu cầu
thư xác nhận đóng thì kiểm toán viên sẽ không có bằng chứng rõ ràng rằng
bên thứ ba đã nhận được yêu cầu xác nhận và xác minh rằng thông tin đã thu
thập được là đúng. Do đó, việc sử dụng thư xác nhận đóng (phủ định) thường
cung cấp bằng chứng ít tin cậy hơn so với việc sử dụng thư xác nhận mở
(khẳng định). Trường hợp này kiểm toán viên cần phải xem xét thực hiện các
thử nghiệm cơ bản bổ sung cho việc sử dụng thư xác nhận phủ định.
25. Thư xác nhận đóng (dạng phủ định) có thể được sử dụng để giảm rủi ro
kiểm toán xuống mức chấp nhận được khi:
Mức đánh giá về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát
a)
là thấp;
Có số lượng lớn các số dư nhỏ;
b)
Một số lượng đáng kể sai sót không được dự kiến;
c)
Kiểm toán viên không có lý do gì để cho rằng người
d)
phản hồi sẽ không quan tâm đến các yêu cầu này.
26. Có thể kết hợp cả thư xác nhận dạng khẳng định và thư xác nhận dạng phủ
định. Ví dụ, khi tổng số dư các khoản phải thu của đơn vị được kiểm toán bao
gồm chủ yếu là một số lượng nhỏ các số dư lớn hay một số lớn các số dư
nhỏ, Kiểm toán viên có thể quyết định rằng sẽ xác nhận tất cả hay chọn mẫu
các khách hàng có số nợ lớn với thư xác nhận khẳng định và chọn mẫu các
khách hàng có số dư nợ nhỏ với thư xác nhận phủ định.
Khi Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán không đồng ý gửi thư xác
nhận
27. Khi kiểm toán viên đề nghị gửi thư xác nhận các số dư nào đó hoặc
thông tin khác, nhưng Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán không
đồng ý, kiểm toán viên và công ty kiểm toán cần xem xét liệu điều đó có
hợp lý không và thu thập bằng chứng để chứng minh sự không đồng ý
của Ban Giám đốc có hợp lý hay không. Nếu kiểm toán viên đồng ý với
quyết định của Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán là không cần gửi
thư xác nhận từ bên ngoài liên quan đến một vấn đề cụ thể nào đó thì
kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải áp dụng các thủ tục thay thế
để thu thập đầy đủ bằng chứng thích hợp về vấn đề đó.
28. Nếu kiểm toán viên và công ty kiểm toán không chấp nhận quyết định
của Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán và bị cản trở trong việc gửi
thư xác nhận từ bên ngoài làm phát sinh các hạn chế về phạm vi kiểm
toán, khi đó kiểm toán viên và công ty kiểm toán cần xem xét ảnh
hưởng của các hạn chế đó đến Báo cáo kiểm toán.
29. Khi xem xét lý do mà Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán đưa ra, kiểm
toán viên và công ty kiểm toán cần đảm bảo tính thận trọng nghề nghiệp và
xem xét liệu yêu cầu này có liên quan đến tính chính trực của Ban Giám đốc
hay không. Kiểm toán viên xem xét liệu quyết định của Ban Giám đốc có thể
có sai sót và gian lận hay không. Nếu kiểm toán viên tin tưởng rằng có sai sót
và gian lận thì phải thực hiện theo quy định của Chuẩn mực kiểm toán số
240 “Gian lận và sai sót”. Kiểm toán viên cũng có thể xem xét liệu các thủ
tục thay thế có cung cấp đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp về vấn đề
này hay không.
Tính chất của thư phúc đáp
30. Sự tin cậy của bằng chứng kiểm toán được xác nhận từ bên ngoài bị ảnh
hưởng do năng lực, tính độc lập, thẩm quyền trả lời, sự hiểu biết về vấn
đề cần xác nhận và sự khách quan của người xác nhận. Với lý do này, nếu
có thể kiểm toán viên và công ty kiểm toán cần gửi thư yêu cầu xác nhận
trực tiếp tới cá nhân liên quan. Ví dụ, khi cần xác nhận là khoản nợ dài hạn
của doanh nghiệp đã hoặc sẽ được huỷ bỏ, kiểm toán viên cần gửi trực tiếp
thư xác nhận đến cán bộ của bên cho vay, người có đầy đủ hiểu biết về sự
huỷ bỏ này và có thẩm quyền cung cấp thông tin này.
31. Kiểm toán viên và công ty kiểm toán cũng cần xem xét trong trường hợp các
bên cần xác nhận không cung cấp các thông tin khách quan về yêu cầu cần
xác nhận. Thông tin về khả năng, kiến thức, thiện chí của các bên cần xác
nhận cũng là sự quan tâm của kiểm toán viên. Kiểm toán viên phải xem xét
ảnh hưởng của những thông tin đó trong việc thiết lập yêu cầu xác nhận
cũng như đánh giá các kết quả khác, bao gồm cả việc xem xét thêm các thủ
tục cần thiết khác. Kiểm toán viên cần xem xét sự chính xác và đầy đủ của
một số thư xác nhận gửi tới bên thứ ba, mà kiểm toán viên tin rằng sẽ được
cung cấp các bằng chứng kiểm toán thích hợp. Ví dụ kiểm toán viên có thể
phát hiện thấy một số giao dịch cuối năm tài chính là không bình thường làm
ảnh hưởng trọng yếu tới báo cáo tài chính hay các giao dịch với một bên thứ
ba có quan hệ kinh tế phụ thuộc vào đơn vị. Trường hợp đó, kiểm toán viên
và công ty kiểm toán cần xem xét liệu bên thứ ba có đưa ra các thông tin sai
lệch không.
Quá trình xác nhận từ bên ngoài
32. Khi thực hiện các thủ tục xác nhận từ bên ngoài, kiểm toán viên và
công ty kiểm toán phải kiểm soát thủ tục lựa chọn đối tượng gửi yêu
cầu xác nhận và hình thức thư phản hồi từ bên ngoài. Công việc kiểm
soát được duy trì giữa những người này và kiểm toán viên nhằm giảm thiểu
khả năng các kết quả xác nhận là không khách quan do các yêu cầu xác nhận
và thông tin phản hồi bị ngăn chặn hoặc bị thay đổi. Ngoài ra, kiểm toán viên
cũng cần phải đảm bảo rằng đã gửi các nội dung đề nghị xác nhận đến
đúng địa chỉ và các phản hồi sẽ được gửi trực tiếp tới kiểm toán viên. Kiểm
toán viên cũng phải xem xét tới việc các thông tin phản hồi có được gửi cho
những người liên quan hay không.
Không có sự phản hồi về các yêu cầu xác nhận
33. Kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải thực hiện các thủ tục kiểm
toán khác thay thế khi không nhận được thư xác nhận từ bên ngoài.
Các thủ tục kiểm toán bổ sung đó phải cung cấp đầy đủ bằng chứng
kiểm toán thích hợp về các cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính mà yêu
cầu xác nhận định đưa ra.
34. Trường hợp không nhận được thông tin phản hồi, kiểm toán viên và công ty
kiểm toán thường phải tiếp xúc với bên đã nhận yêu cầu xác nhận để lấy
thông tin phản hồi. Nếu vẫn không lấy được, kiểm toán viên và công ty kiểm
toán sẽ sử dụng các thủ tục kiểm toán khác thay thế. Bản chất của các thủ tục
này có thể thay đổi tùy thuộc vào tài khoản và cơ sở dẫn liệu liên quan. Đối với
các khoản nợ phải thu, thủ tục thay thế có thể bao gồm việc kiểm tra thủ tục
thu tiền sau đó từ các khoản nợ phải thu này; kiểm tra các vận đơn đường biển,
hoặc các tài liệu khác của khách hàng để cung cấp bằng chứng cho sự hiện
hữu, kiểm tra việc khóa sổ bán hàng nhằm cung cấp bằng chứng cho tính đầy
đủ. Đối với các khoản nợ phải trả, thủ tục thay thế bao gồm cả việc kiểm tra
thủ tục thanh toán tiền sau đó cho các khoản nợ phải trả này, hoặc công văn,
thư từ từ các bên thứ ba có thể cung cấp bằng chứng xác nhận tính hiện hữu,
đồng thời kiểm tra các giấy tờ khác như các phiếu nhận hàng, nhằm cung cấp
bằng chứng cho tính đầy đủ.
Độ tin cậy của các thông tin phản hồi đã nhận được
35. Kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải xem xét những thông tin xác nhận
từ bên ngoài đã nhận được có đáng tin cậy hay không. Kiểm toán viên sẽ
xem xét đến tính chính xác của những thông tin phản hồi đồng thời phải
thực hiện các thủ tục để xác định tính trung thực của thông tin phản hồi.
Kiểm toán viên có thể thẩm định lại nguồn và nội dung của thông tin phản
hồi qua điện thoại đối với người gửi thông tin đó. Ngoài ra, kiểm toán viên
có thể đề nghị người xác nhận gửi bản gốc trực tiếp cho mình. Cùng với sự
phát triển ngày càng cao trong việc sử dụng công nghệ, kiểm toán viên ngày
càng quan tâm đến tính chính xác của nguồn thông tin phản hồi mà họ nhận
được thông qua các hình thức lưu chuyển điện tử như fax hay thư điện tử.
Sự xác nhận bằng lời nói phải được ghi bằng văn bản. Nếu những thông tin
xác nhận bằng lời nói là quan trọng, kiểm toán viên nên đề nghị bên liên
quan gửi Thư xác nhận qua giấy tờ trực tiếp tới kiểm toán viên.
Các nguyên nhân và tần suất của các ngoại lệ
36. Khi kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra kết luận rằng quá
trình xác nhận và các thủ tục kiểm toán thay thế không cung cấp đầy
đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp đối với các nội dung cần xác
nhận, kiểm toán viên sẽ tiến hành thêm các thủ tục kiểm toán khác
nhằm có được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp về các nội
dung đó.
Trong phần kết luận, kiểm toán viên cần chú ý đến những vấn đề sau:
a) Độ tin cậy của các xác nhận và các thủ tục thay thế;
Bản chất của các ngoại lệ, bao gồm cả các ảnh hưởng, số
b)
lượng và chất lượng của các ngoại lệ này;
Các bằng chứng được cung cấp bởi các thủ tục kiểm toán
c)
khác.
Dựa trên các đánh giá này, kiểm toán viên sẽ quyết định có cần hay không
cần các thủ tục kiểm toán bổ sung nhằm có được đầy đủ các bằng chứng
kiểm toán thích hợp.
37. Kiểm toán viên cần xem xét đến các nguyên nhân cũng như tần suất của các
ngoại lệ được đưa ra bởi các bên phản hồi. Một ngoại lệ có thể chỉ ra một
sai sót trong các tài liệu kế toán của đơn vị. Trường hợp này, kiểm toán viên
cần xác định nguyên nhân của sai sót, đồng thời xem xét những ảnh hưởng
trọng yếu của nó đến báo cáo tài chính. Nếu một ngoại lệ chỉ ra sai sót,
kiểm toán viên phải xem xét lại tính chất, lịch trình và phạm vi của các thủ
tục kiểm toán cần thiết để cung cấp đầy đủ bằng chứng theo yêu cầu.
Đánh giá kết quả của quá trình gửi thư xác nhận
38. Kiểm toán viên sẽ đánh giá các kết quả của quá trình gửi thư xác nhận
từ bên ngoài cùng với kết quả của bất kỳ thủ tục kiểm toán nào khác
được thực hiện, nhằm cung cấp các bằng chứng kiểm toán thích hợp
và đầy đủ, liên quan đến việc xác nhận báo cáo tài chính được kiểm
toán. Đối với việc đánh giá này, kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải
tuân theo Chuẩn mực kiểm toán số 530 “Lấy mẫu kiểm toán và các thủ tục
lựa chọn khác”.
Xác nhận từ bên ngoài trước khi năm tài chính kết thúc
39. Khi kiểm toán viên sử dụng thư xác nhận trước ngày kết thúc niên độ làm
bằng chứng cho một cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính, kiểm toán viên
cần phải thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để chứng
tỏ các giao dịch có liên quan đến cơ sở dẫn liệu đó phát sinh trong khoảng
thời gian giữa ngày xác nhận và ngày kết thúc niên độ không bị sai sót trọng
yếu. Trên thực tế, khi mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được
đánh giá ở mức độ thấp và trung bình, kiểm toán viên thường có thể quyết
định gửi thư xác nhận số dư tại một ngày khác với ngày kết thúc kỳ kế toán
năm. Ví dụ, khi cuộc kiểm toán được yêu cầu phải hoàn thành trong một
khoảng thời gian ngắn sau khi kết thúc kỳ kế toán năm. Cũng như các công
việc kiểm toán khác được thực hiện trước khi năm tài chính kết thúc, kiểm
toán viên sẽ phải xem xét đến việc thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán
thích hợp liên quan đến quãng thời gian còn lại của năm tài chính.