Hà Tĩnh1
Tham khảo tài liệu 'hà tĩnh1', giải trí - thư giãn, du lịch phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Tỉnh Hà Tĩnh
Hà Tĩnh
Hà Tĩnh là một tỉnh ven biển
thuộc vùng Bắc Trung Bộ Việt
Nam.
Vị trí
Hà Tĩnh trải dài từ 17°54’ đến
18°50’ vĩ Bắc và từ 103°48’ đến
108°00’ kinh Đông. Phía bắc giáp
tỉnh Nghệ An, phía nam giáp tỉnh
Quảng Bình, phía tây giáp nước
Lào, phía đông giáp biển Đông.
Tỉnh Việt Nam
Địa hình
Chính trị và hành chính
Hà Tĩnh cách Hà Nội 340 km, ở Bí thư tỉnh ủy Nguyễn Thanh Bình
phía đông dãy Trường Sơn với địa
hình hẹp, dốc và nghiêng từ tây Chủ tịch HĐND Nguyễn Thanh Bình
sang đông. Phía tây tỉnh là những
Chủ tịch UBND Lê Văn Chất
dãy núi cao 1.500 m, đỉnh Rào Cọ
2.235 m, phía dưới là vùng đồi Địa lý
thấp giống bát úp; tiếp nữa là dải
đồng bằng nhỏ hẹp chạy ra biển; Tỉnh lỵ Hà Tĩnh (thành phố)
sau cùng là những bãi cát ven biển Miền Bắc Trung Bộ
cùng với nhiều vũng, vịnh,tiêu biểu
là cảng biển nước sâu Vũng Áng Diện tích 6.055,6 km²
và bãi biển Thiên Cầm.
Các thị xã /
1 thành phố, 1 thị xã, 10 huyện
huyện
Khí hậu Nhân khẩu
Nằm trong khu vực nhiệt đới gió Số dân 1.286.700 người
mùa, ngoài ra Hà Tĩnh còn chịu ảnh • Mật độ 212 người/km²
hưởng của khí hậu chuyển tiếp
của miền Bắc và miền Nam, với Dân tộc Việt, Thái, Chứt, Mường
đặc trưng khí hậu nhiệt đới điển
hình của miền Nam và có một mùa
đông giá lạnh của miền Bắc, nên Mã điện thoại 393
thời tiết, khí hậu rất khắc nghiệt. Mã bưu chính: 43
Hàng năm, Hà Tĩnh có hai mùa rõ
rệt: ISO 3166-2 VN-23
Website [1]
• Mùa mưa: Mưa trung bình
hằng năm từ 2500 ly đến Biển số xe: 38
2650 ly. Hạ tuần tháng 8,
tháng 9 và trung tuần tháng
11 lượng mưa chiếm 54% tổng lượng mưa cả năm.
• Mùa khô: Từ tháng 12 đến tháng 7 năm sau. Đây là mùa nắng gắt, có gió Tây
Nam (thổi từ Lào) khô, nóng, lượng bốc hơi lớn.
Lịch sử
• Thời các vua Hùng dựng nước Văn Lang liên bộ lạc, theo Đại Việt sử ký toàn
thư, Hà Tĩnh thuộc bộ Cửu Đức
• Thời nhà Hán, thuộc huyện Hàm Hoan thuộc quận Cửu Chân
• Thời nhà Ngô, thuộc Cửu Đức
• Thời nhà Đinh, nhà Tiền Lê: gọi là Hoan Châu
• Năm 1030, bắt đầu gọi là châu Nghệ An
• Từ năm 1490 gọi là xứ Nghệ An
• Thời Tây Sơn, gọi là Nghĩa An trấn
• Nhà Nguyễn năm Gia Long nguyên niên lại đặt làm Nghệ An trấn
• Năm 1831, vua Minh Mạng chia trấn Nghệ An thành 2 tỉnh: Nghệ An (phía Bắc
sông Lam); Hà Tĩnh (phía nam sông Lam).
• Năm Tự Đức thứ 6 (năm 1853) đổi tỉnh Hà Tĩnh làm đạo, hợp vào Nghệ An
thành An Tĩnh;
• Năm thứ 29 (năm 1876) lại đặt tỉnh Hà Tĩnh như cũ.
• Từ năm 1976-1991, Nghệ An và Hà Tĩnh là một tỉnh và được gọi là tỉnh Nghệ
Tĩnh
• Năm 1991, tỉnh Nghệ Tĩnh lại tách ra thành Nghệ An và Hà Tĩnh như ngày nay
• Năm 1992, Thị xã Hồng Lĩnh thuộc tỉnh Hà Tĩnh trên cơ sở: thị trấn Hồng Lĩnh;
xã Đức Thuận, xã Trung Lương; một phần xã Đức Thịnh thuộc huyện Đức
Thọ; các xã Đậu Liêu và Thuận Lộc thuộc huyện Can Lộc.
• Năm 2000, huyện Vũ Quang được thành lập trên cơ sở tách 6 xã thuộc huyện
Đức Thọ, 5 xã thuộc huyện Hương Khê và 1 xã thuộc huyện Hương Sơn.
• Năm 2007, huyện Lộc Hà được thành lập trên cơ sở 7 xã ven biển của huyện
Can Lộc và 6 xã ven biển của huyện Thạch Hà.
Dân cư
Hà Tĩnh có 1.286.700 người[cần dẫn nguồn], trên 20 dân tộc cùng sinh sống, nhưng chủ yếu
là người Kinh; các dân tộc khác, mỗi dân tộc chỉ có vài trăm hoặc vài chục
người[cần dẫn nguồn].
Đất
Hà Tĩnh có diện tích tự nhiên 6.055,7 km². trong đó:
• Đất ở: 6.799 ha
• Đất nông nghiệp: 98.171 ha
• Đất lâm nghiệp: 240.529 ha
• Đất chuyên dùng: 45.672 ha
• Đất chưa sử dụng: 214.403 ha
Sông
Hà Tĩnh có nhiều sông nhỏ và bé chảy qua, con sông lớn nhất là sông La và sông Lam,
ngoài ra có con sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu, Ngàn Trươi, Rào Cái, Tổng chiều dài các
con sông khoảng 400 km, tổng sức chứa 13 tỷ m³. còn hồ Kẻ Gỗ, hồ Sông Rác, hồ
Cửa Thờ Trại Tiểu...ước 600 triệu m³ [2].
Tài nguyên biển
Hà Tĩnh có bờ biển dài (?). Trữ lượng nhiều khoảng 85,8 nghìn tấn cá, 3,5 nghìn tấn
mực và 600 tấn tôm [3]
Rừng
Tỉnh Hà Tĩnh có trên 300.000 ha rừng và đất rừng [cần dẫn nguồn], trong đó diện tích rừng
chiếm 66%, còn lại chưa có rừng, gồm trên 100.000 ha đất trống đồi núi trọc, đất bụi
và bãi cát. Rừng tự nhiên (164.978 ha)[cần dẫn nguồn] hiện chủ yếu phân bố ở vùng núi cao,
xa các trục giao thông, trong đó rừng sản xuất kinh doanh 100.000 ha, rừng phòng hộ
63.000 ha, độ che phủ 38% so với diện tích đất tự nhiên. Rừng giàu chỉ chiếm 10%,
rừng trung bình 40%, còn lại 50% là rừng nghèo kiệt. Đất không có rừng 151.000 ha,
chiếm 24,4% diện tích tự nhiên của tỉnh, trong đó một số diện tích ở sườn đồi đang bị
xói mòn. Trữ lượng gỗ 20 triệu m³[cần dẫn nguồn], hàng năm khai thác chừng 2-3 vạn m³;
những năm gần đây thực hiện chính sách đóng cửa rừng nên lượng gỗ khai thác hàng
năm đã giảm nhiều.Thực vật của rừng đa dạng và phong phú, có trên 86 họ và trên 500
loại cây dạng thân gỗ[cần dẫn nguồn], trong đó có nhiều loại gỗ quý như: lim, sến, táu, mật,
đinh, gõ, pơmu và các loại động vật quý hiếm như: voi, hổ, báo, vượn đen, sao la.
Hà Tĩnh có khu vườn quốc gia Vũ Quang rộng 56 nghìn ha với 307 loài thực vật bậc
cao thuộc 236 chi và 99 họ, 60 loài thú, 187 loài chim, 38 loài bò sát, 26 loài lưỡng cư
và 56 loài cá[cần dẫn nguồn]. Đặc biệt, ở rừng Vũ Quang đã phát hiện ra sao la và mang lớn
là hai loại thú quý hiếm chưa có tên trong danh mục thú của thế giới [4].
Hành chính
Hà Tĩnh có 12 đơn vị hành chính cấp huyện gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 10 huyện với
259 xã, phường và thị trấn:
• Huyện Đức • Huyện Nghi Xuân
• Thành phố Hà Thọ • Huyện Thạch Hà
Tĩnh (tỉnh lỵ) • Huyện • Huyện Vũ Quang[6]
• Thị xã Hồng Hương Khê
Lĩnh [5] • Huyện Lộc Hà (mới
• Huyện Cẩm • Huyện thành lập 7/2/2007).
Xuyên Hương Sơn
• Huyện Can Lộc • Huyện Kỳ
Anh
Kinh tế
Cơ cấu kinh tế (năm nào?):
• Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản: 42,5%
• Công nghiệp, xây dựng: 21,5%
• Dịch vụ: 36%
• GDP/người: 4.579.000 VND/năm (2005)
• Tốc độ tăng trưởng GDP: trung bình 8% trong 5 năm (2000-2005)
Văn hóa
Hà Tĩnh là một vùng đất nằm trên dải đất miền Trung thiên nhiên không mấy ưu đãi,
nhưng lại được coi là nơi "địa linh nhân kiệt" [7], [8]. Nhiều làng quê ở Hà Tĩnh nổi
tiếng văn chương, khoa bảng và anh hùng [9].
Núi Hồng Lĩnh với 99 ngọn cùng sông Ngàn Phố, sông Ngàn Sâu và sông La, sông Lam
là nguồn cảm hứng cho các thế hệ thi nhân, nhạc sĩ. Núi Hồng Lĩnh là một trong số
các địa danh được khắc vào Bách khoa thư cửu đỉnh hiện đang đặt tại cố đô Huế.
Phía đông Hồng Lĩnh là làng Tiên Điền của đại thi hào Nguyễn Du, tác giả của
Truyện Kiều. Phía tây nam núi Hồng lĩnh là làng "Bát cảnh Trường Lưu" của dòng họ
Nguyễn Huy. Hai làng văn hiến ở hai sườn đông và tây núi Hồng Lĩnh ấy đã tạo nên
một Hồng Sơn văn phái với những tác phẩm tiêu biểu như Hoa tiên (của Nguyễn Huy
Tự), Mai Đình mộng ký (của Nguyễn Huy Hổ), Truyện Kiều.
Các làng Thu Hoạch, Trường Lưu, Tiên Điền, Uy Viễn, Đông Thái, Yên Hội, Gôi Mỹ,
Thần Đầu, Trung Lễ, Bùi Xá, Ích Hậu, Trung Lương, Ân Phú... nổi danh về truyền
thống học hành, khoa bảng và văn chương [10].
Đây là quê hương của các danh nhân như vua Mai Hắc Đế, Trạng nguyên Đào Tiêu,
nhà sử học Sử Hy Nhan (đời nhà Trần), của hai vị tướng Đặng Tất và Đặng Dung, quê
hương của Nguyễn Biểu (nhà ngoại giao thời nhà Trần và tác giả bài thơ ăn cỗ đầu
người khi đi sứ), Bảng nhãn Lê Quảng Chí, Bảng nhãn Trần Bảo Tín, thầy địa lý Tả
Ao, quê ngoại của danh y Hải Thượng Lãn ÔngLê Hữu Trác (thời Hậu Lê), của Ngự
sử Bùi Cầm Hổ (thời Lê sơ), Tam nguyên Hoàng giáp Tể tướng lục bộ Nguyễn Văn
Giai (đầu đời Lê trung hưng), La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp (quân sư tối cao của
Quang Trung), của nhà bác học Phan Huy Chú, nhà ngoại giao Phan Huy Ích, của đại
doanh điền- nhà thơ Nguyễn Công Trứ, của nhà sử học Trần Trọng Kim (thủ tướng
đầu tiên của Chính phủ Đế quốc Việt Nam hay Việt Nam nói chung), của nhà yêu
nước Phan Đình Phùng, của các nhà cách mạng Trần Phú và Hà Huy Tập (Tổng bí thư
của Đảng Cộng sản Đông Dương), quê hương của nhà khoa học Hoàng Xuân Hãn,
nhà toán học Lê Văn Thiêm, nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện, nhà thơ Xuân Diệu, nhà
thơ Huy Cận (Cù Huy Cận), danh họa Nguyễn Phan Chánh, nhà nghiên cứu văn hóa
dân gian Nguyễn Đổng Chi, nhà vật lý hạt nhân Nguyễn Đình Tứ, nhà dân tộc học
Nguyễn Từ Chi, các nhà sử học Phan Huy Lê, Đinh Xuân Lâm, nhà khảo cổ học Hà
Văn Tấn, v.v.
Hà Tĩnh còn có nhiều làng văn nghệ nổi tiếng trong vùng như: làng hát ca trù Cổ Đạm,
chèo Kiều Xuân Liên, hát ví phường vải Trương Lưu, hò ví dặm Đan Du, Phong Phú...
Nhiều làng nền nếp, phong lưu có nhiều lễ hội, hương ước, phong tục như: Kim
Chùy, Hội Thống, Đan Trường, Kim Đôi, Phù Lưu Thượng... Các làng truyền thống
với những giọng hò nổi tiếng quanh núi Hồng Lĩnh, ven dòng sông Lam, sông La, sông
Ngàn Sâu, sông Ngàn Phố đã để lại nhiều thơ văn và trước tác.
Du lịch
• Bãi biển Thiên Cầm, Xuân Thành, Chân Tiên
• Khu du lịch sinh thái hồ Kẻ Gỗ, suối nước nóng Sơn Kim
• Chùa Hương tích núi Hồng
Di tích
• Khu di tích lich sử Ngã ba Đồng Lộc
• Khu lưu niệm đại thi hào Nguyễn Du
• Khu di tích đại danh y Hải Thượng Lãn Ông
• Đền thờ Nguyễn Biểu:
• Đền thờ Song Trạng
• Mộ Song Trạng ở Ân Phú
• Đền thờ Bùi Cầm Hổ
• Mộ Phan Đình Phùng
• Nhà thờ Phan Đình Phùng
• Khu lưu niệm Trần Phú
• Nhà thờ và mộ Lê Bôi
• Đền thờ Lê Quảng Ý và Lê Quảng Chí
• Nhà thờ Nguyễn Công Trứ
• Đình Hội Thống
• Đền Chiêu Trưng
• Đền Củi: thờ Đức Hoàng Mười
• Chù Am
• Điện thờ Lê Triều Hoàng Hậu ở Ân Phú với 7 sắc phong
• Đền Võ Miếu
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia