Hà Nội
Tài liệu tham khảo về Hà Nội
Hà Nội
Hà Nội là thủ đô, đồng thời cũng là thành phố lớn thứ hai Việt Nam về dân số với
6,233 triệu người. Thuộc đồng bằng sông Hồng trù phú, nơi đây đã sớm trở thành một
trung tâm chính trị và tôn giáo ngay từ những buổi đầu của lịch sử Việt Nam. Năm
1010, Lý Công Uẩn, vị vua đầu tiên của nhà Lý, quyết định xây dựng kinh đô mới ở
vùng đất này với cái tên Thăng Long. Trong suốt thời kỳ của những triều đại Lý,
Trần, Lê, kinh thành Thăng Long là nơi buôn bán, trung tâm văn hóa, giáo dục của cả
miền Bắc. Khi Tây Sơn rồi nhà Nguyễn lên nắm quyền trị vì, kinh đô được chuyển về
Huế và Thăng Long bắt đầu mang tên Hà Nội từ năm 1831, dưới thời vua Minh Mạng.
Năm 1902, Hà Nội trở thành thủ đô của Liên bang Đông Dương và được người Pháp
xây dựng, quy hoạch lại. Trải qua hai cuộc chiến tranh, Hà Nội là thủ đô của miền
Bắc rồi nước Việt Nam thống nhất và giữ vai trò này cho tới ngày nay.
Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, Hà Nội hiện nay có diện
tích 3.324,92 km², gồm một thị xã, 10 quận và 18 huyện ngoại thành. Cùng với Thành
phố Hồ Chí Minh, Hà Nội là một trong hai trung tâm kinh tế của cả quốc gia. Năm
2007, GDP của thành phố tăng khoảng 12,1%, tổng giá trị xuất khẩu đạt trên 4 tỷ
USD, tổng thu ngân sách khoảng 45.709 tỷ đồng. Hà Nội cũng là một trung tâm văn
hóa, giáo dục với các nhà hát, bảo tàng, các làng nghề truyền thống, những cơ quan
truyền thông cấp quốc gia và các trường đại học lớn.
Nhưng cũng giống như Thành phố Hồ Chí Minh, việc dân số tăng quá nhanh cùng quá
trình đô thị hóa không được quy hoạch tốt đã khiến Hà Nội trở thành một thành phố
chật chội, ô nhiễm và giao thông nội ô thường xuyên ùn tắc. Nhiều di sản kiến trúc
của thành phố đang dần biến mất, thay thế bởi những ngôi nhà ống nằm lộn xộn trên
khắp các con phố. Hà Nội còn là một thành phố phát triển không đồng đều với nhiều
khu vực ngoại thành lạc hậu, nơi người dân vẫn chưa có được những điều kiện sinh
hoạt thiết yếu.
Địa lý
Vị trí, địa hình
Nằm ở phía tây bắc của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, Hà Nội có vị trí từ
20°53' đến 21°23' vĩ độ Bắc và 105°44' đến 106°02' kinh độ Đông, tiếp giáp với các
tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc, Hà Nam, Hòa Bình phía Nam, Bắc Giang,
Bắc Ninh và Hưng Yên phía Đông, Hòa Bình cùng Phú Thọ phía Tây.[1][2] Sau đợt mở
rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, thành phố có diện tích 3.324,92 km²,
nằm ở cả hai bên bờ sông Hồng, nhưng tập trung chủ yếu bên hữu ngạn.[2]
Có thể nhận thấy địa hình Hà Nội thấp dần theo hướng từ Bắc xuống Nam và từ Tây
sang Đông với độ cao trung bình từ 5 đến 20 mét so với mực nước biển.[3] Nhờ phù sa
bồi đắp, ba phần tư diện tích tự nhiên của Hà Nội là đồng bằng, nằm ở hữu ngạn
sông Đà, hai bên sông Hồng và chi lưu các con sông khác. Phần diện tích đồi núi phần
lớn thuộc các huyện Sóc Sơn, Ba Vì, Quốc Oai, Mỹ Đức, với các đỉnh như Ba Vì cao
1.281 m, Gia Dê 707 m, Chân Chim 462 m, Thanh Lanh 427 m, Thiên Trù 378 m... Khu
vực nội ô thành phố cũng có một số gò đồi thấp, như gò Đống Đa, núi Nùng.[2]
Thủy văn
Thành phố Hà Nội nằm cạnh sông Hồng và sông Đà, hai con sông lớn của miền Bắc.
Sông Hồng dài 1.183 km, bắt nguồn từ Vân Nam, Trung Quốc, chảy vào Hà Nội ở
huyện Ba Vì và ra khỏi thành phố ở khu vực huyện Phú Xuyên tiếp giáp Hưng Yên.
Đoạn sông Hồng chảy qua Hà Nội dài 163 km, chiếm khoảng một phần ba chiều dài
của con sông này trên đất Việt Nam. Sông Đà là ranh giới giữa Hà Nội với Phú Thọ,
hợp lưu với dòng sông Hồng ở phía Bắc thành phố, khu vực huyện Ba Vì. Ngoài hai
con sông lớn kể trên, qua địa phận Hà Nội còn nhiều con sông khác như sông Đáy,
sông Đuống, sông Cầu, sông Cà Lồ... Nhiều con sông nhỏ cũng chảy trong khu vực
nội ô, như sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu... trở thành những đường tiêu thoát nước thải
của thành phố.[2]
Hà Nội cũng là một thành phố đặc biệt nhiều đầm hồ, dấu vết còn lại của các dòng
sông cổ. Trong khu vực nội thành, hồ Tây có diện tích lớn nhất, khoảng 500 ha, đóng
vai trò quan trọng trong khu cảnh đô thị, ngày nay được bao quanh bởi nhiều khách
sạn, biệt thự.[4] Hồ Gươm nằm ở trung tâm lịch sử của thành phố, khu vực sầm uất
nhất, luôn giữ một vị trí đặc biệt đối với Hà Nội. Trong khu vực nội ô có thể kể tới
những hồ nổi tiếng khác như Trúc Bạch, Thiền Quang, Thủ Lệ... Ngoài ra, còn nhiều
đầm hồ lớn nằm trên địa phận Hà Nội như Kim Liên, Liên Đàm, Ngải Sơn - Đồng
Mô, Suối Hai, Mèo Gù, Xuân Khanh, Tuy Lai, Quan Sơn...[2]
Do sự phát triển đô thị quá mạnh mẽ trong hai thập niên 1990 và 2000, phần lớn các
sông hồ Hà Nội hiện nay đều rơi vào tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng. Sông Tô Lịch,
trục tiêu thoát nước thải chính của thành phố, hàng ngày phải tiếp nhận khoảng
150.000 m³. Tương tự, sông Kim Ngưu nhận khoảng 125.000 m³ một ngày. Sông Lừ
và sông Sét trung bình mỗi ngày cũng đổ vào sông Kim Ngưu khoảng 110.000 m³. Đặc
biệt, lượng nước thải sinh hoạt và công nghiệp này đều có hàm lượng hóa chất độc
hại cao. Các sông mương nội và ngoại thành, ngoài vai trò tiêu thoát nước còn phải
nhận thêm một phần rác thải của người dân và chất thải công nghiệp. Những làng
nghề thủ công cũng góp phần vào gây nên tình trạng ô nhiễm này.[5]
Khí hậu
Khí hậu Hà Nội tiêu biểu cho vùng Bắc Bộ với đặc điểm của khí hậu nhiệt đới gió
mùa ẩm, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh, ít mưa. Thuộc vùng nhiệt đới,
thành phố quanh nǎm tiếp nhận lượng bức xạ Mặt Trời rất dồi dào và có nhiệt độ
cao. Và do tác động của biển, Hà Nội có độ ẩm và lượng mưa khá lớn, trung bình 114
ngày mưa một năm. Một đặc điểm rõ nét của khí hậu Hà Nội là sự thay đổi và khác
biệt của hai mùa nóng, lạnh. Mùa nóng kéo dài từ tháng 5 tới tháng 9, kèm theo mưa
nhiều, nhiệt độ trung bình 29,2ºC. Từ tháng 11 tới tháng 3 năm sau là khí hậu của mùa
đông với nhiệt độ trung bình 15,2ºC. Cùng với hai thời kỳ chuyển tiếp vào tháng 4 và
tháng 10, thành phố có đủ bốn mùa xuân, hạ, thu và đông.[6]
Khí hậu Hà Nội cũng ghi nhận những biến đổi bất thường. Vào tháng 5 năm 1926,
nhiệt độ tại thành phố được ghi lại ở mức kỷ lục 42,8°C. Tháng 1 năm 1955, nhiệt độ
xuống mức thấp nhất, 2,7°C.[1] Đầu tháng 11 năm 2008, một trận mưa kỷ lục đổ
xuống các tỉnh miền Bắc và miền Trung khiến 18 cư dân Hà Nội thiệt mạng và gây
thiệt hại cho thành phố khoảng 3.000 tỷ đồng.[7][8]
Khí hậu bình quân của Hà Nội
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
19 19 22 27 31 32 32 32 31 28 24
Trung bình cao °C (°F) (66) (67) (72) (80) (87) (90) (90) (89) (88) (82) (76) 22 (71)
Trung bình thấp °C 14 16 18 22 25 27 27 27 26 23 19
16 (60)
(°F) (58) (60) (65) (71) (77) (80) (80) (80) (78) (73) (66)
20.1 30.5 40.6 80 195.6 240 320 340.4 254 100.3 40.6 20.3
Lượng mưa mm (inch) (0.79) (1.20) (1.60) (3.15) (7.70) (9.45) (12.6) (13.4) (10.0) (3.95) (1.60) (0.80)
Dân cư
Nguồn gốc dân cư
Vào năm 1954, thành phố Hà Nội chỉ có 53 nghìn dân trên một diện tích 152 km². Có
thể nhận thấy một phần rất lớn trong số những cư dân đang sống ở Hà Nội hiện nay
không sinh ra tại thành phố này. Lịch sử của Hà Nội cũng đã ghi nhận dân cư của
thành phố có những thay đổi, xáo trộn liên tục qua thời gian. Ở những làng ngoại
thành, ven đô cũ, nơi người dân sống chủ yếu nhờ nông nghiệp, thường không có sự
thay đổi lớn. Nhiều gia đình nơi đây vẫn giữ được gia phả từ những thế kỷ 15, 16.
Nhưng trong nội ô, khu vực của các phường thương nghiệp và thủ công, dân cư xáo
trộn rất nhiều. Những thương nhân và thợ thủ công ít khi trụ nhiều đời tại một điểm.
Gặp khó khăn trong kinh doanh, những thời điểm sa sút, họ tìm tới vùng đất khác.
Cũng có những trường hợp, một gia đình có người đỗ đạt được bổ nhiệm làm quan
tỉnh khác và đem theo gia quyến, đôi khi cả họ hàng.[11]
Từ rất lâu, Thăng Long đã trở thành điểm đến của những người dân tứ xứ. Vào thế kỷ
15, dân các trấn về Thăng Long quá đông khiến vua Lê Thánh Tông có ý định buộc tất
cả phải về nguyên quán. Nhưng khi nhận thấy họ chính là lực lượng lao động và
nguồn thuế quan trọng, triều đình đã cho phép họ ở lại. Tìm đến kinh đô Thăng Long
còn có cả những cư dân ngoại quốc, phần lớn là người Hoa. Trong hơn một ngàn năm
Bắc thuộc, rất nhiều những người Hoa đã ở lại sinh sống thành phố này. Trải qua các
triều đại Lý, Trần, Lê, vẫn có những người Hoa tới xin phép cư ngụ lại Thăng Long.
Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, trong số 36 phường họp thành kinh đô Thăng Long
có hẳn một phường người Hoa, là phường Đường Nhân. Tương tự, không ít những
người Chăm cũng tìm tới và ở lại thành phố. Những thay đổi về dân cư vẫn diễn ra
liên tục và kéo dài cho tới ngày nay.[11]
Dân số
Các thống kê trong lịch sử cho thấy dân số Hà Nội tăng mạnh mẽ trong nửa thế kỷ
gần đây. Vào thời điểm năm 1954, khi quân đội Việt Minh tiếp quản Hà Nội, thành
phố có 53 nghìn dân, trên một diện tích 152 km². Đến năm 1961, thành phố được mở
rộng, diện tích lên tới 584 km², dân số 91.000 người. Năm 1978, Quốc hội quyết định
mở rộng thủ đô lần thứ hai với diện tích đất tự nhiên 2.136 km², dân số 2,5 triệu
người.[12] Tới năm 1991, địa giới Hà Nội tiếp tục thay đổi, chỉ còn 924 km², nhưng dân
số vẫn ở mức hơn 2 triệu người. Trong suốt thập niên 1990, cùng việc các khu vực
ngoại ô dần được đô thị hóa, dân số Hà Nội tăng đều đặn, đạt con số 2.672.122 người
vào năm 1999.[13] Sau đợt mở rộng địa giới gần đây nhất vào tháng 8 năm 2008, thành
phố Hà Nội có 6,233 triệu dân. So với con số 3,4 triệu vào cuối năm 2007, dân số
thành phố đã tăng 1,8 lần và Hà Nội cũng nằm trong 17 thủ đô có diện tích lớn nhất
thế giới.[14]
Mật độ dân số Hà Nội hiện nay, cũng như trước khi mở rộng địa giới hành chính,
không đồng đều giữa các quận nội ô và khu vực ngoại thành. Trên toàn thành phố, mật
độ dân cư trung bình 1.875 người/km² nhưng tại quận Đống Đa, mật độ lên tới 35.341
người/km². Trong khi đó, ở những huyện như ngoại thành như Sóc Sơn, Ba Vì, Mỹ
Đức, mật độ không tới 1.000 người/km². Sự khác biệt giữa nội ô và còn huyện ngoại
thành còn thể hiện ở mức sống, điều kiện y tế, giáo dục... Về cơ cấu dân số, theo số
liệu 1 tháng 4 năm 1999, cư dân Hà Nội và Hà Tây khi đó chủ yếu là người Kinh,
chiếm tỷ lệ 99,1%. Các dân tộc khác như Dao, Mường, Tày chiếm 0,9%. Năm 2006,
cũng trên địa bàn Hà Nội và Hà Tây, cư dân đô thị chiếm tỷ lệ 41,1% và cư dân nông
thôn là 58,1%, tỷ lệ nữ chiếm 50,7% và nam là 49,3%. Toàn thành phố hiện nay còn
khoảng 2,5 triệu cư dân sinh sống nhờ sản xuất nông nghiệp.[2]
Lịch sử
Thời kỳ tiền Thăng Long
Những di chỉ khảo cổ tại Cổ Loa cho thấy con người đã xuất hiện ở khu vực Hà Nội
từ cách đây 2 vạn năm, giai đoạn của nền văn hóa Sơn Vi. Nhưng đến thời kỳ băng
tan, biển tiến sâu vào đất liền, các cư dân của thời đại đồ đá mới bị đẩy lùi lên vùng
núi. Phải tới khoảng 4 hoặc 5 ngàn năm trước Công Nguyên, con người mới quay lại
sinh sống ở nơi đây. Các hiện vật khảo cổ giai đoạn tiếp theo, từ đầu thời đại đồ
đồng đến đầu thời đại đồ sắt, minh chứng cho sự hiện diện của Hà Nội ở cả bốn thời
đại văn hóa: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn.[15] Những cư dân Hà
Nội thời kỳ đó sinh sống nhờ trồng trọt, chăn nuôi và chài lưới. Giai đoạn tiền sử này
tương ứng với thời kỳ của các Vua Hùng trong truyền thuyết. Thế kỷ 3 trước Công
Nguyên, trong cuộc chiến với quân Tần từ phương Bắc, Thục Phán quyết định đóng
đô ở Cổ Loa, nay là huyện Đông Anh, cách trung tâm Hà Nội khoảng 15 km. Sự xuất
hiện của thành Cổ Loa ghi dấu Hà Nội lần đầu tiên trở thành một đô thị trung tâm về
chính trị và xã hội.[15]
Thất bại của Thục Phán đầu thế kỷ 2 trước Công Nguyên đã kết thúc giai đoạn độc
lập của Âu Lạc, bắt đầu giai đoạn một ngàn năm bị các triều đại phong kiến Trung
Hoa thống trị. Thời kỳ nhà Hán, nước Âu Lạc được chia thành ba quận Giao Chỉ, Cửu
Chân và Nhật Nam, Hà Nội khi đó thuộc quận Giao Chỉ. Vắng bóng trong trong sử
sách suốt năm thế kỷ đầu, đến khoảng năm 454–456, Hà Nội mới được ghi lại là trung
tâm của huyện Tống Bình. Năm 544, Lý Bí nổi dậy chống lại nhà Lương, tự xưng
hoàng đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Người cháu của Lý Bí là Lý Phật Tử tới đóng
đô ở Cổ Loa, nhưng nền độc lập này chỉ kéo dài tới năm 602. Thời kỳ Nhà Đường, An
Nam được chia thành 12 châu với 50 huyện, Tống Bình là trung tâm của An Nam đô hộ
phủ. Năm 866, viên tướng nhà Đường Cao Biền xây dựng một thành trì mới, Tống
Bình được đổi tên thành Đại La – thủ phủ của Tĩnh Hải quân. Theo truyền thuyết, khi
đắp thành, Cao Biền thấy một vị thần hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Vì vậy, sử
sách còn gọi Thăng Long là đất Long Đỗ.[16] Thế kỷ 10, sau chiến thắng của Ngô
Quyền trước quân Nam Hán, Cổ Loa một lần nữa trở thành kinh đô của nước Việt.[15]
Thăng Long, Đông Đô, Đông Kinh
Tượng đài vua Lý Công Uẩn tại Hà Nội
Sau khi lên ngôi năm 1009 tại Hoa Lư, năm 1010, Lý Công Uẩn quyết định dời đô về
Đại La. Theo một truyền thuyết phổ biến, khi tới Đại La, Lý Công Uẩn nhìn thấy một
con rồng bay lên, vì vậy đặt tên kinh thành mới là Thăng Long. Kinh thành Thăng Long
khi đó giới hạn bởi ba con sông: sông Hồng ở phía Đông, sông Tô phía Bắc và sông
Kim Ngưu phía Nam. Khu hoàng thành được xây dựng gần hồ Tây với cung điện
hoàng gia cùng các công trình chính trị. Phần còn lại của đô thị là những khu dân cư,
bao gồm các phường cả nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp. Ngay trong thế
kỷ 10, nhiều công trình tôn giáo nhanh chóng được xây dựng, chùa Diên Hựu phía Tây
hoàng thành xây năm 1049, chùa Báo Thiên xây năm 1057, Văn Miếu xây năm 1070,
Quốc Tử Giám dựng năm 1076... Chỉ sau một thế kỷ, Thăng Long trở thành trung tâm
văn hóa, chính trị và kinh tế của cả quốc gia.[17]
Nhà Trần nối bước nhà Lý cai trị Đại Việt, kinh thành Thăng Long tiếp tục được xây
dựng, hoàng thành được củng cố và xuất hiện thêm những cung điện mới. Năm 1230,
Thăng Long được chia thành 61 phường, kinh thành đông đúc hơn dù địa giới không
thay đổi. Giai đoạn này cũng ghi nhận sự xuất hiện của những cư dân ngoại quốc,
như người Hoa, người Java và người Ấn Độ. Nền kinh tế công thương nghiệp cũng
sản sinh tầng lớp thị dân và Thăng Long còn là nơi quy tụ của nhiều học giả, trí thức
như Hàn Thuyên, Lê Văn Hưu, Chu Văn An... Trong quốc chiến tranh với nhà Nguyên,
kinh thành Thăng Long ba lần bị chiếm giữ nhưng đều kết thúc trong chiến thắng của
Đại Việt.[18] Cuối thế kỷ 14, thời kỳ nhà Trần suy vi, một quý tộc ngoại thích là Hồ
Quý Ly thâu tóm quyền lực, ép vua Trần chuyển kinh đô về Thanh Hóa. Khi Hồ Quý
Ly chính thức lên ngôi, lập nên nước Đại Ngu năm 1400, kinh đô mới mang tên Tây
Đô, Thăng Long được đổi thành Đông Đô. Nhưng vương triều của nhà Hồ chỉ tồn tại
trong thời gian ngắn ngủi. Năm 1406, nhà Minh đưa quân xâm lược Đại Ngu, Thăng
Long bị chiếm đóng và đổi tên thành Đông Quan. Thời kỳ Bắc thuộc thứ tư bắt đầu từ
năm 1407 và kéo dài tới năm 1428.[19]
Sau chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi thành lập nhà Lê và Đông Đô cũng
lấy lại vị thế kinh thành. Năm 1430, thành phố được đổi tên thành Đông Kinh, đến
1466 được gọi là phủ Trung Đô. Hoàng thành Thăng Long dưới thời nhà Lê tiếp tục
được mở rộng. Bên cạnh, khu vực dân cư được chia thành 2 huyện Vĩnh Xương và
Quảng Đức, mỗi huyện 18 phường. Thời kỳ này, đứng đầu bộ máy hành chính là chức
phủ doãn. Thành phố tiếp tục một thời kỳ của những phường hội buôn bán, tuy bị hạn
chế bởi tư tưởng ức thương của nhà Lê.[20] Trong giai đoạn tranh giành quyền lực giữa
nhà Lê, nhà Mạc và chúa Trịnh, Thăng Long vẫn duy trì vị trí kinh đô. Sự phức tạp của
chính trị thời kỳ này cũng đem lại cho thành phố một điểm đặc biệt. Bên cạnh hoàng
thành của vua Lê, phủ Chúa Trịnh được xây dựng và là trung tâm quyền lực thực sự.
Nhờ nền kinh tế hàng hóa và sự phát triển của ngoại thương, đô thị Thăng Long bước
vào thời kỳ phồn vinh, thu hút thêm nhiều cư dân tới sinh sống. Nhà truyền giáo người
Pháp Alexandre de Rhodes ước tính dân số Thăng Long khi đó khoảng 1 triệu người.
William Dampier, nhà phiêu lưu người Anh, đưa ra con số thường được xem hợp lý
hơn, khoảng 2 vạn nóc nhà.[21]
Mùa hè năm 1786, quân Tây Sơn tiến ra miền Bắc lật đổ chính quyền của Chúa Trịnh,
chấm dứt hai thể kỷ chia cắt Đàng Trong – Đàng Ngoài. Sau khi Nguyễn Huệ cùng
quân Tây Sơn quay về miền Nam, năm 1788, nhà Thanh đưa quân xâm lược Đại Việt.
Tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ lên ngôi ngày 22 tháng 12 năm 1788 rồi đưa quân ra Bắc.
Sau chiến thắng ở trận Ngọc Hồi - Đống Đa, nhà Tây Sơn trị vì Đại Việt với kinh đô
mới ở Huế, Thăng Long trở thành thủ phủ của Bắc Thành, tức Bắc Bộ ngày nay.[22]
Thời nhà Nguyễn và Pháp thuộc
Triều đại Tây Sơn sụp đổ sau một thời gian ngắn ngủi, Gia Long lên ngôi năm 1802
lấy kinh đô ở Phú Xuân, bắt đầu nhà Nguyễn. Năm 1805, Gia Long cho phá tòa thành
cũ của Thăng Long, xây dựng thành mới mà dấu vết còn lại tới ngày nay, bao bọc bởi
các con đường Phan Đình Phùng, Hùng Vương, Trần Phú và Phùng Hưng. Năm 1831,
trong cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng, toàn quốc được chia thành 29 tỉnh,
Thăng Long thuộc tỉnh Hà Nội.[23] Với hàm nghĩa nằm trong sông, tỉnh Hà Nội khi đó
gồm 4 phủ, 15 huyện, nằm giữa sông Hồng và Sông Đáy.[24] Nền kinh tế Hà Nội nửa
đầu thế kỷ 19 cũng khác biệt so với Thăng Long trước đó. Các phường, thôn phía Tây
và Nam chuyên về nông nghiệp, còn phía Đông, những khu dân cư sinh sống nhờ
thương mại, thủ công làm nên bộ mặt của đô thị Hà Nội. Bên cạnh một số cửa ô được
xây dựng lại, Hà Nội thời kỳ này còn xuất hiện thêm những công trình tín ngưỡng, tôn
giáo như đền Ngọc Sơn, chùa Báo Ân...[23]
Năm 1858, Pháp bắt đầu nổ súng xâm chiếm Đông Dương. Sau khi chiếm ba tỉnh
Đông Nam Kỳ, quân đội Pháp dưới sự chỉ đạo của Francis Garnier tiến đến Hà Nội
đầu tháng 11 năm 1873. Mặc dù triều đình nhà Nguyễn chủ hòa, nhưng dân chúng Hà
Nội vẫn tiếp tục chống lại người Pháp dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương và
Hoàng Diệu. Năm 1884, Tự Đức ký hòa ước công nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn
bộ lãnh thổ Việt Nam, Hà Nội cũng bước vào thời kỳ thuộc địa.[25]
Ngày 19 tháng 7 năm 1888, Tổng thống Pháp Sadi Carnot ký sắc lệnh thành lập thành
phố Hà Nội. Đến năm 1902, Hà Nội trở thành thủ đô của toàn liên bang Đông Dương.
[12]
Nhờ sự quy hoạch của người Pháp, thành phố dần có được bộ mặt mới. Lũy thành
thời Nguyễn bị triệt hạ dần, đến năm 1897 thì kể như phá xong,[26] chỉ còn lại Cột Cờ,
Cửa Bắc với vết đạn năm 1873, Cửa Đoan môn và lan can rồng đá ở trong hoàng thành
cũ. Năm 1901, các công trình phủ Thống sứ, nhà bưu điện, kho bạc, nhà đốc lý... được
xây dựng. Hà Nội cũng có thêm trường đua ngựa, các nhà thờ Cơ Đốc giáo cùng những
nhà máy sản xuất bia, diêm, hàng dệt... Khi những nhà tư bản người Pháp tới Hà Nội
ngày một nhiều hơn, các rạp chiếu phim, nhà hát, khách sạn... dần xuất hiện, những
con phố cũng thay đổi để phù hợp với tầng lớp dân cư mới.[25] Vào năm 1921, toàn
thành phố có khoảng 4.000 dân châu Âu và 100.000 dân Việt Nam.[12]
Sự xuất hiện của tầng lớp tư sản Việt Nam khiến văn hóa Hà Nội cũng thay đổi. Nền
văn hóa phương Tây theo chân người Pháp du nhập vào Việt Nam kéo theo những xáo
trộn trong xã hội. Không còn là một kinh thành thời phong kiến, Hà Nội ít nhiều mang
dáng dấp của một đô thị châu Âu. Thành phố vẫn tiếp tục giữ vai trò trung tâm tri
thức, nghệ thuật của cả quốc gia, nơi tập trung các nhà thơ mới, những nhạc sĩ tân
nhạc cùng những trí thức, học giả nổi tiếng.
Trong hai cuộc chiến tranh
Dấu tích của chiến dịch Linebacker II được trưng bày ở bảo tàng Lịch sử Quân sự
Việt Nam
Giữa thế kỷ 20, Hà Nội cùng cả quốc gia hứng chịu những biến cố phức tạp của lịch
sử. Sự kiện Nhật Bản tấn công Đông Dương năm 1940 khiến Việt Nam phải nằm
dưới sự cai trị của cả đế quốc Pháp và Nhật. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, tại Hà Nội,
quân đội Nhật đảo chính Pháp. Nhưng chỉ năm tháng sau, quốc gia này phải đầu hàng
quân Đồng Minh, kết thúc cuộc Thế chiến thứ hai. Vào thời điểm thuận lợi đó, lực
lượng Việt Minh tổ chức cuộc Cách mạng tháng Tám thành công, giành lấy quyền lực
ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc
tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa với thủ đô Hà Nội.
Cuối năm 1945, quân đội Pháp quay lại Đông Dương. Sau những thương lượng không
thành, chiến tranh Pháp–Việt bùng nổ vào tháng 12 năm 1946 và thành phố Hà Nội
nằm trong vùng kiểm soát của người Pháp. Năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ
giúp những người Việt Minh lấy lại miền Bắc Việt Nam, Hà Nội tiếp tục giữ vị trí
thủ đô của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Vào thời điểm được tiếp quản, thành phố
gồm 4 quận nội thành với 34 khu phố, 37.000 dân và 4 quận ngoại thành với 45 xã,
16.000 dân. Cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, Hà Nội nhiều lần thay đổi về
hành chính và địa giới. Năm 1958, bốn quận nội thành bị xóa bỏ và thay bằng 12 khu
phố. Năm 1959, khu vực nội thành được chia lại thành 8 khu phố, Hà Nội cũng có
thêm 4 huyện ngoại thành. Tháng 4 năm 1961, Quốc hội quyết định mở rộng địa giới
Hà Nội, sát nhập thêm một số xã của Hà Đông, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và Hưng Yên.
Toàn thành phố có diện tích 584 km², dân số 91.000 người. Ngày 31 tháng 5 năm 1961,
bốn khu phố nội thành Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Ba Đình, Đống Đa và 4 huyện
ngoại thành Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm được thành lập.[12]
Tại miền Nam, nhờ sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ, Ngô Đình Diệm trở thành tổng thống
của Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam và từ chối tham gia cuộc tổng tuyển cử như thỏa
thuận trong Hiệp định Genève. Khi cuộc Chiến tranh Việt Nam leo thang, Hà Nội phải
hứng chịu những cuộc tấn công trực tiếp từ Hoa Kỳ. Riêng trong chiến dịch
Linebacker II năm 1972, trong khoảng 2.200 người dân bị thiệt mạng ở miền Bắc,[27][28]
số nạn nhân ở Hà Nội được thống kê là 1.318 người.[29] Nhiều cơ quan, trường học
phải sơ tán tới các tỉnh lân cận.
Hà Nội đương đại
Sau chiến tranh, Hà Nội tiếp tục giữ vai trò thủ đô của quốc gia Việt Nam thống nhất.
Ngày 21 tháng 12 năm 1978, Quốc hội phê chuẩn mở rộng địa giới Hà Nội, sáp nhập
thêm năm huyện Ba Vì, Thạch Thất, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức và thị xã Sơn
Tây của tỉnh Hà Sơn Bình cùng hai huyện của tỉnh Vĩnh Phú là Mê Linh, Sóc Sơn. Dân
số Hà Nội lên tới con số 2,5 triệu người.[30] Bên cạnh lượng dân cư các tỉnh tới định cư
ở thành phố, trong khoảng thời gian từ 1977 tới 1984, Hà Nội cũng đưa 12.861 hộ,
21.587 nhân khẩu tới Lâm Đồng theo chính sách xây dựng kinh tế mới.[31] Năm 1991,
ranh giới Hà Nội lại được điều chỉnh, trả lại năm huyện và một thị xã đã lấy của Hà
Sơn Bình năm 1978 cho Hà Tây và Mê Linh được nhập vào Vĩnh Phú. Hà Nội còn lại
bốn quận nội thành và năm huyện ngoại thành, với diện tích đất tự nhiên 924 km².
Sau thời kỳ bao cấp, từ cuối thập niên 1990, sự phát triển về kinh tế dẫn đến các khu
vực ngoại ô Hà Nội nhanh chóng được đô thị hóa. Những cao ốc mọc lên ở khu vực
nội ô và các trung tâm công nghiệp cũng được xây dựng ở những huyện ngoại thành.
Sự phát triển cũng kéo theo những hệ lụy. Do không được quy hoạch tốt, giao thông
thành phố thường xuyên ùn tắc khi số lượng xe máy tăng cao. Nhiều khu phố phải
chịu tình trạng ngập úng mỗi khi mưa lớn. Mật độ dân số quá cao khiến những dân cự
nội ô phải sống trong tình trạng chật trội và thiếu tiện nghi. Vào năm 2003, 30% dân
số Hà Nội sống dưới mức 3 m² một người.[32]
Ngày 29 tháng 5 năm 2008, với gần 93% đại biểu tán thành, Quốc hội đã thông qua
nghị quyết điều chỉnh địa giới hành chính thủ đô Hà Nội và các tỉnh, có hiệu lực từ 1
tháng 8 cùng năm. Theo nghị quyết, toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh
Phúc và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình được nhập về Hà Nội. Từ diện
tích gần 1.000 km² và dân số khoảng 3,4 triệu người, Hà Nội sau khi mở rộng có diện
tích 3.324,92 km² và dân số 6.232.940 người, nằm trong 17 thủ đô lớn nhất thế giới.[14]
Ngày 11 tháng 12 năm 2008, quận Hà Đông được thành lập từ thành phố Hà Đông
trước đây và thành phố Sơn Tây cũng được chuyển thành thị xã Sơn Tây.[33]
Kiến trúc và quy hoạch đô thị
Lịch sử lâu đời cùng nền văn hóa phong phú đã giúp Hà Nội có được kiến trúc đa dạng
và mang dấu ấn riêng. Nhưng sau một thời gian phát triển thiếu quy hoạch, thành phố
hiện nay tràn ngập những ngôi nhà ống trên các con phố lắt léo, những công trình tôn
giáo nằm sâu trong các khu dân cư, những cao ốc bên các khu phố cũ, những cột điện
chăng kín dây nhưng thiếu vắng không gian công cộng. Về mặt kiến trúc, có thể chia
Hà Nội thành bốn khu vực: khu phố cổ, khu thành cổ, khu phố Pháp và các khu mới
quy hoạch.
Khu phố cổ
Khu phố cổ Hà Nội, trung tâm lịch sử của thành phố, hiện nay vẫn là khu vực đông
đúc nhất. Địa giới không gian khu phố cổ có thể coi là một hình tam giác cân với đỉnh
là phố Hàng Than, cạnh phía Đông là đê sông Hồng, cạnh phía Tây là Hàng Cót, Hàng
Điếu, Hàng Da, còn đáy là trục Hàng Bông–Hàng Gai–Cầu Gỗ. Qua nhiều năm, những
cư dân sinh sống nhờ các nghệ thủ công, buôn bán tiểu thương đã hình thành những
con phố nghề đặc trưng mang những cái tên như Hàng Bạc, Hàng Đường, Hàng
Thùng...
Tất cả các ngôi nhà hai bên đường khu phố cổ đều theo kiểu nhà ống, mang nét đặc
trưng: bề ngang hẹp, chiều dài sâu, đôi khi thông sang phố khác. Bên trong các ngôi
nhà này cũng có cách bố trí gần như nhau: gian ngoài là nơi bán hoặc làm hàng, tiếp đó
là khoảng sân lộ thiên để lấy ánh sáng, trên sân có bể cạn trang trí, quanh sân là cây
cảnh, giàn hoa, gian nhà trong mới là nơi ăn ở và nối tiếp là khu phụ.[34] Những năm
gần đây, mật độ dân số quá cao khiến phố cổ Hà Nội xuống cấp nghiêm trọng. Phần
lớn các cư dân ở đây phải sống trong điều kiện thiếu tiện nghi, thậm chí bất tiện,
nguy hiểm. Một vài trường hợp đặc biệt được ghi nhận như ba người sống trong một
diện tích 1,5 m² hay bốn người sống trong một căn phòng 10 m² nhưng trên nóc một
nhà vệ sinh chung.[35] Trong khu 36 phố phường thuộc dự án bảo tồn, hiện chỉ còn một
vài nhà cổ có giá trị, còn lại hầu hết đã được xây mới hoặc cải tạo tùy tiện.[36]
Khu thành cổ
Khu thành cổ, tức hoàng thành Thăng Long, nằm ở khoảng giữa hồ Tây và hồ Hoàn
Kiếm, xuất hiện cùng với kinh đô Thăng Long. Trải qua nhiều lần phá hủy, xây dựng
lại rồi tiếp tục bị tàn phá, hoàng thành Thăng Long hiện chỉ lưu lại ở một vài dấu vết.
Trên phố Phan Ðình Phùng hiện nay còn cửa Bắc của thành được xây bằng đá và gạch
rất kiên cố. Cột cờ Hà Nội xây năm 1812 hiện nằm trên đường Ðiện Biên Phủ. Công
trình cao 40 m gồm ba nền thềm rộng và tháp cổ hình lăng trụ, bên trong có cầu thang
xoắn ốc dẫn lên kỳ đài.[37]
Phía Nam thành cổ còn lưu lại được một quần thể di tích đa dạng là Văn Miếu-Quốc
Tử Giám, được xây từ đầu thế kỷ 11. Gồm hai di tích chính, Văn Miếu – nơi thờ
Khổng Tử, các bậc hiền triết của Nho giáo và Chu Văn An – và Quốc Tử Giám –
trường quốc học cao cấp đầu tiên của Việt Nam – công trình không chỉ là điểm du lịch
hấp dẫn mà còn là nơi tổ chức nhiều hoạt động văn hóa.
Khu phố Pháp
Năm 1883, người Pháp bắt đầu lên kế hoạch xây dựng lại thành phố. Dựa trên các khu
phố Hà Nội vốn có, những kiến trúc sư người Pháp vạch thêm các con đường mới,
xây dựng các công trình theo hướng thích nghi với môi trường sở tại, tạo nên một
phong cách ngày nay được gọi là kiến trúc thuộc địa.[36] Khu vực đô thị do người Pháp
quy hoạch và xây dựng gồm ba khu: nhượng địa, thành cũ và nam hồ Hoàn Kiếm, ngày
nay mang tên chung là khu phố cũ, hay khu phố Pháp.
Khu nhượng địa mang hình chữ nhật được giới hạn bởi các con phố Bạch Đằng,
Tràng Tiền, Lê Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Nguyễn Huy Tự hiện nay. Vốn là đồn
thủy quân của Hà Nội cổ, đến năm 1875, khu vực này được nhượng lại cho quân đội
Pháp xây doanh trại, dinh thự và bệnh viện. Những công trình kiến trúc ở đây có mái
lợp ngói đá đen, hành lang xung quanh, nhà cuốn hình cung. Dinh thự Tổng tham mưu
trưởng quân Pháp, ngày nay là Nhà khách Bộ Quốc phòng xây dựng trong khoảng thời
gian 1874 đến 1877. Bệnh viện Lanessan, hiện là Quân y viện 108 và Bệnh viện Hữu
Nghị, khánh thành năm 1893. Khu thành cũ gồm các phố Phan Đình Phùng, Hùng
Vương, Hoàng Diệu, Điện Biên Phủ, Lê Hồng Phong, Chu Văn An, Trần Phú. Những
con đường ở đây rộng, dài và được trồng nhiều cây xanh. Các biệt thự mang kiến trúc
miền Bắc nước Pháp với trang trí cầu kỳ, tỷ mỉ. Một công trình kiến trúc tiêu biểu và
quan trọng của khu thành cũ là Phủ Toàn quyền, ngày nay là Phủ Chủ tịch, được xây
dựng trong khoảng 1900 đến 1902. Khu nam hồ Hoàn Kiếm cũng là một hình chữ nhật
với hai cạnh dài là phố Tràng Thi – Tràng Tiền và phố Trần Hưng Đạo, hai cạnh
ngang là phố Phan Bội Châu và phố Phan Chu Trinh. Khu vực này được xây dựng
đồng thời với khu thành cũ song quy trình quy hoạch có chậm hơn do phải giải tỏa
nhiều làng xóm. Một công trình quan trọng của thành phố là Nhà hát Lớn nằm ở đầu
phố Tràng Tiền, được xây từ 1902 tới 1911, theo mẫu Opéra Garnier của Paris.[38]
Kiến trúc Pháp thường được xem như một di sản của Hà Nội, nhưng ngày nay đã phải
chịu nhiều biến đổi. Những công trình cao tầng và các ngôi nhà giả phong cách Pháp
làm khu phố cũ trở nên khó nhận diện. Bên cạnh đó, nhiều thửa đất được sát nhập để
xây dựng các cao ốc khiến cảnh quan bị phá vỡ. Những hàng rào thấp dọc các con phố,
những màu sác tiêu biểu – tường vàng và cửa gỗ màu xanh – cũng bị thay đổi và che
lấp bởi các biểu hiệu quảng cáo. Hiện Sở Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội với sự giúp đỡ
của vùng Île-de-France đang triển khai dự án bảo tồn và phát triển khu phố này.[39]
Kiến trúc hiện đại
Vào những năm 1960 và 1970, hàng loạt các khu nhà tập thể theo kiểu lắp ghép xuất
hiện ở những khu phố Kim Liên, Trung Tự, Giảng Võ, Thành Công, Thanh Xuân
Bắc... Do sử dụng các cấu kiện bê tông cốt thép sản xuất theo quy trình thủ công,
những công trình này hiện rơi vào tình trạng xuống cấp nghiệm trọng.[36] Không chỉ
vậy, do thiếu diện tích sinh hoạt, các cư dân những khu nhà tập thể lắp ghép còn xây
dựng thêm những lồng sắt gắn ngoài trời xung quanh các căn hộ – thường được gọi là
chuồng cọp – gây mất mỹ quan đô thị. Hiện những nhà tập thể lắp ghép đang dần
được thay thể bởi các chung cư mới.
Cuối thập niên 1990 và thập niên 2000, nhiều con đường của Hà Nội, như Giải Phóng,
Nguyễn Văn Cừ, Láng Hạ, Ngọc Khánh, Thái Hà, được mở rộng. Các khách sạn, cao
ốc văn phòng mọc lên, những khu đô thị mới như nam cầu Thăng Long, bắc cầu Thăng
Long, Du lịch Hồ Tây, Định Công, Bắc Linh Đàm... cũng dần xuất hiện.[40] Khoảng
thời gian gần đây, khu vực Mỹ Đình được đô thị hóa nhanh chóng với hàng loạt những
ngôi nhà cao tầng mọc lên. Tuy vậy, các khu đô thị mới này cũng gặp nhiều vấn đề,
như công năng không hợp lý, thiếu quy hoạch đồng bộ, không đủ không gian công
cộng.[36] Trong trận mưa kỷ lục cuối năm 2008, Mỹ Đình là một trong những khu vực
chịu thiệt hại nặng nề vì nước ngập.
Các công trình kiến trúc
Trước khi trở thành một trung tâm chính trị – vào thế kỷ 5 với triều đại nhà Tiền Lý –
Hà Nội đã là một trung tâm của Phật giáo với các thiên phái danh tiếng.[41] Theo văn
bia, từ giữa thế kỷ 6, chùa Trấn Quốc được xây dựng trên bãi Yên Hoa ngoài sông
Hồng, tới 1615 do bãi sông bị lở, chùa mới dời về địa điểm hiện nay.[42] Đến thế kỷ
11, với sự xuất hiện của kinh đô Thăng Long, khi Phật giáo trở thành quốc giáo, các
chùa chiền, thiền viện, sư tăng mới phát triển thực sự mạnh mẽ. Trong nhiều thế kỷ,
Hà Nội tiếp tục xây dựng các ngôi chùa, trong đó một số vẫn tồn tại tới ngày nay. Có
thể kể tới các ngôi chùa nổi tiếng như chùa Một Cột xây lần đầu năm 1049, chùa Láng
từ thế kỷ 12, chùa Quán Sứ, chùa Kim Liên xuất hiện vào thế kỷ 17. Tuy vậy, hầu hết
các ngôi chùa trong nội ô ngày nay đều được xây dựng lại vào thế kỷ 19.[43] Những
triều đại Lý, Trần, Lê để lại rất ít dấu tích.
Vùng ngoại thành Hà Nội cũng có nhiều ngôi chùa nổi tiếng. Thuộc xã Hương Sơn,
huyện Mỹ Đức, một quần thể văn hóa–tôn giáo gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật,
các ngôi đền thờ thần, các ngôi đình thờ tín ngưỡng nông nghiệp... thường được gọi
chung là Chùa Hương. Từ lâu, di tích này đã trở thành một địa điểm du lịch quan trọng,
đặc biệt với lễ hội Chùa Hương được tổ chức vào mỗi mùa xuân. Cách trung tâm Hà
Nội khoảng 20 km về phía Tây Nam, Chùa Thầy nằm trên địa phận của xã Sài Sơn,
huyện Quốc Oai. Ngôi chùa, thường gắn liền với tên tuổi vị thiền sư Từ Đạo Hạnh, là
một di sản kiến trúc, văn hóa, lịch sử giá trị. Giống như Chùa Hương, lễ hội Chùa
Thầy cũng được tổ chức vào mùa xuân, đầu tháng 3 hàng năm.[44]
Cùng với các ngôi chùa, Hà Nội còn có không ít đền thờ Đạo Lão hay Đạo Khổng, như
Đền Quán Thánh, Đền Bạch Mã, Văn Miếu-Quốc Tử Giám, Đền Ngọc Sơn cùng cầu
Thê Húc và đình Trấn Ba. Trong khu phố cổ còn nhiều ngôi đình vẫn được những
người dân thường xuyên tới lui tới bày tỏ lòng thành kính. Cơ Đốc giáo theo chân
những người châu Âu vào Việt Nam, giúp Hà Nội có được Nhà thờ Lớn, Nhà thờ Cửa
Bắc, Nhà thờ Hàm Long... Các công trình tôn giáo ngày nay là một phần quan trọng
của kiến trúc thành phố, nhưng không ít hiện phải nằm trong những khu dân cư đông
đúc, thiếu không gian.[45]
Thời kỳ thuộc địa đã để lại Hà Nội rất nhiều các công trình kiến trúc lớn, hiện vẫn
đóng vai trò quan trọng về công năng, như Nhà hát Lớn, Phủ Chủ tịch, Bắc Bộ phủ,
trụ sở Bộ Ngoại giao, Bảo tàng Lịch sử, Khách sạn Sofitel Metropole... Một số công
trình bị phá bỏ để xây mới – như Tòa thị chính được thay thế bằng trụ sở Ủy ban nhân
dân thành phố – hoặc tu sửa nhưng không giữ được kiến trúc cũ – như ga Hàng Cỏ.
Thời kỳ tiếp theo, Hà Nội cũng có thêm các công trình mới. Lăng Hồ Chí Minh, Bảo
tàng Hồ Chí Minh, Hội trường Ba Đình, ghi đậm dấu ấn của giai đoạn này.
Hai thập niên gần đây, cùng với sự phát triển về kinh tế, rất nhiều cao ốc và khách
sạn như Daewoo, Sofitel Plaza, tòa nhà Tháp Hà Nội... mọc lên mang lại cho thành phố
dáng vẻ hiện đại. Hà Nội cũng chứng kiến sự ra đời của nhưng công trình quan trọng
như Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Sân vận động quốc gia Mỹ Đình... Để kỷ niệm lễ
1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, hiện nay rất nhiều công trình đang được xây dựng,
có thể kể đến Keangnam Hanoi Landmark Tower, Hà Nội City Complex, Bảo tàng Hà
Nội và Tòa nhà quốc hội.
Hành chính
Hà Nội là một trong năm thành phố trực thuộc Trung ương của Việt Nam, cùng với
Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ. Riêng Thành phố Hồ Chí
Minh và Hà Nội còn được xếp vào đô thị loại đặc biệt, thỏa mãn các tiêu chuẩn như tỷ
lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động trên 90%, quy mô dân số trên 1,5
triệu, mật độ dân số bình quân từ 15.000 người/km² trở lên, cơ sở hạ tầng hoàn
chỉnh...[46]
Cũng như các tỉnh và thành phố khác của Việt Nam, Hội đồng nhân dân thành phố Hà
Nội do người dân thành phố trực tiếp bầu nên, là cơ quan quyền lực Nhà nước ở thành
phố. Hội đồng nhân dân Hà Nội hiện nay, nhiệm kỳ 2004–2009, gồm 95 đại biểu,
trong đó có 37,76% nữ giới, 23,07% không thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam và 0.6% là
người dân tộc thiểu số.[47] Ủy ban nhân dân thành phố là cơ quan chấp hành của Hội
đồng nhân dân và là cơ quan hành chính nhà nước ở thành phố, chịu trách nhiệm chấp
hành hiến pháp, pháp luật, các văn bản của Chính phủ và các nghị quyết của Hội đồng
nhân dân thành phố. Ngoài các sở, ban như những tỉnh khác, thuộc Ủy ban nhân dân Hà
Nội còn có thêm báo Hà Nội mới, báo Kinh tế và Đô thị, Đài Phát thanh - Truyền hình
Hà Nội, Ban Chỉ đạo 1000 năm Thăng Long, Ban quản lý khu phố cổ... và một số
Tổng công ty trên địa bàn thành phố.
Sau những thay đổi về địa giới và hành chính năm 2008, Hà Nội hiện có 29 đơn vị
hành chính cấp huyện – gồm 10 quận, 18 huyện, 1 thị xã – và 577 đơn vị hành chính
cấp xã – gồm 401 xã, 154 phường và 22 thị trấn.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia