Giáo trình Ho ra máu
Ho ra máu là một triệu chứng nguy hiểm đối với bệnh nhân vì nó có thể là dấu hiệu của bệnh lý tại phổi hoặc bệnh hệ thống.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến ho ra máu như nhiễm trùng, bệnh lý mạch máu và viêm mạch
Ho ra máu
Tổng quan:
Ho ra máu là một triệu chứng nguy hiểm đối với bệnh nhân vì nó có thể là
dấu hiệu của bệnh lý tại phổi hoặc bệnh hệ thống.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến ho ra máu như nhiễm trùng, bệnh lý mạch
máu và viêm mạch (xem bảng 1) Việc xác định tổng lượng máu khạc ra là rất quan
trọng vì lượng máu mất đi này là yếu tố quyết định nguy cơ tử vong. Khi lượng
máu bị ho ra là > 100 - 600 ml/ 24 giờ gọi là ho ra máu nặng. Ho ra máu nặng là
một chỉ định cấp cứu vì bệnh nhân có nguy cơ ngạt => tử vong.
Bác sỹ cấp cứu không chỉ thường gặp những bệnh nhân ho ra máu với mức
độ nhẹ mà còn gặp cả những bệnh nhân ho ra máu nặng.
Bảng 1: Các nguyên nhân chính của chứng “ho ra máu”
Do viêm nhiễm:
- Viêm FQ mạn.
- Giãn FQ.
- Lao phổi.
- Nhiễm Mycobacteria không phải lao.
- Abcès phổi.
- Viêm hoại tử phổi.
- U nấm phổi.
- Xơ nang phổi.
Do hệ tim mạch:
- Tổn thương tâm thất trái.
- Hẹp van hai lá.
- Tắc mạch phổi hoặc nhồi máu phổi.
- Phình ĐMC hoặc rò mạch FQ.
Bệnh lý khối u:
- Ung thư phổi.
- U tuyến FQ.
- Ung thư di căn (Ung thư xương, ung thư tử cung...)
Viêm mạch:
- Bệnh u hạt Wegener.
- Lupus ban đỏ hệ thống.
Các nguyên nhân khác:
- Nhiễm hemosiderin phổi tự phát.
- Dị vật đường thở.
- Chấn thương hoặc đụng giập phổi.
- Sinh thiết xuyên thành ngực hoặc sinh thiết qua FQ.
- Quá liều cocaine.
- Ho ra máu “giả”
Sinh lý bệnh.
Phổi có hai nguồn cung cấp máu. Một là ĐM phổi, hệ thống có áp lực thấp
và tận cùng bằng hệ thống mao mạch. Đây là nguồn cung cấp máu chính, có
nhiệm vụ trao đổi khí. Hai là các ĐM FQ, nhánh của ĐMC, có nhiệm vụ cung cấp
chất dinh dưỡng cho nhu mô phổi. Các ĐM FQ, cũng giống như tất cả hệ thống
ĐM khác, là hệ thống có áp lực cao. Hầu hết các trường hợp ho ra máu đều do tổn
thương các nhánh của “cây ĐM FQ”.
Nguyên nhân.
Tại Mỹ, các nghiên cứu gần đây cho thấy, nguyên nhân chính của chứng
“ho ra máu” là viêm FQ (26%), ung thư phổi (23%), viêm phổi (10%) và lao phổi
(8%).
Một nghiên cứu trên 123 bệnh nhân tại Nam Phi cho thấy, các nguyên nhân
chủ yếu của chứng “ho ra máu” là lao phổi, giãn FQ, viêm hoại tử phổi, nhiễm
nấm phổi và các rối loạn chảy máu. ở các nước đang phát triển, lao phổi là nguyên
nhân hàng đầu gây ho ra máu. Cũng cần loại trừ nguyên nhân này ở những bệnh
nhân ho ra máu đến từ các vùng có tỷ lệ lao phổi cao.
Viêm FQ và giãn FQ.
Viêm FQ thường gây ho ra máu mức độ vừa. Viêm nhiễm đường thở dẫn
đến tình trạng xung huyết niêm mạc và làm vỡ các mao mạch niêm mạc gây khạc
đờm có dây máu. Giãn FQ có liên quan đến tình trạng viêm nhiễm mạn tính ở
phổi. Khi đó, có hiện tượng tăng sinh các mao mạch tại chỗ và tăng lượng máu
chảy. Viêm nhiễm làm ăn mòn các mao mạch FQ này và kết quả là gây xuất huyết
nặng.
Ung thư phổi.
Ung thư phổi thường gây ho ra máu mức độ nhẹ, dạng như đờm có dây
máu. Hiếm khi nó gây ra tình trạng ho ra máu nặng. Nguyên nhân của tình trạng
ho ra máu mức độ nhẹ trong ung thư phổi là do khối u làm ăn mòn các mao mạch
niêm mạc đường thở. Trong trường hợp ung thư phổi mà ho ra máu mức độ nặng
thường là vì khối u lớn vùng trung tâm đã xâm lấn vào ĐMP.
Lao phổi.
Có nhiều cơ chế dẫn đến ho ra máu ở những bệnh nhân bị lao phổi. Lao FQ
- phổi có thể gây chảy máu đường thở cục bộ. Lao FQ - phổi tiến triển có thể gây
ho ra máu theo cơ chế nói trên. Các hạch lympho bị vôi hóa có thể chèn ép và ăn
mòn thùy phổi và các nhánh FQ gây chảy máu cục bộ và khạc đờm có sạn vôi hóa
còn gọi là sỏi FQ trong đờm. ở những bệnh nhân lao tiến triển, các hang lao lớn
thường không kín hoàn toàn trừ những bệnh nhân đáp ứng tốt với điều trị. Đôi khi,
những hang này bị nấm Aspergillus tấn công. Chảy máu ĐM FQ do tình trạng
viêm nhiễm bờ của các hang lao chứa nấm Aspergillus thường nặng.
Tổ chức nang ở những bệnh nhân bị sarcoidosis phổi mạn tính thường có
nấm Aspergillus và do vậy cũng gây ho ra máu. Cuối cùng, ở bệnh nhân lao phổi
mạn, ho ra máu “sét đánh” có thể do hiện tượng vỡ phình ĐM phổi (phình mạch
Rasmussen) ở thành các hang lao.
Các nguyên nhân khác.
Ho ra máu cũng có thể do tăng áp TM phổi mạn. Ví dụ kinh điển là hẹp van
hai lá, một bệnh ngày nay ít gặp tại Mỹ do tỷ lệ bệnh thấp tim tại nước này đã
giảm. Tuy nhiên, cần lưu ý dấu hiệu hẹp hai lá ở những bệnh nhân có tiền sử sốt
thấp khớp hoặc sống ở những vùng mà tỷ lệ bệnh thấp tim cao. Ho ra máu cũng có
thể do tình trạng viêm nhiễm ở những vùng viêm hoại tử phổi, như nhiễm nấm
Aspergillus xâm lấn, hội chứng xuất huyết phế nang gián tiếp, như hội chứng
“Đồng cỏ xanh”, u hạt Wegener, lupus ban đỏ hệ thống và nhiễm hemosiderin
phổi.
Chẩn đoán.
Bước đầu tiên quan trọng nhất trong chẩn đoán là phân biệt ho ra máu nặng
và nhẹ. Có thể xác định lượng máu mất bằng cách hỏi bệnh cẩn thận. Ho ra máu
nặng là một chỉ định cấp cứu đòi hỏi phải chẩn đoán và điều trị nhanh chóng, khẩn
trương. Những bệnh nhân mất > 30 - 50 ml máu trước 24 giờ có nguy cơ tử vong
cao do đó cần được nhập viện để đánh giá tình trạng bệnh. Ho ra máu nặng có thể
là một triệu chứng của các căn bệnh nguy hiểm dưới đây (trong bảng 2)và cần phải
xử trí ngay lập tức.
Bảng 2: Các nguyên nhân gây ho ra máu nặng:
ϖ Các nguyên nhân thường gặp:
- Giãn FQ (gồm cả xơ nang)
- Lao phổi.
- Nhiễm vi khuẩn Mycobacteria không phải lao.
- Abcès phổi.
- U nấm (nấm Aspergillus, nấm sùi hình cầu)
- Đụng giập hoặc chấn thương phổi.
ϖ Các nguyên nhân ít gặp:
- Nhiễm nấm Aspergillus xâm lấn hoặc nấm mốc Mucor.
- Hẹp van hai lá.
- Dị dạng ĐM - TM phổi.
- Rò mạch máu FQ (ví dụ rò KQ - ĐM cánh tay đầu ở những bệnh nhân mở
thông KQ mạn tính).
- Xuất huyết tạng.
- Dị vật.
- Nhiễm hemosiderin phổi tự phát.
- Viêm hoại tử phổi.
- U tuyến FQ.
- Tắc mạch phổi do nhồi máu.
- Tắc mạch nhiễm khuẩn do viêm nội tâm mạc ở van 3 lá.
- Hội chứng thận - phổi (hội chứng “Đồng cỏ xanh”, bệnh lupus ban đỏ hệ
thống, bệnh u hạt Wegener).
- Vỡ ĐM phổi do thủ thuật đặt catheter ĐM phổi.
Tiền sử bệnh tật.
Cần hỏi bệnh nhân về tiền sử bệnh viêm phổi đã mắc khi còn nhỏ, bệnh
viêm phổi tái phát, ho mạn tính và tính chất đờm là những dấu hiệu quan trọng của
bệnh giãn FQ. Triệu chứng có dây máu hoặc máu cục trong đờm lẫn mủ thường
gặp trong viêm phổi hoặc abcès phổi. Bệnh nhân bị đau có thể là tắc mạch hoặc
nhồi máu◊ngực, khó thở kết hợp với ho ra máu phổi. Tuổi tác cũng là một yếu tố
quan trọng. Ví dụ như ung thư phổi hiếm gặp ở những bệnh nhân < 40 tuổi. Cũng
cần hỏi bệnh nhân về tiền sử nhiễm lao hoặc khả năng phơi nhiễm của bệnh nhân
với những bệnh nhân lao; phơi nhiễm nghề nghiệp; vấn đề sử dụng thuốc, đặc biệt
là các thuốc chống đông như dung dịch wafarin (Coumadin), các thuốc kích thích
như cocaine, tình trạng sử dụng thuốc kéo dài như các thuốc điều trị thấp tim,
thuốc điều trị nhồi máu tắc mạch phổi.
Khám lâm sàng.
Cần kiểm tra cẩn thận vùng mũi họng và miệng họng bằng đèn soi để phát
hiện nguồn gốc chảy máu ở đường hô hấp trên. Nếu phát hiện thấy hạch có thể là
bệnh lý ác tính bên trong◊cổ, hạch thượng đòn, hạch nách ngực.
Nghe phổi có thể phát hiện ra các rale do viêm phổi hoặc do máu bị hít vào.
Nghe phổi cũng giúp phát hiện tiếng thở khò khè khu trú do tổn thương nhánh FQ
sau ví dụ trong ung thư phổi.
Kiểm tra tim mạch cẩn thận có thể phát hiện ra tiếng ngựa phi S3, tiếng thổi
ở tim, TM cảnh nổi. Dấu hiệu phù có thể do tổn thương van tim hoặc tim sung
huyết. Dấu hiệu ngón tay dùi trống có thể gặp ở những bệnh nhân bị ung thư phổi,
giãn FQ và abcès phổi.
Xét nghiệm cận lâm sàng.
Tất cả bệnh nhân ho ra máu đều có chỉ định chụp phim X - quang phổi
thẳng và nghiêng. Trên phim chụp, có thể phát hiện các dấu hiệu của những bệnh
lý tạo hang fibro (như lao phổi, viêm hoại tử phổi, viêm phổi do nấm), xẹp thùy
phổi (do tắc nghẽn gặp trong ung thư phổi, phù FQ, dị vật đường thở), nhiễm nấm
hình cầu trong các tổn thương hang (như nấm Aspergillus), phì đại nhĩ T, đường
Kerley B (trong hẹp van hai lá), thành FQ mỏng (trong giãn FQ), bệnh của hệ
thống bạch huyết và ung thư thâm nhiễm phổi. Trên 30% bệnh nhân ho ra máu có
phim chụp phổi bình thường. Cần tiến hành các xét nghiệm công thức máu, xét
nghiệm đông máu, xét nghiệm nước tiểu để phát hiện những bất thường của hệ tiết
niệu cho phép gợi ý đến hội chứng thận - phổi. Tiến hành làm các xét nghiệm bổ
sung khác phụ thuộc vào mức độ ho ra máu và đặc điểm của từng bệnh nhân.
Ho ra máu nhẹ.
Ho ra máu nhẹ không đe doạ tức thì tới sự sống. Mục đích của việc đánh
giá tình trạng bệnh kỹ càng hơn là để xác định căn nguyên bệnh. Từ đó đưa ra
phác đồ điều trị có hiệu quả (nếu có thể), loại trừ tận gốc bệnh. Những bệnh nhân
có tiền sử bệnh phù hợp với bệnh viêm FQ và phim điều trị bằng thuốc giảm ho
nhẹ và◊chụp X quang phổi bình thường kháng sinh phổ rộng đường uống trong
vòng 1 - 2 tuần. Nếu có chỉ định, tiến hành làm xét nghiệm tế bào học bệnh phẩm
đờm.
Cần soi FQ cho những bệnh nhân ho ra máu mức độ nhẹ. Với những bệnh
nhân ho ra máu nhẹ thì nội soi FQ bằng ống soi mềm thích hợp hơn là dùng ống
soi cứng vì nó có thể quan sát được phế quản trên và đường hô hấp dưới. Nếu soi
FQ trong vòng vài ngày sau khi ngưng chảy máu thì giá trị chẩn đoán của phương
pháp này sẽ cao hơn.
Một vài tác giả cho rằng nên tiến hành soi FQ chẩn đoán cho tất cả các
bệnh nhân ho ra máu > 40 tuổi vì đây là độ tuổi có tỷ lệ ung thư phổi cao. Những
khối u sớm ở vùng trung tâm đường thở mà trên phim chụp X quang ngực không
phát hiện ra có thể gây ho ra máu. Tại 3 bệnh viện ở Mỹ, 3 - 6% bệnh nhân ho ra
máu nhẹ và có phim chụp X quang phổi bình thường bị ung thư phổi. Nhiều
nghiên cứu lớn cho thấy, nam giới, tuổi trên 50, có tiền sử hút thuốc lá > 40 năm là
những yếu tố nguy cơ của bệnh ung thư phổi.
Với những bệnh nhân có dấu hiệu bất thường trên phim chụp X quang phổi
thì cần dựa vào các triệu chứng tìm thấy trên lâm sàng và phim chụp để cho các
chỉ định tiếp theo. Làm các xét nghiệm như lấy đờm để xét nghiệm tế bào học,
sinh thiết qua thành ngực, soi FQ, sinh thiết phổi mở ... để kiểm tra các khối u nghi
ngờ ung thư. Với các tổn thương vùng đỉnh phổi thâm nhiễm xung quanh nghi ngờ
lao, cần tiến hành làm xét nghiệm tìm trực khuẩn bắt màu acid trên kính hiển vi,
nuôi cấy vi khuẩn. Thày thuốc phải quan sát kỹ dấu hiệu hình khum (trăng lưỡi
liềm) (không khí xung quanh u nấm ở trong hang của phổi) phù hợp với bệnh
nhiễm nấm Aspergillus. Chụp CT scan hoặc quan sát tư thế nằm một bên có thể
thấy rõ tổn thương hơn. Cũng có thể chỉ định làm xét nghiệm kết tủa nấm
Aspergillus trong huyết thanh.
Chụp CT scan với độ phân giải cao và soi FQ bằng ống soi mềm là những
thủ thuật có vai trò bổ sung cho nhau trong việc đánh giá bệnh nhân ho ra máu
mức độ nhẹ. Chụp CT scan ngực là xét nghiệm có giá trị nhất trong việc chẩn
đoán viêm FQ và loại trừ ung thư phổi. Do có độ nhạy cao trong việc phát hiện
viêm FQ, khối u trong nhu mô phổi và các bệnh tạo hang trong phổi như u nấm,
nhiều tác giả cho rằng nên chụp CT cho tất cả các bệnh nhân ho ra máu trước khi
tiến hành soi FQ.
This image has been resized. Click this bar to view the full image.
The original image is sized 632x524.
Ho ra máu mức độ vừa.
Bệnh nhân ho ra máu mức độ vừa nên đến bệnh viện để chăm sóc và kiểm
tra kỹ lưỡng hơn. Để bệnh nhân nghỉ ngơi trên giường trong tư thế nửa nằm nửa
ngồi khi thức và nằm nghiêng về phía bên phổi bị tổn thương. Có thể cho bệnh
nhân uống các thuốc giảm ho có chứa codeine nhưng không được dùng các thuốc
giảm đau mạnh. Cung cấp Oxy đầy đủ cho bệnh nhân. Vị trí nghi ngờ chảy máu và
tốc độ máu chảy quyết định các xét nghiệm cần làm và thời điểm tiến hành. Bước
tiếp theo thường là soi FQ.
Ho ra máu mức độ nặng.
Ho ra máu mức độ nặng chiếm < 5% các trường hợp ho ra máu. Tuy nhiên,
ho ra máu nặng là một chỉ định cấp cứu đòi hỏi phải khám và điều trị ngay lập tức.
Yếu tố nguy hiểm cho sự sống là tình trạng ngạt thở chứ không phải là sự mất
máu. Tốc độ máu chảy là yếu tố tiên lượng quan trọng nhất. Bệnh nhân bị bệnh
phổi chịu đựng kém hơn khi máu chảy vào các vùng phổi khác trước khi bệnh
phổi cấp tính tiến triển.
Phương pháp chẩn đoán và điều trị tối ưu cho chứng ho ra máu nặng vẫn
còn gây nhiều tranh cải vì có quá ít các nghiên cứu đầy đủ về nó. Máu chảy lan
rộng gây cản trở việc xác định vị trí chảy máu trên phim chụp X quang. Tương tự
như vậy, chụp CT Scan cho những bệnh nhân ho ra máu nặng cũng không có giá
trị.
Trong các trường hợp ho ra máu nặng, người ta vẫn còn cân nhắc về vai trò
của thủ thuật soi FQ bằng ống soi mềm hay cứng; điều trị nội khoa hay ngoại
khoa. Đã nhiều nghiên cứu so sánh phương pháp điều trị nội khoa với ngoại khoa
và mở ra nhiều khuynh hướng điều trị. Một vài tác giả chủ trương cắt bỏ các tổn
thương khu trú đối với tất cả những trường hợp có thể mổ được. Một vài tác giả
khác lại ủng hộ phương pháp điều trị bảo toàn. Vấn đề xử trí ho ra máu nặng được
cỉ định riêng trong từng trường hợp dựa vào tốc độ chảy máu, vị trí chảy máu, và
việc bệnh nhân có đủ điều kiện để phẫu thuật hay không. Điều trị nội khoa được
chỉ định trong những trường hợp bệnh phổi viêm nhiễm mạn tính, như xơ nang,
giãn FQ 2 bên để bảo tồn chức năng phổi.
This image has been resized. Click this bar to view the full image.
The original image is sized 594x539.
Xử trí ban đầu: Điều trị ho ra máu nặng là kiểm soát đường thở, cung cấp
O2 và xác định vị trí chảy máu. Hầu hết những trường hợp tử vong là do ngạt và
giảm oxy máu do máu chảy vào những vùng khác của phổi. Để kiểm soát tình
trạng ho ra máu cần hội chẩn các bác sỹ chuyên khoa gây mê, phẫu thuật lồng
ngực và Xquang. Bệnh nhân phải được hưởng chế độ chăm sóc đặc biệt (ICU) để
tiện cho việc theo dõi và nghỉ ngơi tại giường.
Cung cấp thêm O2 và cho bệnh nhân uống thuốc giảm ho có chứa codeine
nếu máu chảy chậm hoặc ngưng hẳn. Bệnh nhân vẫn ở tư thế nửa nằm nửa ngồi
hoặc nằm nghiêng và phim chụp X quang phổi bình thường (có thể không chảy
máu). Thu gom tất cả máu khạc ra và chất tiết của đường hô hấp đồng thời ước
tính thể tích và tốc độ lượng máu mất đi. Nếu có bất kỳ dấu hiệu tổn thương
đường hô hấp cấp nào, phải tiến hành đặt NKQ ngay. Để thuận tiện cho việc hút
các chất tiết, nên đặt ống NKQ có đường kính lớn (> 7.5 mm). Có thể tiến hành
các thủ thuật như nội soi FQ bằng ống soi cứng, đặt ống NKQ, thông khí cho phổi
không chảy máu bằng ống NKQ lòng đơn hoặc lòng đôi.
Thủ thuật đặt ống NKQ: Nói chung, sự lựa chọn tốt nhất là đặt ống NKQ
của nhánh FQ chính trái hoặc phải với ống NKQ tiêu chuẩn lòng đơn. Thủ thuật
đặt ống NKQ lòng đôi và chăm sóc bệnh nhân sau đặt yêu cầu kỹ thuật cao và đòi
hỏi sự lưu tâm đặc biệt của các nhân viên y tế nhiều kinh nghiệm, kỹ thuật viên
gây mê và bác sỹ phẫu thuật.
Nội soi FQ: Nếu máu tiếp tục chảy dữ dội, cần làm cấp những xét nghiệm
chẩn đoán và điều trị bổ sung. Nội soi FQ - biện pháp then chốt để xác định vị trí
chảy máu và phương pháp điều trị - phải được tiến hành không chậm chễ. Để đưa
ra được những chỉ định điều trị nội khoa hay ngoại khoa cần xác định vị trí chảy
máu.
Đặt ống soi FQ cứng hay mềm vẫn là vấn đề gây tranh cải. Ưu điểm của
nội soi FQ bằng ống cứng là khả năng hút máu và cục máu đông tốt hơn; quan sát
được đường thở chính tốt hơn; dễ dàng thông khí và kiểm soát đường thở hơn.
Tuy nhiên, thủ thuật này phải được tiến hành trong phòng mổ. Có rất ít bác sỹ
chuyên khoa hô hấp của Mỹ được đào tạo về kỹ thuật nội soi FQ bằng ống soi
cứng. Những trường hợp ho ra máu nhẹ hơn, có thể tiến hành nội soi FQ bằng ống
soi mềm ngay tại giường bệnh hoặc trong đơn vị chăm sóc đặc biệt (ICU). Phương
pháp này cho phép quan sát lỗ thuỳ ở trên tốt hơn (từ nơi mà hầu hết trường hợp
chảy máu nặng xuất hiện) và phân thuỳ phụ.
Các biện pháp không dùng phẫu thuật: Các biện pháp gồm có kỹ thuật
tiến hành trong FQ, như đặt catheter hình cầu, nhỏ giọt thrombin hoặc fibrinogen -
thrombin, rửa bằng dung dịch nước muối lạnh, làm nghẽn ĐM FQ. Các kỹ thuật
trên đều chưa được đánh giá bằng các thử nghiệm lâm sàng. Các phương pháp nội
FQ có thể hữu ích trong giai đoạn ổn định chảy máu cho đến khi đưa ra một chẩn
đoán khác hoặc một phương pháp điều trị cuối cùng.
Làm nghẽn ĐM FQ: Hiện nay, kỹ thuật này được sử dụng ở rất nhiều
trung tâm y tế. Ban đầu, kỹ thuật này được áp dụng chủ yếu cho bệnh nhân xơ
nang bị ho ra máu nhưn không có chỉ định phẫu thuật. Đến nay, nó được sử dụng
rất thành công để kiểm soát tình trạng xuất huyết do những bệnh phổi khác. Để
tiến hành kỹ thuật chụp mạch này, người ta luồn một cannun vào trong ĐM FQ tới
vị trí xuất huyết và làm nghẽn mạch bằng các hạt nhựa polyvinyl hoặc bột gelatin
có khả năng hút (bọt đặc Gelfoam). Tai biến thường gặp là tổn thương thiếu máu
cục bộ tuỷ sống do tắc ĐM đốt sống vốn bắt nguồn từ một ĐM FQ ở 5% bệnh
nhân. Nếu áp dụng kỹ thuật làm tắc nghẽn chọn lọc với một catheter nhỏ hơn và
được đặt ở xa thì có thể làm giảm tai biến này.
Hiệu quả của kỹ thuật làm nghẽn ĐM FQ trong việc kiểm soát tình trạng ho
ra máu trong giai đoạn ngắn là 90%. Hiện tượng chảy máu tái phát sớm phần lớn
là do sự nghẽn mạch không hoàn toàn ở những vùng có nhiều mạch máu nuôi
dưỡng. Hiện tượng chảy máu tái phát muộn sau 1 năm xảy ra ở > 10 - 20% bệnh
nhân. Nguyên nhân là do sự tăng sinh của các mạch bàng hệ. Có thể phải tiến hành
làm nghẽn mạch FQ lại cho những bệnh nhân bị chảy máu tái phát. Đây là kỹ
thuật rất hữu ích đối với việc kiểm soát tình trạng ho ra máu. Do tỷ lệ tái phát còn
cao nên kỹ thuật này không áp dụng đối với những bệnh nhân ho ra máu có chỉ
định phẫu thuật.
Cần xác định rõ phương pháp điều trị cho những trường hợp ho ra máu
nặng, phụ thuộc vào chẩn đoán và tình trạng bệnh nhân, sự bảo tồn chức năng
phổi, nguồn gốc của tình trạng ho ra máu nặng. Ho ra máu nặng thường hay tái
phát đột ngột , không có dấu hiệu báo trước và có thể dẫn đến tử vong. Với những
bệnh nhân tổn thương khu trú và có khả năng bảo tồn chức năng phổi, phẫu thuật
là phương pháp điều trị hiệu qủa nhất.
Tổng kết.
Ho ra máu là một triệu chứng nguy hiểm đối với tính mạng bệnh nhân và
thường là một dấu hiệu của các bệnh đã nêu trong bảng 1.
Chụp X quang phổi, khám lâm sàng, khai thác tiền sử, bệnh sử và các yếu
tố dịch tễ sẽ giúp cho việc đánh giá những bệnh nhân ho ra máu nhẹ.
Ho ra máu nặng chiếm