GIẢI PHÁP THÁO GỠ KHÓ KHĂN CHO DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
Hiện nay nhà nước cũng đã và đang thực hiện nhiều biện pháp khuyến khích đầu tư và phát triển DNN&V như ban hành, sửa đối các chính sách tài chính - tín dụng nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho các DNN&V.
GIẢI PHÁP THÁO GỠ KHÓ KHĂN
CHO DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
Bùi Nguyệt Ánh
Nguồn: TC Tài chính Doanh nghiệp 4/2007
Hiện nay, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đã có sự góp mặt khoảng
250.000 doanh nghiệp, trong đó đội ngũ doanh nghiệp nhỏ và vừa
(DNN&V) khoảng trên 232.000 doanh nghiệp (chiếm khoảng 90%). Bên
cạnh đó, có khoảng 2,4 triệu hộ sản xuất kinh doanh đã thu hút một nguồn
lực lớn của xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo việc làm và đóng góp ngày
càng cao vào cho ngân sách nhà nước. Hàng năm đối tượng DNN&V đóng
góp vào khoảng 30% GDP, khoảng 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp,
khoảng gần 80% tổng mức bán lẻ, khoảng 64% tổng lượng vận chuyển hàng
hóa và 100% giá trị sản lượng hàng hóa một số ngành hàng thủ công mỹ
nghệ… Tuy giữ vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế, lại nhận
được quan điểm khuyến khích phát triển của Nhà nước, thái độ ngày càng
cởi mở của chính quyền các cấp, nhưng có một thực tế là DNN&V còn gặp
nhiều khó khăn cần được tháo gỡ trong hoạt động.
Thống kê của Dự án nghiên cứu TF/VIE/03/001 cho thấy, không dưới 10
nhóm vướng mắc, bất cập từ thể chế, chính sách của Nhà nước cũng như từ
nền kinh tế đang là những rào cản lớn cho sự phát triển của khối doanh
nghiệp này. Đầu tiên là sự không đồng bộ, thống nhất là liên tục thay đổi của
các văn bản pháp quy, rồi công cuộc cải cách hành chính diễn ra chậm, chi
phí gia nhập thị trường của doanh nghiệp cao, cả về thời gian và chi phí
không chính thức đã hạn chế tốc độ tăng trưởng của các DNN&V. Tiếp theo,
DNN&V vẫn khó tiếp cận với các nguồn tài chính, các nguồn tín dụng cũng
như các hình thức góp vốn khác, hạn chế các quyền về tài sản liên quan đến
đất đai, bất động sản và các tài sản vô hình, thiếu các hình thức bảo lãnh tín
dụng. Tình trạng đất đai, mặt bằng sản xuất cũng vậy, thông thường đây là
khoản chi phí rất lớn và mất nhiều thời gian (1,5 – 2năm), hệ thống các khu
công nghiệp tuy đã phát triển, nhưng giá thuê đất tại đây không phù hợp với
đa số các DNN&V.
Sự tồn tại trong thể chế và chính sách cũng còn nhiều đối với sự phát triển
DNN&V. Tuy Luật doanh nghiệp đã có nhiều cởi mở hơn đối với quá trình
đăng ký kinh doanh và hoạt động các doanh nghiệp, nhiều giấy phép đã
được bãi bỏ, nhưng hiện vẫn tồn tại các quy định làm giảm hiệu lực pháp lý
của đạo luật này như Luật thương mại cũng có điều khoản quy định về đăng
ký kinh doanh, một số địa phương còn quyết định ngừng đăng ký kinh
doanh ở một số lĩnh vực, hệ thống thuế quá phức tạp và không rõ ràng.
Hiện nay, nhà nước cũng đã và đang thực hiện nhiều biện pháp khuyến
khích đầu tư và phát triển DNN&V như ban hành, sửa đổi các chính sách
thuế, chính sách tài chính – tín dụng nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho các
DNN&V. Sự hỗ trợ tài chính từ phía Nhà ước cho các DNN&V thông qua
hình thức tín dụng ngân hàng chủ yếu được thực hiện bằng các khoản cho
vay của ngân hàng thương mại quốc doanh; xây dựng hành lang pháp lý tạo
điều kiện cho các ngân hàng nới lỏng điều kiện vay vốn. Các ngân hàng
thương mại chủ động hỗ trợ DNN&V trong việc lập dự án sản xuất kinh
doanh, loại bỏ sự phân biệt đối xử của ngân hàng đối với các DNN&V ngoài
quốc doanh.
Mặc dù đã có những bước chuyển biến tích cực, nhưng trên thực tế, hiện nay
tài chính vẫn đang là vấn đề yếu nhất của doanh nghiệp, đặc biệt là tình
trạng thiếu vốn diễn ra phổ biến ở các DNN&V. Các DNN&V muốn vay
vốn ngân hàng không phải là chuyện dễ và cũng còn gặp nhiều khó khăn
trong việc tiếp cận nguồn vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn từ các ngân
hàng, các tổ chức tín dụng…. Có thể nói, nguyên nhân chính của tình trạng
này là từ chính bản thân doanh nghiệp vì vốn chủ sở hữu rất thấp, ít có tài
sản thế chấp, cầm cố, không có người bảo lãnh; không lập được phương án
sản xuất, kinh doanh có đủ sức thuyết phục. Trình độ quản lý hạn chế, báo
cáo tài chính không đủ độ tin cậy đối với người cho vay….
Nhiều doanh nghiệp cho biết, để hoạt động họ thường vay vốn từ các tổ
chức tài chính phi chính thức, tư nhân, bạn bè, họ hàng và bản thân người
lao động trong doanh nghiệp. Hơn nữa, do hầu hết các khoản vay đều là
ngắn hạn với mức lãi suất cao nên các DNN&V cho dù có được phép vay
vẫn khó tìm được nguồn vốn trung và dài hạn. Bên cạnh đó, hiện nay chưa
có đủ các quy định pháp lý đảm bảo cho các DNN&V của ta có thể tiếp cận
thường xuyên, nhằm tiến tới khả năng vay vốn từ các tổ chức tài chính bên
ngoài một cách rộng rãi và ổn định hơn.
Theo các chuyên gia kinh tế, để tạo thuận lợi cho DNN&V phát triển mạnh
mẽ Nhà nước cần xác lập và triển khai chương trình tài trợ vốn cho các
DNN&V. Tài trợ vốn cho các DNN&V có thể thực hiện cho cả hai loại là tài
trợ vốn ban đầu để hình thành doanh nghiệp và tài trợ vốn vay khi doanh
nghiệp kinh doanh thiếu vốn. Trong trường hợp đầu, nhà nước thông qua các
định chế tài chính phi lợi nhuận để cấp vốn đầu tư cho các chủ nhân muốn
thành lập doanh nghiệp nhưng chưa có đủ vốn. Nhà nước có thể hỗ trợ vốn
không lãi suất từ 20% đến 50% tổng mức vốn đầu tư ban đầu để thành lập
doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sau khi bước vào kinh doanh có sản phẩm
tiêu thụ sẽ hoàn trả vốn cho Nhà nước từ số lãi thu được trong thời gian từ 2
đến 5 năm hoặc lâu hơn. Để thực hiện được chính sách này, Nhà nước sẽ
cho phép mỗi địa phương được lập ra các quỹ đầu tư, ngân sách địa phương
sẽ đầu tư ban đầu vào quỹ này, sau đó quỹ có nghĩa vụ tiếp nhập các khoản
đầu tư từ bên ngoài để bổ sung nguồn vốn hỗ trợ các chủ nhân muốn thành
lập doanh nghiệp, Nhà nước sẽ cấp bù lãi suất và bảo đảm kinh phí hoạt
động cho tổ chức này.
Thông qua Ngân hàng phát triển, các ngân hàng thương mại để cấp vốn hoạt
động với lãi suất thấp cho các DNN&V và Nhà nước sẽ thực hiện bù lãi
suất. Nguồn vốn để thực hiện chương trình này là vốn do các định chế tài
chính huy động, đồng thời Nhà nước sẽ xem xét chuyển một phần viện trợ
không hoàn lại, vốn vay ưu đãi từ các tổ chức tài chính quốc tế để bổ sung
cho các ngân hàng, cho quỹ hỗ trợ phát triển. Bên cạnh đó, cho phép các tổ
chức tài chính thực hiện chức năng cho thuê tài chính, đây là mô hình tài trợ
vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNN&V thiếu
vốn. Đồng thời, cần nghiên cứu và xây dựng một chương trình hỗ trợ tổng
thể về tài chính cho các DNN&V.
Về chính sách tín dụng hỗ trợ DNN&V, các chuyên gia cho rằng, cơ chế tín
dụng có nhiều phương thức phục vụ tốt hơn. Cụ thể, tài trợ theo dự án; cho
vay thuê mua (đã và đang được chú trọng để mở rộng khả năng đáp ứng vốn
cho DNN&V); bảo lãnh, mua hàng trả chậm, nhập máy móc, thiết bị, công
nghệ; góp vốn liên doanh liên kết; phát triển mạng lưới, từng bước hiện đại
hóa công nghệ thanh toán, đưa các sản phẩm dịch vụ đến với DNN&V; khai
thông và tiếp nhận nguồn vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế để hỗ trợ
DNN&V.
Mục tiêu tổng quát Chính phủ đặt ra là đến năm 2010 cộng đồng doanh
nghiệp Việt Nam sẽ có 500.000 hoạt động hiệu quả. Theo các chuyên gia
kinh tế nước ngoài nhận định, mục tiêu trên chỉ có thể đạt được nếu thực
hiện được đồng bộ một số giải pháp như: xây dựng được khung pháp lý
chung cho các thành phần kinh tế cùng bình đẳng phát triển với Luật doanh
nghiệp chung, Luật đầu tư chung, Luật chống độc quyền, hướng dẫn cụ thể
Luật phá sản, Luật cạnh tranh; Cần có lộ trình giảm các chi phí khởi nghiệp
và vận hành kinh doanh như đơn giản hóa quy trình cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh, đơn giản hơn quy trình đăng ký và cấp mã số thuế, khắc
dấu, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu công trình, giảm gánh
nặng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc tuân thủ các quy định liên
quan đến kế toán và tăng mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính của doanh
nghiệp. Mặt khác, Nhà nước cũng cần tăng cường hơn nữa hoạt động trợ
giúp đào tạo nguồn nhân lực cho DNN&V, kể cả đối tượng là chủ và người
lao động trong doanh nghiệp, đẩy mạnh khả năng tiếp cận các nguồn tài
chính cho các doanh nghiệp, phát triển Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa,
Quỹ đầu tư mạo hiểm. Đã đến lúc cần lựa chọn lĩnh vực ưu tiên phát triển
riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trên cơ sở các chiến lược phát triển
ngành đã được phê duyệt.