Giải pháp huy động vốn đầu tư (trong và ngoài nước) cho phát triển kinh tế
Năm 2005, năm cuối cùng của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2001-2005) đã đi qua, đánh dấu những thành tựu mang tính toàn diện và quyết định cho sự chuyển mình của đất nước. Những nỗ lực bền bỉ trong đổi mới cơ chế, chính sách, pháp luật về tài chính, tiền tệ và đầu tư đã tạo dựng được một môi trường đầu tư và kinh doanh ngày càng thuận lợi, thông thoáng và minh bạch, tạo điều kiện thu hút tối đa các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội.......
Giải pháp huy động vốn đầu tư (trong và ngoài nước) cho phát triển kinh tế
Trần Bắc Hà - TGĐ NH Đầu tư và Phát triển VN
Năm 2005, năm cuối cùng của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm
(2001-2005) đã đi qua, đánh dấu những thành tựu mang tính toàn diện và
quyết định cho sự chuyển mình của đất nước. Những nỗ lực bền bỉ
trong đổi mới cơ chế, chính sách, pháp luật về tài chính, tiền tệ và đầu tư đã tạo dựng
được một môi trường đầu tư và kinh doanh ngày càng thuận lợi, thông thoáng và minh
bạch, tạo điều kiện thu hút tối đa các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội.
Trong 5 năm qua, tỷ trọng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bình quân đạt trên 35% GDP, vượt
mục tiêu đã đề ra tại Đại hội Đảng IX (31-32%GDP). Trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội, mức
huy động các tiềm năng trong nước đạt 70%, vượt mục tiêu Đại hội IX - 66%. Nhờ vậy, tổng sản
phẩm quốc nội GDP đã đạt mức tăng trưởng cao và liên tục, đặc biệt, năm 2005 đạt mức kỷ lục
8,4%.
Phát huy những thành tích đã đạt được trong tăng trưởng kinh tế và huy động nguồn vốn cho
phát triển, Quốc hội và Chính phủ đã đề ra mục tiêu cho giai đoạn 2006 - 2010 tăng trưởng GDP
bình quân trên 8%/năm. Để thực hiện được mục tiêu này, ước tính nhu cầu vốn cho phát triển
kinh tế 5 năm tới lên đến 140 tỷ USD; tỷ trọng huy động vốn đầu tư xã hội trung bình cả giai
đoạn là 38% - 40% GDP, với tốc độ tăng trung bình 12% - 13%/năm, trong đó nguồn vốn trong
nước chiếm từ 60% - 65%.
“Giải pháp huy động vốn đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế”. Dưới đây xin
đi thẳng vào 3 nội dung chính:
1. Nội dung thứ nhất: Về những thành tựu và tiến bộ của hệ thống ngân hàng và của
BIDV
Trong giai đoạn 2001-2005, Ngân hàng Nhà nước đã thực thi chính sách tiền tệ thận trọng, linh
hoạt, về cơ bản đã đạt được mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự ổn định và phát triển của hệ thống các TCTD. Việc điều hành
chính sách tiền tệ thông qua các công cụ gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn, dự
trữ bắt buộc đã tăng cường khả năng điều tiết vốn khả dụng của các NHTM, qua đó nâng cao
khả năng cung ứng vốn của hệ thống NHTM cho nền kinh tế.
Cùng với đó, NHNN đã thực hiện điều chỉnh hành lang pháp lý, cơ chế chính sách theo hướng
tiếp cận với các thông lệ quốc tế, nhất là trong điều hành lãi suất, tỷ giá, quản lý ngoại hối, tín
dụng và hoạt động thanh toán. Luật Các tổ chức tín dụng đã được sửa đổi vào giữa năm 2004,
kèm theo hàng loạt những quy định chặt chẽ đối với các TCTD trong việc đảm bảo các tỷ lệ an
toàn trong hoạt động, trích lập dự phòng và xử lý rủi ro. Bên cạnh đó những nỗ lực lớn trong việc
phát triển ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại đã tạo điều kiện thuận lợi nâng cao hiệu quả
hoạt động tiền tệ, tín dụng của hệ thống ngân hàng.
Trong giai đoạn 2001-2005, vốn đầu tư thông qua kênh trung gian tài chính (hệ thống ngân
hàng) vào nền kinh tế chiếm trung bình từ 20-22% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Bình quân tăng
trưởng huy động vốn (và dư nợ cho vay nền kinh tế) giai đoạn 2001-2005 đạt mức khá cao, từ
20-25% hàng năm. Cùng với nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước, khu vực dân cư và tư
nhân, ODA, FDI và kiều hối, nguồn vốn qua kênh NHTM thực sự đóng vai trò quan trọng trong
việc tài trợ cho tín dụng đầu tư phát triển nền kinh tế.
Giai đoạn 2001-2005 cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với BIDV. Qua việc thực hiện thành
công đề án tái cơ cấu, liên tục trong nhiều năm, BIDV đã đóng góp một phần quan trọng trong
kết quả chung của hệ thống NHTM với thị phần huy động vốn và dư nợ cho vay từ 15 - 20%.
Nguồn vốn huy động đến cuối năm 2005 của BIDV ước đạt 81.000 tỷ VND, tăng hơn 2 lần so
với năm 2001, bình quân tăng 22%/năm. Các yếu tố về đối tượng khách hàng, kỳ hạn và loại
tiền cũng có những cải thiện tích cực. Đặc biệt, huy động vốn từ khu vực dân cư chiếm 52,8%
tổng huy động, là nguồn vốn ổn định và quan trọng đối với hoạt động của BIDV. Quy mô đầu tư
năm 2005 của BIDV cho nền kinh tế khoảng 90 nghìn tỷ đồng và ước tính trong giai đoạn 2006 -
2010 tốc độ phát triển về tài trợ vốn cho nền kinh tế vẫn sẽ luôn tăng trưởng ở mức 20%.
Trong định hướng phát triển ngành ngân hàng giai đoạn 2006 - 2010 đã xác định toàn Ngành
cần duy trì tốc độ tăng trưởng huy động vốn, tín dụng từ 22-25%/năm để góp phần thúc đẩy
kinh tế tăng trưởng. Như vậy, chỉ tiêu này tiếp tục cao hơn tốc độ tăng vốn đầu tư toàn xã hội
(dự kiến 12-13%). Đây được xem là mức phấn đấu khá cao đối với hệ thống ngân hàng trong
điều kiện huy động vốn ngày càng gặp nhiều khó khăn, tập trung vào 4 vấn đề:
Một là, tốc độ tăng trưởng kinh tế dù được duy trì ở mức cao trong nhiều năm nhưng thu nhập
quốc dân bình quân đầu người vẫn còn thấp, tiết kiệm và tích luỹ trong dân cư tuy đã tăng
nhưng còn ở mức khiêm tốn và dân cư vẫn chưa thực sự tin tưởng khi gửi tiết kiệm và sử dụng
các dịch vụ của Ngân hàng. Bên cạnh đó, quy mô vốn của các doanh nghiệp còn nhỏ bé, hoạt
động chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng; nhu cầu đầu tư cao trong khi khả năng tự tích luỹ, tài trợ
thấp.
Hai là, yếu tố giá cả tăng mạnh trong 2 năm gần đây gây ra tâm lý e ngại gửi tiền VND dài hạn
vào hệ thống ngân hàng, dẫn đến việc người dân chuyển sang đầu tư vào bất động sản, hoặc
tích trữ dưới dạng USD và vàng.
Ba là, xu hướng tăng lãi suất USD tại Mỹ đã làm gia tăng tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế,
gây sức ép rất lớn lên lãi suất đối với Đồng Việt Nam và gây nhiều khó khăn cho công tác huy
động vốn.
Bốn là, mức độ cạnh tranh trên thị trường vốn ngày càng cao, việc huy động vốn của các NHTM
phải cạnh tranh với các kênh thu hút vốn khác như tiết kiệm bưu điện, bảo hiểm nhân thọ, hoạt
động đầu tư bất động sản, đầu tư cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường tài chính.
Từ phân tích và lường đón những yếu tố thuận lợi cũng như bất lợi, BIDV đã chủ động xây dựng
Chiến lược phát triển giai đoạn 2006-2010 với mục tiêu cơ bản là: Nâng cao chất lượng, khả
năng sinh lời và đảm bảo an toàn trong hoạt động; Chủ động tham gia các chương trình kinh tế
trọng điểm như năng lượng, vật liệu xây dựng, công nghiệp tàu thuỷ, viên thong.. Cơ sở để thực
hiện là phải triển khai được chiến lược huy động vốn với các nội dung cơ bản:
Một là, phấn đấu thực hiện huy động vốn tăng trưởng với tốc độ bình quân 20%/năm để đáp
ứng cho nhu cầu tín dụng.
Hai là, đa dạng hoá hình thức huy động vốn: có tính đến hình thức phát hành trái phiếu quốc tế
vay vốn nước ngoài nhằm tài trợ cho các dự án của các DN khách hàng có những dự án đầu tư
dài hạn, có tính khả thi cao, dự kiến huy động khoảng 1 đến 1,3 tỷ USD.
Ba là, tiếp tục tăng cường tỷ trọng huy động vốn từ dân cư để đảm bảo duy trì nguồn vốn ổn
định; tích cực huy động các nguồn vốn trung và dài hạn để đảm bảo cân đối giữa cơ cấu huy
động và cho vay.
Bốn là, tiếp tục thực hiện tốt vai trò ngân hàng bán buôn cho dự án Tài chính Nông thôn II do
Ngân hàng thế giới tài trợ, đồng thời tiếp tục hoàn thiện đủ các điều kiện để tiếp nhận vốn vay
giai đoạn III vào đầu năm 2006, góp phần cung ứng nguồn vốn với lãi suất ưu đãi cho phát triển
khu vực nông thôn.
Năm là, tích cực xây dựng Liên doanh Quản lý Quỹ đầu tư giữa BIDV với đối tác Mỹ nhằm thúc
đấy chương trình đầu tư trực tiếp và gián tiếp của BIDV và các đối tác kinh doanh vào các
doanh nghiệp Việt Nam.
Bên cạnh đó, một nội dung quan trọng trong định hướng hoạt động của BIDV đã được khởi
động từ năm 2005 là tiến hành cổ phần hoá. Vấn đề này vừa phù hợp với chủ trương của Đảng
và Chính phủ vừa là nhu cầu cấp thiết đối với BIDV trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt trong việc
nâng cao năng lực tài chính, cải cách toàn diện hoạt động kinh doanh, quản trị điều hành, tăng
cường sức cạnh tranh.. Theo kế hoạch dự kiến đến cuối năm 2007 BIDV thực hiện CPH.
2. Nội dung thứ hai: Đánh giá tổng thể cơ chế, chính sách quản lý điều hành vĩ mô của
Chính phủ trong huy động vốn đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế và
những tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và hệ thống ngân hàng
Thuận lợi
Dưới sự chỉ đạo kịp thời của Quốc hội, Chính phủ, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về tài
chính-tiền tệ-đầu tư tiếp tục được đổi mới theo hướng tạo môi trường đầu tư và môi trường kinh
doanh thuận lợi, thông thoáng và minh bạch, nhằm thu hút tối đa các nguồn tiềm năng để phát
triển kinh tế - xã hội.
Môi trường pháp lý cho hoạt động của các doanh nghiệp đã dần được hoàn thiện, Các hình thức
và các công cụ huy động nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước đã từng bước được đa dạng
hoá và dần thực hiện theo các nguyên tắc thị trường, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư
Việt Nam-Nhật Bản, hiệp định kết nối kinh tế Việt Nam - Singapore đang hứa hẹn những làn
sóng đầu tư mới từ các quốc gia này. Giới đầu tư quốc tế đang bày tỏ sự quan tâm ngày càng
tăng đối với các cơ hội đầu tư vào Việt Nam. Trong 02 ngày 8 và 9 tháng 12/2005, 100 nhà đầu
tư với số vốn ước tính 100 tỷ USD đã đến Việt Nam tham dự Hội nghị đầu tư gián tiếp nước
ngoài tại Việt Nam do Công ty Vinacapital và VCCI phối hợp tổ chức.
Những rào cản trong quá trình huy động vốn đầu tư trong và ngoài nước trên bình diện nền kinh
tế và dưới giác độ hệ thống NHTM.
* Trên bình diện nền kinh tế
Dù đã có những sửa đổi nhưng nhìn chung hệ thống luật pháp của Việt Nam vẫn còn quá phức
tạp, với nhiều cấp độ khác nhau: Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư. Việc hướng dẫn tạo ra
độ trễ khá lớn về thời gian từ khi văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực cho đến khi được áp
dụng vào cuộc sống.
Cơ chế chính sách của nhà nước vẫn chưa thực sự tạo cho các DNNN quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm. Các DNNN chưa thể hiện rõ tính độc lập tự chủ trong công tác huy động vốn cho
đầu tư sản xuất kinh doanh, còn dựa vào NSNN và vốn vay ngân hàng.
Về huy động vốn trong nước, việc thực hiện cổ phần hoá DNNN còn chậm, Thị trường chứng
khoán còn ở trình độ thấp, qui mô nhỏ bé, chất lượng dịch vụ chưa cao, chưa trở thành một
kênh huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát triển.
Đối với hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước (chiếm 75% thị phần tín dụng, huy động vốn
của toàn ngành), việc tài trợ cho các DNNN gặp rất nhiều khó khăn trong công tác thu hồi vốn
để tái đầu tư Nợ xấu, nợ quá hạn lớn phần nhiều cũng nảy sinh từ hoạt động tài trợ cho các DN
này, dẫn đến khả năng sinh lời của các NHTM thấp do phải thực hiện trích lập dự phòng rủi ro
lớn theo quy định hiện hành.
Về huy động vốn ngoài nước, nhiều tiềm năng vốn vốn nước ngoài chưa được khai thác triệt để.
Thực hiện ODA và FDI còn thấp so với mức cam kết và đăng ký của các nhà tài trợ, các nhà đầu
tư tại Việt Nam. Sự cạnh tranh trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang ngày càng
trở nên gay gắt trong khu vực và trên thế giới trong khi môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn bị
đánh giá là thiếu nhất quán và kém cạnh tranh; thông tin kém minh bạch, chi phí của một số yếu
tố đầu vào còn cao, dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp còn hạn chế. Bên cạnh đó, thu hút vốn đầu tư
gián tiếp (FII) còn chưa tương xứng với tiềm năng. Việc khơi thông nguồn vốn FII vào các doanh
nghiệp của Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Phần nhiều là do Việt Nam chưa thực sự có
những quy định pháp lý rõ ràng trong thu hút nguồn vốn này.
* Dưới giác độ hệ thống NHTM
Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vốn nhỏ bé trong khi phải thực hiện
những nhiệm vụ chiến lược, những dự án có tổng vốn đầu tư lớn nên việc đảm bảo đủ 15% vốn
tự có (hoặc 30% đối với các dự án đầu tư theo hình thức B.O.T) để được vay vốn các Ngân
hàng thương mại với hình thức đảm bảo nợ vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay là rất khó
khăn. Ngoài ra, cơ sở pháp lý để xác định phần vốn này đôi khi còn chưa rõ ràng. Thực tế, có rất
ít doanh nghiệp đạt được tỷ lệ vốn tự có này.
Nợ tồn đọng trong các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là doanh nghiệp ngành xây lắp chưa
được giải quyết thoả đáng. Các doanh nghiệp không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ Ngân
hàng trong khi các NHTM lại chưa nhận được sự hỗ trợ để thu hồi nợ vay từ các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền.
Tài sản đảm bảo nợ vay, phát mại tài sản bảo đảm hiện nay là trở ngại lớn cho các NHTM (đặc
biệt là tài sản của các doanh nghiệp Nhà nước) vì đa phần các tài sản chưa đủ cơ sở pháp lý để
thế chấp, cầm cố. Vì vậy, khi xử lý tài sản đảm bảo Ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn và làm
giảm sút giá trị của tài sản.
Xử lý tranh chấp liên quan đến nợ vay giữa Ngân hàng và doanh nghiệp nhiều khi còn chưa
công bằng, quyền lợi của Ngân hàng chưa được bảo đảm khi doanh nghiệp có nguy cơ mất khả
năng thanh toán.
3. Nội dung thứ ba: Kiến nghị đối với Chính phủ, các bộ, ngành và cộng đồng doanh
nghiệp về việc đẩy mạnh huy động vốn trong và ngoài nước
Để đáp ứng được nhu cầu vốn cho phát triển nền kinh tế, rất cần xây dựng và thực hiện các
chiến lược huy động vốn hợp lý trong bối cảnh các luồng vốn đầu tư trong nước, khu vực và thế
giới có nhiều biến động. Với vị trí là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ - ngân
hàng, nhằm tăng khả năng huy động vốn, BIDV xin kiến nghị Chính phủ, các bộ ngành và đề
nghị các cấp chính quyền, các doanh nghiệp một số điểm như sau:
1. Đối với Chính phủ:
Chính phủ cần đánh giá một cách toàn diện và xử lý hợp lý mối quan hệ giữa nguồn lực trong
nước và ngoài nước theo hướng đảm bảo nợ quốc gia nằm trong phạm vi kiểm soát được. Chỉ
đạo các bộ, ngành lập kế hoạch thu hút và sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm các nguồn vốn.
Xác định rõ những ngành, lĩnh vực, công trình bắt buộc nhà nước phải đầu tư triệt để và toàn
bộ. Những lĩnh vực còn lại cần có kế hoạch, lộ trình cụ thể để huy động vốn đầu tư của toàn xã
hội theo một cơ chế đầu tư minh bạch và thuận lợi, không phân biệt thành phần kinh tế.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy nhanh quá trình đổi mới, sắp xếp DNNN Đặc biệt là tiến
trình cổ phần hoá DNNN, định giá đúng và công khai, minh bạch mọi thông tin trước khi bán cổ
phần để nâng cao hiệu quả thu hút vốn từ các nhà đầu tư. Về việc cổ phần hóa, BIDV xin tham
gia một số ý kiến:
- Chính phủ cần có hướng dẫn cụ thể cho đặc thù hoạt động của các NHTM khi cổ phần hóa.
Đồng thời cần xem xét lại cách hiểu cổ đông lớn của Nhà nước trong các doanh nghiệp được cổ
phần, theo BIDV, Nhà nước chỉ nên giữ mức 30 -35%.
- Xác định tiêu chí cổ đông chiến lược của các NHTM khi CPH là các tập đòan tòan cầu, các nhà
đầu tư quốc tế được tham gia vào HĐQT để tận dụng được kinh nghiệm, phương thức quản lý
và công nghệ tiến tiến.
- Các TCTD được chủ động đề xuất và khi được phép của Bộ Tài chính, NHNN có quyền lựa
chọn các công ty tư vấn có uy tín lớn trong việc tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp, bán cổ
phiếu lần đầu, lựa chọn hình thức CPH (1 bước, 2 bước) và những vấn đề khác liên quan..
- Trước khi CPH cần có cơ chế khuyến khích người lao động như việc bán cổ phần cho CBCNV
một cách hợp lý.
Tiếp tục tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân và
trú trọng trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ,
Tiếp tục cải thiện môi trường thu hút đầu tư nước ngoài, kể cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián
tiếp. Bảo đảm quyền kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được mở rộng
phù hợp với các cam kết mở cửa thị trường theo các hiệp định thương mại song phương, trong
đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới.
Cần định hướng về thu xếp vốn cho các dự án có tổng vốn đầu tư lớn, các dự án lớn nên cơ cấu
tỷ lệ vốn trong nước, vốn nước ngoài, vốn của NHTM, vốn từ Ngân sách Nhà nước, vốn của
chủ đầu tư...)
2. Đối với các Bộ: Tài Chính, NHNN, Tư Pháp, Tài nguyên Môi trường
Bộ Tài Chính cần nghiên cứu phát triển thị trường chứng khoán trở thành kênh huy động nguồn
lực có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư dài hạn cho phát triển kinh tế - xã hội.
Đẩy mạnh việc phát hành trái phiếu trong nước và quốc tế: Rà soát nhu cầu thực tế của các DN
lớn (nhóm ngành chiến lược cần đầu tư mạnh mẽ) để hướng dẫn thủ tục phát hành trái phiếu
quốc tế; xem xét phát hành trái phiếu dài hạn trong nước 10 năm, với lãi suất và khối lượng phù
hợp nhằm thu hút vốn trong dân và dần tạo lập thước đo lãi suất chuẩn cho thị trường vốn trong
nước.
Bộ Tài chính cho phép các NHTMNN có lộ trình tách bạch dư nợ KHNN, chỉ định ra khỏi bảng
tổng kết tài sản chậm nhất đến 2010, thời điểm cổ phần hoá toàn bộ các NHTM NN theo định
hướng của Chính phủ.
Hoàn thiện các cơ chế pháp lý về thế chấp đối với tài sản của các doanh nghiệp nhà nước trên
nguyên tắc đảm bảo thuận lợi, đủ căn cứ pháp lý và đặc biệt cần lưu ý đến điều kiện kế thừa và
chuyển đổi loại hình doanh nghiệp hiện nay. Cần quy định sao cho khi xử lý tài sản đảm bảo,
các Ngân hàng có đầy đủ cơ sở và điều kiện thuận lợi để thu hồi vốn.
Cần sớm thống nhất việc đăng ký giao dịch bảo đảm vào một cơ quan duy nhất là Cục đăng ký
quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp để giảm bớt thủ tục, chi phí.
Bộ Tài Chính, NHNN phối hợp hoàn chỉnh khung pháp lý điều chỉnh hoạt động thị trường vốn,
tăng cường liên kết giữa thị trường tiền tệ, thị trường vốn và thị trường dịch vụ tài chính.
Bộ Tài Chính phối hợp Bộ Tài Nguyên Môi trường xây dựng và phát triển thị trường bất động
sản một cách lành mạnh, bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và thị trường nhà ở đô thị
nhằm giải phóng và phát huy nguồn lực đất đai vào phát triển kinh tế.
3. Đối với cộng đồng doanh nghiệp, bên cạnh việc sử dụng vốn tự có, vốn vay ngân hàng,
cần xác định các phương thức thu hút vốn trong và ngoài nước một cách phù hợp. Cụ thể: các
doanh nghiệp nên áp dụng hình thức huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu công ty;
doanh nghiệp cổ phần có thể lựa chọn khả năng phát hành thêm cổ phiếu và niêm yết trên thị
trường chứng khoán trong nước.
Đối với các doanh nghiệp lớn có nhu cầu vay vốn nước ngoài, cần chấp nhận kiểm toán quốc
tế, thực hiện xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp để giúp phát hành trái phiếu doanh nghiệp trên
thị trường quốc tế; xác định Chiến lược kinh doanh 5 năm, 10 năm của doanh nghiệp; chủ động
nâng cao tính minh bạch về tài chính, có định hướng kinh doanh rõ nét để thu hút nguồn vốn
đầu tư gián tiếp từ nước ngoài (FII), từ các quỹ đầu tư...
Một khía cạnh rất quan trọng đối với các doanh nghiệp là việc tăng cường hiệu quả sử dụng
vốn; đổi mới công nghệ để tăng hiệu quả đầu tư. Đây là mục tiêu rất quan trọng, ảnh hưởng
đến khả năng tái tạo vốn cho chính doanh nghiệp.
Trên đây là các ý kiến đóng góp của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam về giải pháp huy động vốn
đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế.
Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam cam kết thể hiện trách nhiệm cao nhất trong việc huy động tối đa
mọi nguồn vốn trong nước và nước ngoài nhằm hỗ trợ các nhu cầu hợp lý về vốn, về cung ứng
các sản phẩm, dịch vụ phục vụ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế, sẵn sàng hợp tác với các chính quyền các địa phương, các doanh nghiệp trong
việc xây dựng và tài trợ cho các chương trình kinh tế, các dự án đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế
- xã hội cao cho doanh nghiệp và địa phương.
Admin (Theo SBV)