Giấc mơ của nghệ thuật thổ dân
Tác giả phản nahs sự giàu có về hình ảnh và sự phức tạp về biểu tượng của một loại hình nghệ thuật đã chiếm giữ một phần quan trọng trong lịch sử của chủ nghĩa hiện đại.
Dự án JDP
Giấc mơ của nghệ thuật thổ dân
• Tác giả phản ánh sự giàu có về hình ảnh và sự phức tạp về biểu
tượng của một loại hình nghệ thuật đã chiếm giữ một phần quan
trọng trong lịch sử của chủ nghĩa hiện đại.
Người viết: Richard Kalina
Người dịch: Vũ Kim Thư
“Ai vẽ tranh giống phong cách mình thế nhỉ” - Rover Thomas, một trong những hoạ
sỹ thổ dân lớn nhất Australia đã thốt lên như vậy vào năm 1990 khi ông lần đầu tiên
đối diện trước bức tranh # 20 vẽ năm 1957 của Mark Rothko trưng bày tại Gallery
quốc gia Australia. Câu hỏi này gợi mở một sự nhìn nhận đối ngược lại với cách nhìn
mà người Châu Âu vẫn dành cho nghệ thuật thổ dân. Thomas, một hoạ sỹ từ vùng sa
mạc phương Tây chuyên vẽ những hình mảng đặc , sử dụng một cách đơn giản các
màu đắt dạng bột tự nhiên. Giống như Rothko, tranh của ông phóng khoáng mang tính
biểu tượng và đầy cảm tính. Mặc dầu sống tại một nơi xa xôi hẻo lánh và đến với
nghệ thuật khi đã đứng tuổi , ông đã trở nên nổi danh thành đạt chỉ sau một thời gian
ngắn. Khi đến thăm Gallery Quốc gia tại Canberra, Thomas đang trên đường tới
Venice - đó là lần đầu tiên ông rời đất nước mình - để đại diện cho Australia tại
Bienale. Ông đã tỏ ra vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy một tác phẩm nghệ thuật hiện
đại phương Tây mà dường như có cùng nhịp đập với sáng tác của chính mình.
Cách nhìn nhận đối với nghệ thuật phương Tây của Thomas với tư cách là một người
thổ dân quả là dễ hiểu. Dưới mọi góc độ, nghệ thuật thổ dân được thế giới nhìn nhận
như một sự kết hợp phức tạp ( và đầy giới hạn) cũng như nghệ thuật của chúng ta
vậy. Nhưng còn mặt khác của vấn đề thì sao? Chúng ta gán những định kiến gì cho
nghệ thuật thổ dân? Thật không may, chúng ta thường cho rằng loại hình nghệ thuật
này đang lụi bại dần hay đánh giá thấp nó, nhìn nhận nó như một thứ chủ nghĩa hiện
đại bị pha trộn, coi nó như một mảng nghệ thuật dân gian thú vị hay đơn giản chỉ là
một chủ đề cho nghiên cứu văn hoá nhân chủng học. Thực ra, tuần trước khi tôi đi
xem triển lãm “ Giấc mơ riêng”, một cuộc triển lãm tuyệt vời có tầm cỡ lớn bao gồm
33 hoạ sỹ thổ dân nữ, tại bảo tàng Hood thuộc trường đại học Quốc Gia tại bang New
Hamphire ( các tác phẩm nghệ thuật này được triển lãm trước đó tại Bảo tàng nghệ
thuật phụ nữ quốc gia tại Washington D.C), tôi đã đề cập đến niềm đam mê yêu thích
của mình đối với nghệ thuật thổ dân nói chung và cuộc triển lãm này nói riêng đối với
một nhà phê bình có tuổi người Mỹ. Ông ấy gạt phắt ra ngay, tôi không nhớ rõ những
từ ngữ chính xác, nhưng câu nói “ một phong cách trừu tượng bốc đồng hạng ba” là
những gì nhà phê bình này sử dụng trong sự phán xét cá nhân của mình.
Hình thức phổ biến nhất của hội hoạ thổ dân hiện đại được nhận dạng bởi những
chấm bút khắp bề mặt tranh, gắn liền với cộng đồng thổ dân thuộc vùng sa mạc, mãi
đến năm1971 mới được biết đến. Đó là khi một thầy giáo dạy nghệ thuật không thuộc
bản địa tên là Geofrey Bardon bắt đầu khuyến khích những người thổ dân Papunya,
một nhóm dân sống khoảng 100 dặm cách Alice Spring, tại trung tâm Australia, mang
ảnh hưởng nghệ thuật của họ và thử nghiệm nó vào những bức tranh tường tại các bức
tường của một trường học, trong đó sử dụng các môtif của văn hoá thổ dân. Dự án kết
thúc với kết quả là một bức tranh kích cỡ 10 x 33 foot vẽ về giấc mơ của loài kiến
mật. Đây là kết quả của sự kết hợp linh hoạt giữa những người thổ dân và các hoạ sỹ.
Bức tranh tường đã trở thành một thành công lớn, và ngay sau đó, những nguời dân
này đã bắt đầu vẽ lại những câu chuyện truyền thống và những môtif trên gỗ và toan.
Cần biết một điều rằng Papunya là một vùng đất chứa chấp người lưu vong được
chính thức hoá vào năm 1961. Những người dân cư trú tại đây bị chính phủ đưa đến
từ các vùng sa mạc hẻo lánh rải rác để cho họ được hưởng cái gọi là “văn minh hoá”.
Sự phát triển của nghệ thuật thổ dân mà chúng ta biết dến ngày nay xuất phát từ quyết
tâm của những người thổ dân già khẳng định bản sắc của dân tộc mình, dặc biệt đối
với thế hệ trẻ trước tình trạng áp lực bị đồng hoá. Câu chuyện về trào lưu phát triển
này đầy phức tạp và rắc rối, nhưng sự phức tạp và bí ẩn dường như đi song song với
một phong cách nghệ thuật mà người sáng tạo ra nó sử dụng phương pháp diễn giải
không rõ ràng, ít nhất đối với công chúng bên ngoài. Biểu tuợng của bất cứ một bức
tranh cụ thể nào đều rất khó giải mã. Ngay cả những kỹ xảo trong trong tranh cũng
che giấu những điều bí ẩn. Nhiều người cảm thấy rằng kỹ thuật chấm được sử dụng để
phơi bày cũng như giấu đi những thông tin bí mật của riêng họ, đó là một phản hồi
dựa trên các tác phẩm hội hoạ thời kỳ đầu (Thực ra, các nghệ sỹ lớn tuổi và những
người thổ dân già có mong muốn di chuyển những tác phẩm nghệ thuật thời kỳ đầu và
các tác phẩm nghệ thuật quan trọng ra khỏi nơi trưng bày công cộng hiện đang nằm
trong các bảo tàng.)
Lịch sử phức tạp của nó đã khiến một vài nhà phê bình phán xét hội hoạ thổ dân khắt
khe hơn dưới con mắt chính trị nhiều hơn là cái nhìn nhận từ mặt chuyên môn. Trong
khi thông cảm với các nghệ sỹ thổ dân này, một số những người viết phê bình đã đánh
giá toàn bộ sự việc này như một nhược điểm ( theo một phía). Đó là một chuỗi dây
của sự đồng hoá, sự kiêu căng, sự thiếu nhạy cảm, tham lam và khờ khạo. Đối với
những kẻ hoài nghi này, các ý tưởng cho rằng người xem ngoài cuộc có thể tiếp cận
với nghệ thuật thổ dân bỏ qua sự thành kiến đều là vô lý, đó chính là sự kiêu căng của
quyền lực. Cũng như Tony Fry và Anne Wllis viết trong tạp chí này, “sự trôi dạt tới
sự đa dạng văn hoá không hẳn là một chỗ khai sáng mà như một sự lừa lọc nhẫn tâm
trên lãnh thổ của chính những giá trị quan trọng hàng đầu .” Cách nghĩ như vậy có
thể dẫn đến sự huỷ hoại về văn hoá, xa hơn thế là cả sự khuyến khích những hoạt
động mang tính chính trị, như đài phát thanh của thổ dân và các kênh truyền hình
riêng của họ.
Tất nhiên, nghệ thuật thổ dân vẫn chưa gây được nhiều sự chú ý bên ngoài lãnh thổ
Australia (mặc dầu bộ sưu tập nghệ thuật thổ dân được khai mạc trong cuộc triển lãm
này vào tháng sáu vừa rồi tại Bảo Tàng Quai Brandly tại Paris có thể được coi là một
sự khởi đầu). Brian Kenedy - giám đốc bảo tàng Hood, người trước kia là giám đốc
Gallery Quốc Gia Australia kể với tôi rằng triển lãm “ Giấc mơ riêng” đã được đề
xuất cho 50 bảo tàng trên nước Mỹ, nhưng nó đều bị tất cả các nơi từ chối.
Khám phá sự giàu có của nghệ thuật thổ dân là một ngạc nhiên lớn trong chuyến đi
của tôi tới Australia và New Zealand cách đây hai năm. Tôi viết về nghệ thuật của
nước này, nhưng nghệ thuật thổ dân quả là một chủ đề quá phức tạp: nó đòi hỏi một
sự nghiên cứu riêng. Ngày nay tại Australia, nghệ thuật thổ dân được trưng bày nổi
bật trong các bảo tàng, các gallery và các bộ sưu tập nhà nước cũng như cá nhân, nó
xuất hiện trong các toà nhà công cộng, các cửa hàng du lịch, các phòng khách tại sân
bay và các quầy hàng trên phố. Thực ra nó là thứ đầu tiên bạn nhìn thấy khi đến đất
nước này - ít nhất nếu bạn bay trên hãng hàng không Oantas. Máy bay của hãng này
được trang trí với các môtif hội hoạ thổ dân và những mảng trang trí cà vạt và khăn
quàng cổ của các tiếp viên hàng không được sử dụng màu sắc và kiểu dáng của tranh
chấm thuộc vùng sa mạc. Nghệ thuật thổ dân dường như đã bước vào và lấp đi một
khoảng trống trong nghệ thuật thiết kế và thật sự trở thành một thương hiệu nghệ thuật
thị giác cho Australia với toàn bộ mục đích và động cơ của nó. Thật mỉa mai và đáng
buồn thay, trong đó việc công nhận sự có mặt của những người thổ dân trong xã hội
này dường như vẫn hoàn toàn là một sự thờ ơ. Toàn bộ khung cảnh nghệ thuật nhìn
dưới dưới góc độ thiết kế khá tốt, nhưng phải cho đến khi tôi tiếp cận với một tác
phẩm nghệ thuật gốc thời kỳ đầu tại bảo tàng quốc gia Victoria tại Melbourne , lúc đó
sức mạnh của loại hình nghệ thuật này thuyết phục tôi thực sự. Niềm say mê của tôi
vẫn tiếp tục, và cuộc triển lãm tại bảo tàng Hood chỉ làm tăng thêm sức mạnh cho nó.
Cần lưu ý một điều rằng không phải tất cả các tác phẩm nghệ thuật được làm bởi
những người thổ dân dều như chúng ta hình dung. Có một số ít những nghệ sỹ thổ dân
được học hành đào tạo như Tracey Moffatt sáng tác với chất liệu tổng hợp, đa phương
tiện như lắp đặt (installation) hay nhiếp ảnh. Trong khi các tác phẩm nghệ thuật của
những nghệ sỹ này có chủ đề liên quan đến văn hoá thổ dân, tác phẩm của họ cũng rất
phù hợp khi được trưng bày trong những không gian như gallery ở Chelsea trong Hội
nghị văn hoá Châu Âu được tổ chức 2 năm một lần. Triển lãm “Giấc mơ riêng” cũng
có một số những tác phẩm của những hoạ sỹ thổ dân bản xứ, nhưng có liên quan đến
cả hai thế giới. Ví dụ, nghệ sỹ người Brisbane Judy Watson vẽ những mảng trừu
tượng với màu sắc nhoà vào nhau một cách tinh tế, như trong bức tranh “ Nét của
nước” bà vẽ năm 2001 chứa đựng những màu sắc rực rỡ đặt kề nhau với những hình
vẽ được tạo ra bằng những đường nét với độ dày kích cỡ nhất định - trong khung cảnh
này là một cành gai nhọn và một hình cân xứng lớn màu trắng bao bọc bên ngoài gây
cho tôi cảm giác nó giống như cái đầu của một con vật, một cái vỏ sò hay có thể là
một cái bình đựng nước. Watson rất để tâm đến nội dung văn hoá thổ dân trong tranh
của mình, nhưng những bức tranh của bà cũng rất phù hợp khi được đặt vào giữa
trung tâm khung cảnh nghệ thuật trừu tượng Hậu hiện đại.
Một số những nghệ sỹ theo phong cách truyền thống trong cuộc triển lãm “Giấc mơ
riêng” như Emily Kame Kngwarreya ( 1916 - 1996) , Queenie Mc Kenzie (1930 -
1998) , Gloria Temarre Petyarre( sinh năm 1948) và Dorothy Napangardi Robinson
(sinh năm 1956) , khá nổi tiếng và tranh của họ có giá trị cao trên thị trường quốc tế.
Tranh của Kngwarreye đắt hơn cả. Với lượng sáng tác dồi dào - bà đã sáng tác khoảng
3000 tác phẩm trong vòng 8 năm qua và vào những năm sau này, bà vẫn là một hoạ sỹ
tự do nhất với phong cách diễn đạt phóng khoáng trong số các hoạ sỹ thổ dân hiện đại
hàng đầu. Một bức tranh như Anorahya ( Gíâc mơ Yam hoang dại) sáng tác năm
1995 với sự kết hợp đan xem những đường nét uốn lượn màu đỏ và hồng thể hiện một
nội lực và sự gần gũi vừa tạo chất sần sùi vừa hấp dẫn một cách bản năng.
Tác phẩm mỹ thuật như thế này có thể đứng độc lập riêng nó trong bất cứ hoàn cảnh
nào, nhưng cần phải làm rõ rằng nghệ thuật của bà nói riêng và nghệ thuật thổ dân
nói chung đều thuộc nước Australia và được phát huy những tinh tuý cao nhất khi
được thưởng thức ngay trên chính mảnh đất sinh ra nó. Nghệ thuật thổ dân thuộc về
bản chất địa phương. Nó phản ánh những miền đất, con người, những sự huyền bí, và
những hoạt động thuộc về địa phận riêng biệt của nó. Dù là dành cho những hoạ sỹ
thuộc vùng miền Tây sa mạc hay khách tham quan bảo tàng Adelaine, vùng đất xa xôi
hẻo lánh này sống hiện hữu trong ý thức của người dân Australia - những màu sắc cụ
thể, sự khô cằn, sự trống rỗng, cảm giác hiện diện của con người tạo nên một dấu vết
chuyển dời trên mảnh đất ấy. Nghệ thuật là hiện thân của một miền đất, chứ không
phải chỉ miêu tả nó, nghệ thuật phản ánh tinh thần mạnh mẽ của mảnh đất ấy cho dù
tác phẩm nghệ thuật này được trưng bày trên chính nơi sinh ra nó hay một nơi nào
khác có liên quan .
Một điều quan trọng cần nhớ rằng ở Australia, nghệ thuật thổ dân được coi là một
phần quan trọng của nghệ thuật đương đại dưới con mắt của các bảo tàng, các nhà
sưu tập, các nhà phê bình và các nghệ sỹ. Tuỳ vào sự lựa chọn giám tuyển, nghệ thuật
thổ dân có thể được trưng bày cạnh các phong cách khác có liên quan ( như trường
phái xây dựng ( Constructivism) , ví dụ nó được trưng bày cùng với nghệ thuật lập thể
và de Stijl) hoặc được trưng bày tại một không gian chung tại địa phương, cùng một
thể loại, một chủ đề, hoặc theo một trình tự giống như bất cứ một loại hình nghệ thuật
nào. Dù sao, các nghệ sỹ Australia không thuộc bản địa đều dường như có những thái
độ nhất định về nghệ thuật thổ dân. Mặc dầu họ không hiểu biết rõ về nghệ thuật này,
họ yêu thích và tôn trọng nó, cho nó một vị trí ngay trong chính sáng tác cá nhân của
mình. Nghệ thuật thổ dân mang những hình thức riêng biệt (hấp dẫn) và những đặc
điểm ký hiệu riêng. Trong một thế giới mà những môtif này được vay mượn hay được
đưa ra làm ví dụ phổ biến, bạn có thể nghĩ rằng bản thân những hoạ sỹ không thuộc
bản địa có lẽ sẽ muốn tận dụng vay mượn nó. Nhưng những nghệ sỹ như Tim
Johnson, người đã mượn những hình ảnh từ nghệ thuật thổ dân vẫn còn là những ví dụ
rất hiếm. Đây là dấu hiệu trái ngược so với cách các nghệ sỹ New Zealand sử dụng
các môtif của người Maori. Những môtif này được coi là tài sản văn hoá chung, quả
thật cũng không ngạc nhiên gì đối với một xã hội khá thân thiện và dễ dàng đối với
những người thổ dân bản xứ.
Lịch sử phát triển của người thổ dân và quan hệ của họ đối với dân số còn lại của
Australia tăng thêm sức mạnh hỗ trợ cho những người nhìn thấy nghệ thuật thổ dân là
một điển hình của văn hoá đương đại và là tiềm năng kinh tế. Sự đối xử của những
người Australia da trắng đối với những người thổ dân bản địa có lẽ là một dấu vết
đáng xấu hổ nhất trong nền văn hóa ( không phải là sự đối xử với người bản địa ở
Bắc Mỹ có gì tốt đẹp hơn). Văn hoá thổ dân Australia là một trong những nền văn hoá
lâu đời nhất trên thế giới.Trước đây, họ là những người dân du mục lang thang, người
thổ dân đã xuất hiện trên châu lục này vào khoảng 40.000 năm và tồn tại được trong
những điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt nhất. Nhung khác so với người dân Maori, họ
gần như không hoà nhập vào sự thuộc địa hoá, và sau bao nhiêu năm, họ bị đẩy ra
khỏi mảnh đất của mình, bị ép buộc đồng hoá, bị tước đoạt nền văn hoá của riêng
mình, và thường xuyên bị giết hại. Sự thành kiến và khinh miệt đối với họ ( vẫn tồn
tại ở một số vùng ngày nay) thất đáng sửng sốt, và không ngạc nhiên gì, sự tàn phá
này đã tước đoạt đi sự sống của họ. Các cấp bậc của sự nghèo đói, ốm đau với mọi
loại bệnh tật, cuộc sống thấp kém không có hy vọng, gia đình bị chia cắt và sự giam
giữ - những dấu hiệu của một xã hội thoái hoá - đã đẩy họ ra xa toàn bộ dân số còn
lại của Australia. Thậm chí đến bây giờ, trong một xã hội được đánh dấu bởi sự giàu
có và niềm tin vào sự bình đẳng, người thổ dân vẫn sống dưới đáy của mọi cấp bậc xã
hội. Nền nghệ thuật phi thường của họ đã tuôn trào trong những điều kiện khắc
nghiệt, phản ánh sự chịu đựng, kiên cường và nội lực thay đổi trong nghệ thuật.
“Giấc mơ riêng” như đã nêu trên là một cuộc triển lãm của các nữ hoạ sỹ. Cuộc triển
lãm tập trung này không xuất phát từ một ý tưởng bột phát - như các cuộc triển lãm
nghệ thuật của phụ nữ trước đây. Không phải xuất phát từ vì lý do theo kiểu cần phải
quan tâm đến phụ nữ, vì họ chịu nhiều thiệt thòi không có chỗ đứng trong lịch sử hay
họ chỉ là những người khâu vá, “Giấc mơ riêng” là cuộc triển lãm với loại hình nghệ
thuật chỉ có phụ nữ làm. Phụ nữ thuộc sa mạc trung tâm Australia ít có liên quan đến
hội hoạ thời kỳ đầu, cho đến những năm 80 thì họ mới bắt đầu có những sáng tác của
riêng mình, những người phụ nữ thuộc miền Bắc bắt đầu sáng tác nghệ thuật vào
những năm 60 khi cha của họ sử dụng sự giúp đỡ của con gái mình trong quá trình
sáng tác. Trong cả hai trường hợp, phụ nữ giờ đây đã trở thành một phần không thể
thiếu được và là mấu chốt trong lịch sử nghệ thuật thổ dân nhiều năm qua. Tôi khó có
thể mường tượng được một người phụ nữ phương Tây nào khác rơi vào vị trí như
Emily Kngwarreye giờ đây có thể thành công đến vậy trên nền nghệ thuật thổ dân. Tất
nhiên, nghệ thuật thổ dân không chỉ là lãnh địa dành riêng cho nữ giới. Thực ra, nghệ
thuật và cuộc sống của người thổ dân được phân chia. Phụ nữ làm các công việc khác
với đàn ông, và sự phân chia ấy thể hiện ngay trong đề tài nghệ thuật.
Rõ ràng các nghệ sỹ phương Tây được tự do lựa chọn bất cứ những chủ đề hay phong
cách nào họ muốn. Các hoạ sỹ thổ dân lại không được như vậy, it nhất đối với các
hoạ sỹ thổ dân truyền thống - những người có quyền sử dụng các chủ đề cụ thể những
giá trị của gia đình, của bộ tộc và của các cấp bậc xã hội. Tập trung vào các ý nghĩa
thực, toàn bộ nghệ thuật thổ dân có quan hệ với cấu trúc vũ trụ học liên quan dến
những giấc mơ. Đây là một chủ đề quá phức tạp để dề cập chi tiết, nhưng điều quan
trọng ở đây là sự khác nhau về địa hình, trong đó ảnh hưởng đến cuộc sống tinh thần
tâm linh của người dân định cư rải rác dọc theo sa mạc rộng lớn, ảnh hưởng đến hình
thức tránh tạo ra những khoảng không gian trống trong tranh. Tìm kiếm thức ăn và
nước là điều tối thiểu để tồn tại và những câu chuyện từ tổ tiên và những sinh vật
huyền thoại từ những giấc mơ được gắn liền với những miền đất và những con đường.
Nghệ thuật thổ dân thuật lại những câu chuyện, nhưng không trực tiếp và nhất là
không trực tiếp với chúng ta. Xã hội thổ dân nắm giữ nhiều điều bí mật đối với những
người không thuộc thổ dân bản địa và đối với cả những bộ tộc, những nhóm gia đình
khác và với cả những thành viên chưa được kết nạp vào bộ tộc. Đàn ông có thông tin
riêng, công việc riêng và dùng công cụ của riêng họ và phụ nữ cũng vậy. Các bức
tranh dù được vẽ với năng lực lớn nhất của cả hai giới tính, đều vẫn mang những
môtif rất riêng biệt. ví dụ, trong xã hội săn bắn của người thổ dân, phụ nữ đảm nhiệm
công việc hái lượm, mặc dù họ cũng săn những con mồi nhỏ, trong khi đàn ông đảm
nhiệm săn bắt những con mồi lớn như kangaroo.. Những bức tranh miêu tả phụ nữ hái
dâu, cũng như những bức tranh trưng bày các bộ phận cơ thể của người phụ nữ ( phần
lớn là vú) hay sử dụng những dấu hiệu cơ thể trong các nghi lễ thể hiện rằng làng đó
là địa phận của nữ giới.
Quyền được thể hiện một số thông tin trong các tác phẩm nghệ thuật tuỳ thuộc vào
tuổi tác. Càng sống lâu bao nhiêu và càng tham gia nhiều vào các nghi lễ, bạn càng
được kính trọng hơn trong gia tộc, và tất nhiên điều đó chứng tỏ rằng bạn đã sống một
cuộc đời mẫu mực. Tuổi thọ cao là yếu tố được tôn trọng hàng đầu trong xã hội thổ
dân, và những nghệ sỹ thổ dân già như Kngwarreye và Queenie Mc Kenzie không chỉ
nắm giữ quyền lực trong cộng đồng, là người phát ngôn trực tiếp hay gián tiếp cho
vấn đề quyền đất đai, mà họ còn là người có quyền tự do thử nghiệm nhiều loại môtif
mỹ thuật khác nhau - như Kngwarreye có thể mang một ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện
rất giàu có và phong phú trong tranh của bà “ Giấc mơ Yam hoang dại”. Một nghệ sỹ
trẻ hơn như Abie Loy Kemarre ( sinh năm 1972) sẽ bị hạn hẹp hơn trong phong cách
thể hiện. Tác phẩm “ Vẽ trên thân thể” ( năm 2004) với những đường kẻ ô uốn khúc,
méo mó nằm trên nền đen quả là hấp dẫn, nhưng nó cũng cho những người xem có
hiểu biết về loại hình nghệ thuật này biết rằng đây chỉ là một cách thể hiện đơn giản
hơn. Sức mạnh của nó phần lớn đến từ cá nhân, sự vui chơi thuần thục với không gian
và đường nét. Nhưng ngay cả trong lĩnh vực này, tranh của Kngwarreye sau bao nhiêu
năm vẫn mạnh mẽ hơn, phát triển hơn. Tác phẩm Alhalkere (Đất nước tôi) vẽ năm
1991 kích cỡ 4x10 feet với những mảng màu vàng da cam và đỏ rộng mênh mông
được tạo nên từ nhiều chấm bút nhẹ, dường như có hơi thở của chính mình khi bạn
ngắm , nó chuyển động đều với ánh sáng, hơi nóng và không khí. Tác phẩm “Sóng
cồn qua” ( năm 1005) được trưng bày 4 năm sau đó, là một bố cục gồm 12 tấm toan
nhỏ khổ 15 x 20 inch được sắp xếp theo ô vuông, mỗi tấm cách nhau một phân trên
nền gỗ mộc, bảng pha màu được đơn giản hoá chỉ trắng trên nền đen, và những chấm
bút tạo thành một loạt các đường nét rối bời được vẽ rất nhanh.
Thế hệ các nghệ sỹ trước đây từ những miền sa mạc rộng lớn thuộc trung tâm phía
Tây Australia , bao gồm Rover Thomas, Billy Stockman, Tja Paltjarri và Clifford
Possum Tjapaltiarri cũng như Kngwarreye, bắt đầu vẽ trưng bày ra thế giới bên ngoài
vào những năm sau này. Điều này không ngạc nhiên chút nào, tác phẩm hội hoạ
phong cách chấm màu của thổ dân vùng sa mạc như chúng ta biết, không xuất hiện
mãi đến tận năm 1970. Một trường phái nghệ thuật thổ dân khác thuộc vùng Arnhem
vẽ bằng bột màu lên tranh bằng vỏ cây được bắt đầu sớm hơn trong lịch sử, cũng có
mặt tại triển lãm “Giấc mơ riêng” do hoạ sỹ Dorothy Djukulul ( sinh năm 1942) và
hoạ sỹ Galuma Maymuru (sinh năm 1951) vẽ: những phụ nữ miền này bắt đầu vẽ
tranh vào năm 1960. Trên một mảnh đất đầy cây cối phong phú, vỏ cây là một chất
liệu thuận tiện có sẵn để làm ra các tác phẩm nghệ thuật. Sa mạc không thể cung cấp
gì thay thế được nó. Trong bất cứ trường hợp nào, ý tưởng về các tác phẩm nghệ
thuật bền lâu, dễ vận chuyển cho việc trưng bày trước công chúng không nằm trong
tầm suy nghĩ của người thổ dân truyền thống lúc đó. Hội hoạ ( mặc dù không có một
từ riêng biệt nào khác thay cho nó) của người thổ dân vùng sa mạc trước kia thường
được vẽ trên thân thể người, cát cà trên đá. Tất cả đều liên hệ đến những cuộc hành lễ
và các nghi thức. Vẽ trên thân thể và vẽ bằng cát được dùng cho các nghi lễ cụ thể,
sau đó những hình ảnh này được xoá sạch hoặc huỷ đi. Tranh trên đá đánh dấu những
miền đất thiêng - một sự tập trung và là điểm tụ của các bộ tộc.
Một điều đặc biệt làm cho những người hay chỉ trích nghệ thuật thổ dân thấy khó chịu
là phần lớn tranh hiện đại được vẽ bằng acrylics. Đây là chất liệu chính của hội hoạ
hậu chiến mà giờ đây bị cho rằng đó là một chất liệu biểu hiện sự không thuần khiết.
Màu acrylics giống nhựa , và nó gợi nên cảm giác về nghệ thuật tranh vẽ với những
mảng màu trừu tượng cỡ lớn đầy sự bốc đồng của những năm 70 thời hậu chiến.
Không cần phải đề cập đến nữa, những người nông dân của các vùng sa mạc hẻo lánh
của Australia không hề biết đến những sắc thái của những người theo chủ nghĩa hình
thức của Greenberg xảy ra ở New York lúc đó. Họ dùng acrylics, đơn giản chỉ vì đó là
một chất liệu duy nhất được cung cấp cho họ tại các trung tâm cộng đồng, trong đó
phần lớn các hoạ sỹ thổ dân ngày nay đang sử dụng, và cũng vì lý do chất liệu này
phù hợp với nhu cầu của họ. ( Họ cũng được cung cấp toan vẽ đã được phủ sơn lót; ở
các vùng hẻo lánh, một chuyến đi đến cửa hàng bán hoạ phẩm quả là không dễ dàng
chút nào). Màu acrylics khô nhanh, hạn chế khả năng di nhoè và dễ vẽ đè lên lớp màu
sau lên lớp màu trước. Một điều quan trọng nữa là sự linh hoạt của acrylics làm cho
tranh dễ cuộn để lưu giữ cũng như vận chuyển mà không sợ nứt. Acrylics là chất liệu
tốt nhất để vẽ trên toan không cần căng qua xát xi mà chỉ cần trải thẳng xuống đất, và
cũng dễ dàng trong việc sử dụng kỹ thuật chấm ( dùng bông ngoáy tai hoặc bút lông),
trong đó việc tạo ra những đường nét ke thẳng , giữ mặt tranh mịn va giảm ganh thô
sần sùi. Cuối cùng, màu acrylics có sắc tố cao ( một thuận lợi khi vẽ trên nền đen) , và
những màu đất ấm cũng rất tươi và mạnh. Người ta suy đoán về sự lựa chọn sử dụng
những màu nền tối - phần lớn là đỏ , nâu và đen. Do những bức tranh này bắt nguồn
từ nghệ thuật vẽ bằng cát, đá và trên thân thể con người, đồng thời miền đất mang
mầu đỏ, nâu, thân thể con người mang màu tối, đó là lý do tại sao các bức tranh này
phản ánh những hoà sắc như vậy.
Sử dụng chất liệu hiện đại và đồng hoá nghệ thuật thổ dân đương đại vào khung cảnh
lớn của văn hoá và kinh tế phương Tây đã cho loại hình nghệ thuật này vay mượn
những lai tạp ảnh hưởng. Thay thế bằng việc nhìn nhận sự thay đổi truyền thống nghệ
thuật ( thậm chí cả đạo lý) như một sự tiêu cực, sẽ là điều tích cực hơn nếu ta trân
trọng tính phức tạp, đa dạng và khó hiểu mà nó mang lại. Alice Nampitjinta ( sinh
năm 1943) với bức tranh “Đồi cát ở Talaalpi” vẽ năm 2001 ( một phần ) dùng những
vạch chạy dọc màu vàng, đỏ và trắng nhấp nhô được tạo nên bằng những chấm màu
to vẽ đè lên nhau, nó gợi cho người ta hình ảnh một loạt tác phẩm thủ công mỹ nghệ
và mỹ thuật trong và ngoài phương Tây từ dệt cho đến tranh mảng lớn. Kiểu vẽ này
cũng có liên hệ tới nghệ thuật vẽ trên thân thể và phong cách vẽ quanh co, xiên chéo
tường thuật lại câu chuyện giấc mơ của Tjilkamata, tổ tiên của echidna (echidna hay
còn là động vật ăn kiến có gai, đây là một loại động vật có vú thường đào đất về đêm)
đã đi qua những đồi cát gần Walungurru và qua gần hai thảm đày rắn sống tại những
nước gần đầm lầy nơi đây.
Gabrriella Possum Nungurrayi ( sinh năm 1967), con gái của Clifford Posum
Tjapaltjari vẽ những bức tranh với các chấm bút kín đặc liền nhau kết hợp với các
môtif trừu tượng cùng những hình vẽ dễ nhận dạng. Phần dưới bức tranh “ Giấc mơ
Goanna” ( vẽ năm 1991) là một bố cục phức tạp như bản đồ với màu đất và nâu đậm,
có thể thấy được hình ảnh con thằn lằn to vừa rõ ràng vừa được nguỵ trang bò loằn
ngoằn. Bức tranh “ Giấc mơ về bảy chị em dải thiên hà” ( vẽ năm 1998) với màu xanh
da trời , trắng và đỏ được phủ toàn bộ bề mặt tranh, hay giống như bản đồ - ở đây là
một bản đồ sao. Nó cũng kể cho chúng ta biết đến câu chuyện về bảy chị em họ
Napaltjarri, trong tinh thần bị choáng váng, lạc lối, họ bị săn đuổi bởi một người đàn
ông tên là Jilbi Tjakamarra. Kháng cự lại lợi thế của hắn, họ chạy trốn và biến thành
những ngôi sao ( người phương Tây gọi là sao Thất Tinh), trong khi Jilbi trở thành
Sao Mai ( nằm trên dải dây chòm sao Thiên Lang). Jilbi tiếp tục săn đuổi họ. Trong
tranh, tám chấm đỏ và hồng giống hình các tiêu điểm nằm trên nền trời chấm xanh và
trắng, thể hiện các nhân vật trong câu chuyện này.
Qua nhiều năm, một số các nghệ sỹ thổ dân đã phát triển nghệ thuật của mình sánh vai
cùng với sự phát triển mỹ thuật của các nghệ sỹ Phương Tây. Phong cách thì không
ngừng thay đổi, nhưng luôn có một câu chuyện về giấc mơ nằm ẩn sau nghệ thuật
này. “Sự phát triển “ này là một vấn đề phức tạp. Ví dụ nghệ thuật của Kngwarreye
thay đổi trước những phản hồi tích cực của công chúng, những câu chuyện của bà
được kể lại với một sự sáng tạo rộng mở hơn trước. Dù sao cũng có những sự tranh
luận khác bàn về sự phóng túng trong tác phẩm của bà sau này là kết quả của sự tự do
và hứng khởi, hay đây chỉ phản ánh dấu hiệu của tuổi già và sức ép phải sáng tác
nhiều hơn. Thêm vào đó, người ta nghi rằng có một xu hướng phần lớn nghệ thuật thổ
dân ngày càng trở nên trừu tượng hơn , điều này phản ánh việc cộng đồng thổ dân có
những quyết định giữ kín không tiết lộ những thông tin nhạy cảm của riêng họ bằng
cách dời chuyển những câu chuyện của họ ra khỏi tầm nhìn của công chúng qua chính
sự thay đổi phong cách nghệ thuật.
Dù sự thay đổi dựa trên bất cứ lý do gì thì nghệ thuật thường hiếm khi ổn định. Điều
đó có thể thấy trong hội hoạ của Dorothy Napangardi Robinson. Những bức tranh thời
kỳ đầu của bà chứa đựng nhiều mầu sắc và sự phức tạp như “ Giấc mơ bụi mận” ( vẽ
năm 1996) với những bông hoa nhỏ rải rác, mang nhiều sắc thái truyền thống của
người Papunya trong việc đặt những biểu tượng được nhận dạng rõ ràng trên nền
chấm. Dù sao, cho đến năm 1998, bà đã phát triển một cách tiếp cận khác. Dựa trên
câu chuyện về tổ tiên nữ của người Mina Mina kể về những cây gậy của họ trồi lên từ
đất như thế nào và về những cuộc hành trình của họ tới những vùng đất thiêng. Tranh
của bà bắt đầu nổi bật lên với những mạng lưới đường nét và kẻ ô bằng các chấm bút
tinh tế màu trắng trên nền đen, và đen trên nền trắng. Nó mang một vẻ quý phái, đầy
sự tự chủ, cảm giác như có sự liên hệ đến một số đặc tính nhất định của chủ nghiã đơn
giản hoá ( Minimalism) và nghệ thuật khái niệm ( Conceptualism). Thực ra, tác phẩm
“ Muối ở Mina Mina” (vẽ năm 2002) của Robinson đã được mượn đưa vào trưng bày
tại triển lãm của Sol Lewitt, có người suy đoán rằng hoạ sỹ này có những liên hệ mật
thiết với nghệ thuật thổ dân trong những tác phẩm không gian 2 chiều gần đây nhất.
Mặc dầu những phác hoạ cụ thể , những hình vẽ như bản đồ trải khắp bề mặt và hình
thức biểu đồ là những yếu tố thể hiện chính trong nghệ thuật thổ dân, một số những
nghệ sỹ đã sử dụng phong cách vẽ dùng cử chỉ uốn lượn và một bố cục tự do trong
tranh của mình. Đối với Kngwarreye, và cháu của bà - hoạ sỹ Gloria Tamerre
Petyarry , bức tranh lớn có tên “Lá” ( 6x13 feet vẽ năm 2002) của cô dựng lên hình
ảnh những chiếc lá trắng lớn phất qua nền đen, mỗi lá được vẽ bằng một nhát bút lông
dứt khoát. Không phác thảo định hình trước, toàn bộ mảng tranh được tạo nên bởi một
không gian giàu sắc thái rành mạch, rõ ràng, đầy khoái cảm.
Phong cách hội hoạ vùng sa mạc được biết đến nhiều hơn ở miền Tây, nhưng các
nghệ sỹ từ vùng Arnhem thuộc vùng nhiệt đới phía Bắc đã vẽ tranh trên vỏ cây trưng
ra cho công chúng từ những năm 1930, loại hình nghệ thuật này được khuyến khích
bởi những người truyền đạo thiên chúa giáo. Những bức tranh được thực hiện trên vỏ
cây bằng những màu đất tự nhiên, sần sùi, những mảng vẽ kết hợp các vệt bút song
song sát nhau. Với những chi tiết riêng biệt và sự chủ động về kỹ thuật, những bức
tranh này giống như nghệ thuật truyền thống của các bộ tộc khác - nó khô hơn và theo
một chu trình quy củ hơn hội hoạ vùng sa mạc. Nó thường có sự cách điệu nhưng các
hình tượng người và thú vẫn dễ nhận ra rõ ràng như hàng loạt các con dơi treo ngược
trong bức tranh “Warrnyn” ( vẽ năm 1989) của Dorothy Djukulul hay những con
ngỗng và cá sấu trong bức tranh “Những con ngỗng Magpie” ( vẽ năm 1989) và bức
tranh “Cá sấu” ( vẽ năm 1990). Một số các hoạ sỹ như Galuma Maymuru sáng tác sử
dụng phác hoạ hình cụ thể, như trong bức tranh “Phong cảnh Djarrakpi” (vẽ năm
1996), gợi lên một giấc mơ phức tạp liên quan đến khu vực xung quanh hồ Djarrakpi,
với phong cách trừu tượng. Bức tranh “Yirritja Dhwa Gopu II “ (vẽ năm 2004) là một
bố cục vừa gọn gàng vừa trải rộng bao gồm những dải băng gạch chéo song song
nhau. (Một lần nữa, xu hướng tiến tới trừu tượng hoá cả ở hội hoạ miền Bắc lẫn vùng
sa mạc đều được lý giải như hành động của một “sự ẩn giấu”).
Đối với con mắt của những người xem quen thuộc với hội hoạ phương Tây thời hậu
chiến, nghệ thuật thổ dân dường như quá quen thuộc, và do vậy cá tính đặc biệt của
nó có thể dễ bị bỏ qua. Quả thật nó là nghệ thuật của thời đại chúng ta, nhưng xét về
bề sâu, nó cũng là nghệ thuật đến từ một thế giới khác. Nghệ thuật thổ dân đối thoại
trực tiếp với công chúng phương Tây bằng vẻ đẹp trực giác, trong khi xu hướng nghệ
thuật đương đại lại muốn mổ xẻ nó ra để tìm ra những ý nghĩa, để gán vào một tác
phẩm nghệ thuật thổ dân nào đó những sự liên hệ và một phong cách thể hiện nhất
định. Một tác phẩm hội hoạ thổ dân là sự chuyển đổi, là sự lai tạo, là một biểu đồ kết
hợp, một bản đồ, một câu chuyện và là một dòng thời gian với sự hưởng thụ cái đẹp
thẩm mỹ thuần khiết. Hội hoạ thổ dân không rõ ràng và rành mạch , thậm chí kể cả
trong việc dựng lên những sự đối lập biện chứng theo thứ tự. Sự mơ hồ của nó vẫn là
cấu trúc vốn có ngay trong chính tác phẩm.
Trong khi giai đoạn thời hậu chiến đã dẫn đến một số những cải thiện nhất định, xã
hội thổ dân vẫn nằm dưới sự kìm hãm. Một trong những mục đích của loại hình nghệ
thuật này là nhằm truyền nối các thông tin sâu sắc về văn hoá cho thế hệ trẻ. Phần lớn
nghệ thuật thổ dân được thưởng thức và bình luận giữa mọi người trong cộng đòng
ngay cả trong quá trình sáng tác. Nó cũng được trưng bày ở các gallery, ngay cả khi
khách mua lướt qua một loạt tập tranh , người thổ dân tập trung lại và nói về các tác
phẩm nghệ thuật. Truyền thống văn hoá đặc biệt của họ là sự tôn trọng tới tất cả vạn
vật , từ ý niệm về sử hữu của riêng họ cho đến tính cương quyết trong quan hệ gia tộc
và những nghĩa vụ, bổn phận mà họ thừa kế. Đây là một nền văn hoá sâu đậm mang
tính bảo thủ với ước muốn không để lại một dấu vết, không thay đổi thế giới tự nhiên
như nó đã tồn tại, những quy luật phi thời gian và những câu chuyện của dân tộc họ.
Ngôn ngữ viết không phải là truyền thống của văn hoá thổ dân ; những tế bào kết nối
họ với nhau chính là mạng lưới quan hệ thân tộc và những câu chuyện về giấc mơ.
Nhìn rộng ra, nghệ thuật thổ dân là một nguồn lực tích cực, nó giúp cung cấp tài chính
cho những vùng dân cư xa xôi hẻo lánh, đưa ra những ý nghĩa và sự tập trung vào cá
nhân những người dân, và tạo điều kiện cho việc lưu truyền các thông tin sống còn,
giữ gìn kết cấu chặt chẽ của một nền văn hoá. Tất cả những điều này có giá trị ngay
trong chính nó, nhưng nghệ thuật cũng là một nội lực phi thường. Các nền văn hoá
bản địa trên toàn thế giới mang đến những tác phẩm nghệ thuật và đồ tạo tác; trong đó
một số nền văn hoá ấy đã góp phần cho một nền nghệ thuật hiện đại giàu có và gây
ảnh hưởng.
1. Tony Fry và Anne - Marie Willia “ Nghệ thuật thổ dân : Hội chứng hay thành
công?” đăng trên tạp chí Art in America , tháng 7 năm 1989, trang 108-17, 159 - 63.
2. Sự quan tâm tới nghệ thuật thổ dân của người Mỹ vẫn còn thưa thớt. Một gallery
mới tại bảo tàng nghệ thuật Seattle đã dành phần lớn sự tập trung vào mảng nghệ
thuật thổ dân Australia được mở cửa ngày 5/5. Có lẽ cuộc triển lãm quan trọng nhất
về nghệ thuật thổ dân được trưng bày tại Mỹ là triển lãm “ Những giấc mơ - nghệ
thuật của thổ dân Australia” được tổ chức bởi Hiệp hội châu Á năm 1988. Cuộc triển
lãm này được đưa đi khắp nơi và nhận được những sự khen ngợi. Các cuộc triển lãm
khác trong các gallery thương mại được trưng bày vào những năm tiếp theo, có thể
nhắc đến triển lãm tại Gallery John Weber vào năm 1980. Sau một vài năm, Gallery
Weber đã trở thành một nơi hỗ trợ tích cực cho nghệ thuật thổ dân. cuộc triển lãm “
Những biểu tượng của vùng sa mạc: Những bức tranh thời kỳ đầu của vùng
Papunya” được tổ chức bởi bảo tàng nghệ thuật Herbert F. Johnson thuộc trưởng
Đại Học Cornellsex khai mạc vào tháng giêng năm 2009. Nó sẽ được tổ chức tiếp
theo tại Bảo tàng Fowler thuộc trường đại học Los Angeles ( UCLA) vào tháng 4 năm
2009, và tại Gallery Grey thuộc trường đại học NewYork vào tháng 9 năm đó.
3.Richard Kalina, “ Báo cáo từ Australia: Không còn sự luồn cúi”, Art in America, số
tháng 4 năm 2005, trang 77-85, và “ Báo cáo từ New Zealand: sự thay đổi của những
đế chế”, Art in America, số tháng 10 năm 2005, trang 83 - 89.
4. Ngày tháng năm sinh của những người thổ dân già không có thông tin chính xác,
khi không có những nhiệm vụ lưu giữ nguồn tin về cuộc sống của họ.
5. Mc Kenzie, thuộc vùng Kimberly ở phía tây nước Australia, là người hoạt động tích
cực nhưng không thành công trong cuộc đấu tranh chống sự khai thác động đến miền
đất mơ Barramundi.
6. Số tiền bán tranh của mỗi hoạ sỹ được đem phân phát cho các thành viên trong
cộng đồng, phần lón là trong thân tộc. Thân tộc không nhất thiêt là quan hệ ruột thịt,
và đôi khi thành công trên thị trường nghệ thuật sự dẫn đến sự phụ thuộc không lành
mạnh và những sức ép vào chính người hoạ sỹ.
“Giấc mơ riêng: Những nữ hoạ sỹ thổ dân Australia” là cuộc triển lãm được trưng
bày tại Bảo Tàng nghệ thuật phụ nữ Quốc gia, Washington D.C ( 30 tháng 6 đến 24
tháng 9 năm 2006), và tại bảo tàng nghệ thuật Hood, Trường Dartmouth, Hanover,
N.H (7 tháng 10 đến 10 tháng 12 năm 2006)
Tác giả: Richard Kalina là một hoạ sỹ chuyên viết về nghệ thuật.