Đổi mới chính sách công nghiệp
Chiến lược công nghiệp phải dựa trên phân tích tình hình thế giới và vị trí hiện tại và tương lai
của Việt Nam trong bối cảnh đó. Các xu hướng phát triển ở Đông Á đặc biệt quan trọng. Người ta
không thể lập chính sách chỉ dựa trên nhu cầu và mong muốn trong nước nữa
2
(1) Chiến lược công nghiệp phải dựa trên phân tích tình hình thế giới và vị trí hiện tại và
tương lai
của Việt Nam trong bối cảnh đó. Các xu hướng phát triển ở Đông Á đặc biệt quan trọng.
Người ta
không thể lập chính sách chỉ dựa trên nhu cầu và mong muốn trong nước nữa.
(2) Trong nền kinh tế thị trường, việc công ty nào hay sản phẩm nào cuối cùng sẽ dành phần
thắng
được quyết định bởi cầu của thị trường và nỗ lực của mỗi công ty, không phải do các chỉ tiêu
mà
chính phủ đưa ra.
(3) Chính sách công nghiệp phải mang tính gián tiếp và hướng dẫn chứ không mang tính trực
tiếp
và bắt buộc. Chính phủ Việt Nam phải tạo ra các công cụ và kênh chính sách để tạo điều
kiện cho
các doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài, các thành phần đang ngày càng trở nên quan trọng ở
Việt
Nam.
Rõ ràng là phương pháp lập kế hoạch định lượng đã lỗi thời và cần phải được thay thế bằng
một
khung chính sách mới. Sự cần thiết phải cải cách chính sách được công nhận rộng rãi trong
giới lập
chính sách, nhưng những bước cụ thể để đạt được điều đó thì chưa được xác định. Vì vậy,
phương
pháp lập kế hoạch cũ vẫn tiếp tục được sử dụng khi xây dựng chính sách công nghiệp bao
gồm cả
Kế hoạch 5 năm hiện nay và một số lượng lớn các quy hoạch tổng thể cho từng ngành công
nghiệp.
Trong nền kinh tế thế giới, công nghiệp hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế không phải là
một khó
khăn mới xuất hiện. Trong quá khứ, rất nhiều nước đã phải đối mặt với thách thức này và
đạt được
những kết quả rất khác nhau, từ thành công rực rỡ đến thất bại thảm hại. Giống như nhiều
trường
hợp khác, việc sao chép nguyên si chính sách của các nước khác vào Việt Nam sẽ không mang
lại
kết quả tốt đẹp vì tình hình ở các nước rất khác nhau. Nhưng nếu những bài học từ các nước
khác
được đánh giá cẩn thận và điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế mới, giải pháp vượt
qua thử
thách này sẽ trở nên khá rõ ràng. Dưới đây, chúng tôi xin đề xuất tách biệt bài học còn có thể
áp
dụng cho Việt Nam và các yếu tố chính sách mới hình thành.
Khung chính sách vẫn còn có thể áp dụng cho Việt Nam
Mặc dù tình hình thay đổi theo thời gian và từng nước, khung chính sách chung để xây dựng
chính
sách công nghiệp là giống nhau. Những gì cần phải điều chỉnh theo đặc điểm riêng của mỗi
nước là
các yếu tố cụ thể trong khung chính sách đó, chứ không phải bản thân khung chính sách. Việc
xây
dựng chính sách công nghiệp cần được tiến hành theo trình tự lôgíc được nêu lên dưới đây.
Tất cả
các quy hoạch tổng thể phải theo cấu trúc chung này.
Thứ nhất, điều kiện bên ngoài phải được phân tích cẩn thận. Trong trường hợp Việt Nam,
tình hình
ở khu vực Đông Á - Trung Quốc và ASEAN4 - có vai trò chủ chốt. Nhật Bản, Mỹ và EU cũng
quan trọng với tư cách là các thị trường tiêu thụ và các nước cung cấp FDI và công nghệ.
Những
cam kết quốc tế như FTA và việc gia nhập WTO cũng phải được xem xét.
Thứ hai, tiềm năng trong nước phải được đánh giá không kém phần kỹ lưỡng và phải được
đặt
trong bối cảnh các điều kiện quốc tế nêu trên. Trong trường hợp của Việt Nam, tổng giá trị
FDI,
3
các ngành công nghiệp hỗ trợ, chi phí kinh doanh, cung về lao động có kỹ năng, nguồn cho
tăng
trưởng và mức độ tham gia vào mạng lưới sản xuất khu vực hiện tại phải được nghiên cứu.
Thứ ba, các mục tiêu tham vọng nhưng thực tế phải được xây dựng dựa trên kết quả đánh giá
các
yếu tố bên ngoài và bên trong. Các mục tiêu này phải là các mục tiêu tham vọng theo nghĩa
chúng
sẽ biến đổi Việt Nam, một cách mạnh mẽ và kiêu hãnh, thành một nền kinh tế công nghiệp
có vai
trò đáng kể. Các mục tiêu này cũng phải là các mục tiêu thực tế theo nghĩa việc kết hợp chính
sách
đúng đắn và nỗ lực hết mình của doanh nghiệp sẽ có thể đạt được những mục tiêu đó.
Thứ tư, để đạt được những mục tiêu này, cần phải xây dựng và thực hiện các kế hoạch hành
động.
Những kế hoạch hành động này càng cụ thể càng tốt, được xây dựng kèm theo các thời gian
biểu và
mục tiêu giữa kỳ hợp lý. Cần phải dự thảo các luật cần thiết và cử một nhóm công tác có
năng lực
phù hợp để thực hiện kế hoạch hành động đề ra.
Thật sự là tất cả các chiến lược công nghiệp của nước Nhật hiện đại, từ giữa thế kỷ 19 cho
đến nay,
đều được xây dựng theo phương pháp này. Khi ngành công nghiệp dệt hiện đại được đưa vào
Nhật
Bản năm 1883, mục tiêu là sản xuất sợi bông có thể cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu từ
Anh.
Ông Eiichi Shibusawa, một doanh nhân tài năng và các đồng sự của mình đã tổ chức vốn, công
nghệ và quản lý sản xuất để thành lập Công ty Xe sợi Osaka. Vào đầu thế kỷ 20, Nhật Bản
đã trở
thành nước xuất khẩu sản phẩm dệt lớn nhất trên thế giới. Tương tự, khi Bộ Ngoại thương
và Công
nghiệp (MITI) thực hiện chính sách thúc đẩy ngành cơ khí và điện tử vào những năm 1960,
mục
tiêu là để sống sót và cạnh tranh có hiệu quả với các đối thủ sừng sỏ nước ngoài (đặc biệt là
M ỹ)
trong khi phải giảm thuế toàn diện theo yêu cầu gia nhập OECD và Vòng đàm phán Kennedy.
Ngành cơ khí và điện tử đã dần trở thành những trụ cột vững chắc của nền kinh tế Nhật Bản
với
công nghệ sản xuất tiên tiến nhất trên thế giới1.
H×nh 1. Ph−¬ng ph¸p x©y dùng chiÕn l−îc c«ng nghiÖp
1Tương tự như vậy, Bản báo cáo của Bộ Ngoại giao về Tái thiết Nền kinh tế Nhật Bản sau chiến
tranh
(tháng 9 năm 1946, bảng dịch tiếng Anh do Báo Trường Đại học Tokyo xuất bản năm 1992) cũng
được xây
dựng theo phương pháp này. Tình hình trong nước và ngoài nước được phân tích trong Phần I, và các
hành
động cần thiết bao gồm cả các chiến lược cho các từng ngành công nghiệp được được đưa ra trong
Phần II.
T×nh h×nh KH hμnh ®éng A
bªn ngoμi
nh− thÕ nμo? KH hμnh ®éng B
TiÒm lùc KH hμnh ®éng C
trong n−íc
lμ g×? KH hμnh ®éng D
VÞ trÞ hiÖn t¹i cña
chóng ta trªn thÕ
giíi lμ g×?
C¸c môc tiªu tham
väng nh−ng thùc tÕ
lμ g×?
4
Có phải phương pháp xây dựng kế hoạch với đặc điểm tích cực nâng cao vị trí của các ngành
công
nghiệp trong nước trên thị trường cạnh tranh toàn cầu đã lỗi thời trong thế kỷ 21? Câu trả lời
là
KHÔNG. Việt Nam nên áp dụng cơ bản trình tự chiến lược giống như vậy cùng với những
sửa đổi
cho phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam.
Các trở ngại mới và điều chỉnh
Tuy nhiên, tình hình thế giới mà Việt Nam đang phải đối mặt rất khác với tình hình thế giới
mà
Nhật Bản đã phải đối mặt vào thế kỷ 19 hay những năm 1960. Sự khác biệt lớn nhất là các
nước
đang phát triển buộc phải hội nhập nhanh chóng và toàn diện hơn vào nên kinh tế toàn cầu.
"Những nước đến sau" sớm như Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc đã có rất nhiều thời gian
để xây
dựng tiềm lực công nghiệp trước khi tự do hóa thể chế thương mại một cách đáng kể. Vì lý
do đó,
họ đã áp dụng chiến lược bảo vệ nền công nghiệp non trẻ bằng hàng rào thuế quan. Khi công
nghệ
được nhập khẩu ồ ạt, các công ty FDI không thống trị ngành sản xuất hiện đại hay xuất
khẩu. Cuối
cùng, công nghiệp hóa được hoàn thành và các công ty trong nước trở thành động lực tăng
trưởng
chính. Nhưng chiến lược này không thể áp dụng vào Việt Nam.
Những nước ASEAN có thu nhập ở mức trung bình như Malaysia và Thái Lan không quá dựa
vào
FDI trong quá trình công nghiệp hóa. Tuy nhiên, họ vẫn có thể thu hút FDI và xây dựng nền
tảng
công nghiệp trong một vài thập kỷ khi phải giảm thuế chỉ theo từng bước. Việt Nam phải tự
do hóa
thương mại chỉ một thập kỷ sau khi quá trình hội nhập với các nền kinh tế phương Tây bắt
đầu. Vì
vậy, Việt Nam còn yếu kém một cách nghiêm trọng trong tích lũy FDI, các ngành công nghiệp
hỗ
trợ và tiếp thu công nghệ.
Quá trình công nghiệp hóa của Việt Nam được tiến hành trong điều kiện tồn tại những trở
ngại này.
Chúng tôi vẫn tin tưởng rằng tăng trưởng cao dựa vào công nghiệp là khả thi, nhưng phải có
một số
điều chỉnh trong nội dung chiến lược công nghiệp. Cụ thể hơn, nếu phải mở cửa nhanh, sâu
rộng
hơn, nhưng công tác chuẩn bị lại kém hơn thì cần phải thực hiện một số sửa đổi sau:
(1) Trở thành một mối kết nối quan trọng trong mạng lưới sản xuất khu vực
Khi Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc tăng trưởng nhanh chóng, các nền kinh tế này đã phải
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ các nền kinh tế Mỹ và Châu Âu trong khi phân công lao động
với
các nước Đông Á còn hạn chế. Tuy nhiên, Việt Nam không nên hướng tới mục tiêu trở thành
một nền kinh tế công nghiệp độc lập với các nước láng giềng. Việt Nam phải hoàn thành
công
nghiệp hóa thông qua việc tham gia tích cực vào mạng lưới sản xuất khu vực và trở thành
một
mắt xích chủ chốt trong mạng lưới đó.
Trung Quốc rõ ràng làm một đối thủ cạnh tranh lớn nhất và mạnh nhất ở Đông Á. Trong
ASEAN4, Thái Lan là nước cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam về thu hút FDI. Nhưng Việt
Nam không nên chỉ xem những nước láng giềng như đối thủ cạnh tranh. Tại Đông Á, các
công
ty đa quốc gia chủ động phát triển phân công lao động quốc tế trong sản xuất. Việt Nam
không
5
nên đề ra mục tiêu tự sản xuất và cấu trúc công nghiệp hội nhập theo chiều dọc vì không một
nước nào có thực hiện quá trình sản xuất một mình. Thay vào đó, Việt Nam nên xây dựng
một
nền tảng cho sản xuất tận dụng những thuận lợi của mạng lưới này. Chất lượng và độ lớn
của
mạng lưới mà Việt Nam xây dựng sẽ quyết định khả năng cạnh tranh của Việt Nam. Như
vậy,
các nước láng giềng vừa là đối tác sản xuất, vừa là đối thủ cạnh tranh.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khả năng cạnh tranh nên đạt được bằng (i) củng cố một số
lượng
nhỏ các quá trình sản xuất trong nước có lợi thế so sánh (xem ở dưới); và (ii) kết nối các quá
trình sản xuất đó một cách chặt chẽ với các quá trình sản xuất có tính cạnh tranh tương tự ở
các
nước khác. Sản phẩm hạng nhất là sản phẩm được tạo nên từ sự phối hợp sản xuất nội địa
và
nước ngoài.
Tỉ lệ nội địa hóa tối ưu không phải là 100% (Mori và Ohno 2004). Ngay cả trong trường hợp
công nghiệp sản xuất ôtô Thái Lan với tổng lượng FDI lớn nhất ở Đông Nam Á, tỷ lệ phụ
tùng
nhập khẩu là 30% và tỷ lệ phụ tùng sản xuất trong nước là 70%. Đối với phụ tùng sản xuất
trong nước, 45% do các công ty FDI cung cấp và 25% do các công ty nội địa sản xuất2.
(2) Cách tiếp cận gián tiếp với cạnh tranh toàn cầu
Đối với các công ty sản xuất ở Việt Nam vào thời điểm hiện tại, việc cạnh tranh trực tiếp
với
các công ty đa quốc gia trên thị trường quốc tế là không khả thi. Các công ty này phải mất rất
nhiều thời gian mới đạt được khả năng cạnh tranh mà các đối thủ này đang có được. Dù một
số
công ty đã xuất khẩu sản phẩm mang thương hiệu của mình (Vinamilk, Biti's, Cà phê Trung
Nguyên, v.v...), con số các sản phẩm và số lượng quá nhỏ để có thể được tính là động lực
tăng
trưởng công nghiệp vào lúc này.
Vì lý do này, Việt Nam cần phải hợp tác chặt chẽ với các công ty FDI và các công ty thương
mại nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam để cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường quốc
tế
trong năm đến mười năm tới. Rõ ràng là lúc đầu, khả năng của các công ty nước ngoài trong
lĩnh vực thiết kế, sản xuất và marketing có thể được sử dụng để đẩy mạnh xuất khẩu.
Nhưng
dần dần, Việt Nam phải tiếp thu, nội hóa và thay thế kỹ thuật chuyên môn của các công ty
nước
ngoài. Các bước cụ thể được đề xuất như sau:
Thứ nhất, việc thu hút FDI cần được đẩy lên cao hơn mức giới hạn để tạo nên tích lũy trong
cả hai lĩnh vực lắp ráp và sản xuất phụ tùng.
Thứ hai, các doanh nghiệp Việt Nam cần kết nối tích cực với các công ty FDI bằng việc học
cánh quản lý sản xuất, kiểm soát chất lượng và giao hàng đúng hạn, và nên trở thành nhà
cung cấp cho các công ty này. Chính phủ cần phải hỗ trợ họ để làm được điều đó.
2 Thông tin được Viện Nghiên cứu Nomura cung cấp tháng 8 năm 2004
6
Thứ ba, tối đa hóa hiệu ứng lan tỏa của công nghiệp hóa đô thị lên tất cả các quốc gia, bao
gồm cả khu vực nông thôn và vùng sâu vùng xa, nơi hầu như không nhận được FDI. Việc
này có thể thực hiện được thông qua một số kênh như di chuyển lao động, trợ cấp từ ngân
sách, đầu tư công cộng, và các chính sách ưu tiên khác (xem phần III dưới đây).
Đây là cách tiếp cận cạnh tranh toàn cầu một cách gián tiếp. Một số người có thể lập luận
rằng
việc công nghiệp hóa chủ yếu dựa vào FDI không phải là sự phát triển thực sự đối với Việt
Nam, vì vậy các công ty Việt Nam phải có vai trò chủ chốt. Quan điểm này có thể hiểu được
nhưng chiến lược như vậy là không thực tế nếu xem xét bối cảnh cạnh tranh toàn cầu gay
gắt
hiện nay.
H×nh 2. C¬ cÊu hai nöa cña nÒn kinh tÕ ViÖt Nam
--Sù cÇn thiÕt ph¶i thiÕt lËp mèi liªn hÖ gi÷a c¸c c«ng ty néi ®Þa vμ c¸c c«ng ty FDI --
(3) Các phương pháp thúc đẩy phát triển
Trong quá khứ, các nước đang phát triển đã sử dụng thuế cao, lệnh cấm nhập khẩu và quota,
phân biệt đối xử về thuế, yêu cầu về nội hóa, và các biện pháp phân biệt khác để thúc đẩy
sản
xuất trong nước. Nhưng theo hiệp định WTO và khu vực mậu dịch tự do, các biện pháp này
Ngμnh s¶n xuÊt néi ®Þa
(®−îc b¶o hé vμ yÕu kÐm)
Ngμnh phôc vô xuÊt khÈu
(Cã thÓ c¹nh tranh trong ®iÒu kiÖn tù do
th−¬ng m¹i)
C«ng ty néi ®Þa
(DNNN & t−
nh©n)
FDI h−íng vμo
thÞ tr−êng néi
®Þa
FDI xuÊt khÈu
(chñ yÕu ë khu
c«ng nghiÖp,
vïng s¶n xuÊt
kinh tÕ)
kh«ng cã mèi liªn hÖ
M¹ng l−íi s¶n xuÊt
khu vùc
Nguyªn liÖu
vμ phô tïng
C¸c phô tïng vμ
s¶n phÈm ®· ®−îc
l¾p r¸p
7
không còn được phép áp dụng. Việt Nam phải sử dụng những biện pháp nhất quán với (hoặc
ít
ra là chấp nhận được trong điều kiện phải thực hiện) các cam kết quốc tế3.
Trong một nền kinh tế theo định hướng thị trường và hội nhập quốc tế, khu vực nhà nước
không nên tham gia vào sản xuất hay đầu tư công nghiệp. Các doanh nghiệp quốc doanh đang
tồn tại cần được dần dần tư nhân hóa, củng cố hoặc đóng cửa tùy vào khả năng phát triển
trong
tương lai. Đầu tư công cộng nên hướng vào việc hỗ trợ gián tiếp các ngành công nghiệp hỗ
trợ
thông qua xây dựng nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng. Các doanh nghiệp tư nhân, nội địa lẫn
nước ngoài, cần phải là lực lượng trung tâm của sản xuất trong tương lai.
Nhưng ngay cả trong một nền kinh tế đang phát triển thực hiện mở cửa tích cực, có rất nhiều
nhiệm vụ mà chính phủ phải thực hiện. Thật sự là khi nền kinh tế thị trường trong nước kém
phát triển một cách trầm trọng, công nghiệp hóa không thể tiến hành thuận lợi nếu các nhiệm
vụ
đó không được thực hiện. Ở đây, chúng tôi muốn đề nghị chính phủ Việt Nam chú ý đến
những
nhiệm vụ hiện chưa được thực hiện đầy đủ sau:
a) Thể hiện rõ ràng phương hướng chiến lược thông qua các quy hoạch tổng thể để có thể
xóa bỏ sự hoài nghi và tăng thêm tự tin cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
b) Tạo ra mối quan hệ mới giữa chính phủ và doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế theo
định hướng thị trường. Mối quan hệ đó phải dựa trên nền tảng tin tưởng lẫn nhau và hai bên
cùng có lợi hơn là báo cáo có tính hình thức4. Tuy nhiên, mối quan hệ đó cũng không nên
biến thành quan hệ câu kết.
c) Đưa ra một chiến dịch quảng bá đất nước hữu hiệu để thu hút một khối lượng FDI lớn.
Chiến dịnh này cần được thực hiện cùng với những nỗ lực nghiêm túc để giảm chi phí kinh
doanh tại Việt Nam (xem Hình 3 dưới đây).
3 Một trong những câu hỏi mà các quan chức Việt Nam thường nêu lên là: làm sao Việt Nam có thể
thúc đẩy
các ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển (đầu tư đầu nguồn) nếu không sử dụng biện pháp thuế và
hạn chế
nhập khẩu? Tuy nhiên, khi xem xét đầu tư, những nhà sản xuất phụ tùng nước ngoài lại quan tâm hơn
đến
quy mô cầu và sự ổn định chính sách hơn là các ưu đãi về tài chính. Chúng tôi tin rằng chính sách hợp
lý
cùng với khả năng cầu về phụ tùng tăng lên có thể thu hút các nhà sản xuất phụ tùng FDI ngay cả
trong môi
trường tự do thương mại.
4 Trong quá khứ, rất nhiều nền kinh tế tăng trưởng cao ở Đông Á-đặc biệt là Nhật Bản và Hàn Quốc-
đã
thiết lập được một số lượng lớn các kênh chính thức và không chính thức giữa doanh nghiệp và chính
phủ để
thực hiện chính sách công nghiệp. Ví dụ, vào những năm 1960, Nhật Bản đã có các ủy ban đàm phán,
hiệp
hội doanh nghiệp, hướng dẫn hành chính, và trao đổi nhân sự thường xuyên để chia sẻ những thông
tin quan
trọng. Hiện vẫn còn một tài liệu rất lớn về phương thức hợp tác của MITI với khu vực tư nhân để
thực hiện
công nghiệp hóa nhanh chóng.
8
d) Hiện Việt Nam còn thiếu sự hỗ trợ gián tiếp và tổng quát đối với các ngành công nghiệp
thông qua các thể chế hỗ trợ thị trường. Sự hỗ trợ này phải bao gồm những lĩnh vực như
thông tin, công nghệ, quản lý sản xuất, marketing, cơ sở dữ liệu công ty, v.v...
e) Đổi mới cơ chế chính sách theo hướng tập trung vào năng lực và quyền hạn xây dựng
chính sách công nghiệp vào một nơi. Rất nhiều nước Đông Á đã có một nhóm cán bộ cấp
cao hỗ trợ trực tiếp cho những nhà lãnh đạo trong việc thực hiện chính sách kinh tế. Việc
lập kế hoạch kinh tế tại Việt Nam hiện nay vẫn còn quá phân tán.
H×nh 3. So s¸nh chi phÝ kinh doanh ë ch©u ¸ (11/2003)
--ViÖt Nam xÕp h μng t rung b× nh ® Õn cao—
Nguån: Phßng Nghiªn cøu Quèc tÕ JETRO (3/2004).
II. Lựa chọn các ngành công nghiệp mũ i nhọn
Lợi thế so sánh động
Phần IV-2 ("Định hướng phát triển công nghiệp") trong Kế hoạch Phát triển Kinh tế-xã hội
từ năm
2001 đến 2005 đưa ra định hướng cho 11 ngành công nghiệp. Trong số những ngành công
nghiệp
C−íc ®iÖn tho¹i quèc tÕ (USD, 3 phót gäi ®i NhËt B¶n)
Chi phÝ thuª v¨n phßng (USD/m2/th¸ng)
9
đó, 7 ngành sau thuộc nhóm ngành sản xuất theo nghĩa hẹp (i) chế biến nông sản, (ii) giấy,
(iii) dệt
may và da giày, (iv) điện tử, tin học và viễn thông, (v) cơ khí, (vi) phân bón hóa học và (vii)
thép5.
Tuy nhiên, lý do tại sao các ngành này được lựa chọn vẫn chưa rõ. Việc phân loại cũng phần
nào
không bình thường vì một số ngành công nghiệp có phạm vi rộng hơn các ngành khác. Nếu
"cơ
khí" bao gồm cơ khí phổ thông, cơ khí điện, cơ khí giao thông và cơ khí chính xác, rõ ràng là
ngành
này bao trùm tất cả các ngành công nghiệp lắp ráp.
Để có một chính sách công nghiệp hiệu quả, danh sách những ngành công nghiệp mũi nhọn
(hoặc
có một tên gọi bất kỳ nào khác cho những ngành công nghiệp quan trọng và phải được hỗ trợ
tích
cực) không nên quá dài. Hỗ trợ tất cả các ngành nghĩa là không hỗ trợ ngành nào cả. Theo như
nội
dung trình bày trong Phần 1, những ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam trước hết và
quan
trọng nhất phải là những ngành có lợ i thế so sánh động6 so với các nước láng giềng, đặc
biệt là
Trung Quốc và ASEAN4. Thêm vào đó, những ngành công nghiệp hỗ trợ và bổ sung cho các
ngành công nghiệp mũi nhọn phải được xem là mục tiêu thúc đẩy phát triển.
Lợi thế so sánh động cần được xây dựng trên cơ sở một cái gì đó mà Việt Nam có thừa mà
các
nước khác không thể sao chép được. Đó cũng phải là cái gì đó tồn tại trong một thời gian dài.
Vì
vậy, tài nguyên thiên nhiên hay nhân công rẻ không thể là nền tảng cho sự tăng trưởng trong
dài
hạn của của Việt Nam. Lợi thế so sánh động của Việt Nam nên được xây dựng trên cơ sở
những
người lao động cần cù và có kỹ năng trong các nhà máy và văn phòng, một lợi thế mà không
nước
nào trên thế giới có được (Ohno 2003, 2004a). Tuy nhiên, tiềm năng của người lao động Việt
Nam
chưa được phát huy đầy đủ do sự yếu kém trong công tác quản lý doanh nghiệp và xây dựng
chính
sách công nghiệp. Việt Nam cần phải nỗ lực hết sức để cải thiện những điểm yếu đó.
Những ngành công nghiệp mũi nhọn
Việt Nam phải đẩy mạnh những ngành công nghiệp có lợi thế so sánh động. Chúng tôi đề
xuất năm
ngành công nghiệp hứa hẹn là những ngành công nghiệp mũi nhọn có thể thúc đẩy nền kinh
tế phát
triển trong vòng năm đến mười năm tới. Lý do lựa chọn bốn ngành đầu tiên (điện tử, may
mặc và
giày dép, chế biến thức ăn và phần mềm) có lẽ đã rõ từ những điều trình bày ở trên. Đây là
những
ngành công nghiệp hướng tới xuất khẩu và sử dụng nhiều lao động có tay nghề cao đã đạt
được một
mức cạnh tranh quốc tế nhất định. Tuy nhiên, quản lý sản xuất, marketing hay kết hợp sản
phẩm
5Những ngành công nghiệp khác được đề cập đến là xăng dầu, than và khai khoáng
6 Lợi thế so sánh là một thuật ngữ trong kinh tế hoạc cổ điển (Ricardo 1817) để chỉ lợi thế về chi phí
đối
với một sản phẩm nhất định mà một nước có được so với các nước khác vì nước có lợi thế có thể
sản xuất
sản phẩm đó rẻ hơn tương đối so với các sản phẩm khác trong nước đó nhờ vào công nghệ hay yếu
tố đầu
vào. Thuật ngữ "tiềm năng" chỉ những lợi thế như vậy sẽ (có thể) được phát huy trong tương lai bằng
nỗ lực
của công ty được hỗ trợ bởi một chính sách phù hợp. Ngày nay, định nghĩa lợi thế nên đề cập không
chỉ chi
phí mà cả chất lượng, đáp ứng nhanh nhậy, và nguồn cung cấp đáng tin cậy.
10
trong các ngành này còn quá xa tiềm năng. Những ngành này phải được phát triển hơn và phát
triển
đến mức hoàn thiện để đạt được chất lượng cao nhất và trở thành nguồn cung cấp đáng tin
cậy cho
thị trường thế giới.
Ngày cả trong mỗi ngành công nghiệp mũi nhọn, những quá trình sản xuất và sản phẩm mà
Việt
Nam có thể đạt kết quả cao cũng hạn chế về số lượng. Các ngành công nghiệp được lựa
chọn không
nên được phát triển một cách quá rộng hay quá chung. Điều cốt lõi là Việt Nam xác định được
mục
tiên chính sách một cách chính xác và có giới hạn cho từng ngành. Tài liệu này không thể phân
tích
từng ngành công nghiệp một. Các quy hoạch tổng thể tốt phải được lập nên để đạt được
mục đích
đó. Lý do lựa chọn ngành công nghiệp mũi nhọn thứ năm (xe máy) khác với bốn ngành kia và
sẽ
được giải thích trong phần tiếp theo.
Ngành công nghiệp mũi nhọn được phân loại theo đặc điểm đầu ra và đầu vào (Hình 4). Để
làm
được điều đó, ta phải phân biệt rõ hai loại điện tử, I và II (xem định nghĩa trong phần dưới
đây).
Về đầu ra, một số công ty đầu tư ở Việt Nam để theo đuổi mục tiêu đạt chi phí thấp nhất và
chất
lượng cao nhất nhằm cung cấp cho thị trường thế giới. Các công ty khác thì đến hoặc ở lại
Việt
Nam để bán sản phẩm cho thị trường trong nước. Hiện nay, ngành chế biến thực phẩm, may
mặc và
da giày, và điện tử I là các ngành hướng tới xuất khẩu7. Đầu vào của các ngành này rất đa
dạng, từ
hàng nặng đến hàng nhẹ, từ nguyên liệu thô đến sản phẩm công nghệ cao. Những đặc điểm
về đầu
vào và đầu ra này là yếu tố quyết định của phương thức hỗ trợ. Mũi tên trong Hình 4 thể hiện
mong
muốn của từng ngành công nghiệp. Xu hướng chung là tìm cách cung cấp cho cả thị trường
trong
và ngoài nước, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, hoặc kết hợp cả hai. Nhưng giữa các ngành công
nghiệp
cũng có sự khác biệt lớn về định hướng.
7Cung cấp thực phẩm, hàng may mặc và da giày cho cả thị trường trong và ngoài nước, nhưng có sự
phân
đoạn rõ ràng về chất lượng, giá cả và thị hiếu giữa hai thị trường này. Trên hình 4, chúng tôi tập trung
vào
năng lực xuất khẩu
11
(1) Ngành điện tử (phân cứng)
̀
Ngành lắp ráp điện tử ở Việt Nam do các công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (chủ
yếu là
của Nhật Bản và Hàn Quốc) thống trị và bao gồm hai dạng. Hai dạng này cần phải được
phân biệt
rõ ràng vì chúng khác nhau đáng kể.
Đ iện tử dạng I : Đây là dạng sản xuất trên quy mô lớn, sử dụng hầu hết các linh kiện nhập
khẩu và
thường xuất khẩu 100% sản phẩm làm ra. Trong trường hợp này, các công ty đa quốc gia
(MNCs)
đã lựa chọn Việt Nam như là một căn cứ cung cấp toàn cầu một số sản phẩm trọng điểm
nhất định
của họ. Các công ty này hoạt động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất hoặc như các
doanh
nghiệp chế xuất và được hưởng gần như thương mại tự do nhờ được hoàn thuế nhập khẩu.
Fujitsu,
Canon, Mabuchi, Tosok và Fujikura là các công ty thuộc loại này (việc họ xuất khẩu linh kiện
hay
sản phẩm hoàn chỉnh không quan trọng ở đây). Về mặt số lượng, điện tử dạng I có ảnh
hưởng lớn
đến việc tích tụ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như tổng sản lượng của Việt Nam và
cơ cấu
xuất khẩu. Tuy nhiên, việc nội địa hoá đầu vào khó thực hiện hơn so với các ngành khác vì nó
chủ
yếu sử dụng các linh kiện chính xác hoặc vật liệu công nghệ cao (chip điện tử IC, màn hình
tinh thể
lỏng, màn hình plasma, v.v.) mà trên thị trường nội địa không có. Để thu hút điện tử dạng I,
cần
phải kết hợp marketing toàn cầu với việc giảm thiểu hơn nữa chi phí kinh doanh.
Đ iện tử dạng II : Đây là dạng sản xuất quy mô nhỏ, chủ yếu nhằm cung cấp cho thị trường
nội địa.
Theo quan điểm của chiến lược toàn cầu của các công ty đa quốc gia, các nhà máy thuộc loại
này
đóng vai trò người lắp ráp cuối cùng của các sản phẩm điện tử tiêu dùng ở từng thị trường
nội địa.
Việc gần gũi với người tiêu dùng cho phép các nhà máy này nắm được và đáp ứng các nhu
cầu của
người tiêu dùng một cách hiệu quả. Ngoài ra, các nhà máy này cũng có thể xuất khẩu một số
dòng
sản phẩm không được sản xuất tại các nước khác. Sanyo, Matsushita, Sony, Toshiba, và JVC
thuộc
nhóm này. So với điện tử dạng I, các công ty này bị ảnh hưởng mạnh hơn bởi (i) môi trường
chính
sách ở nước sở tại như cơ cấu mức thuế, những hạn chế về nhập khẩu linh kiện, và những
thay đổi
về thuế (ii) nhu cầu nội địa tương đối nhỏ hẹp trong khi có quá nhiều nhà sản xuất, và (iii)
việc tự
do hoá thương mại sắp diễn ra theo khuôn khổ Hiệp định Tự do Thương mại (FTAs) và Tổ
chức
Thương mại Thế giới (WTO). Những công ty này sẽ gặp phải thách thức cạnh tranh từ các
nước
láng giềng châu Á (đôi khi còn từ cả các nhà máy của cùng một tập đoàn). Để tồn tại, các
công ty
này phải nhanh chóng nội địa hoá các linh kiện và giảm chi phí sản xuất. Đối với những công
ty
Đầu ra
Đầu vào
Thị trường
nội địa Xuất khẩu
Hầu hết cồng
kềnh (nhựa, kim
loại, nông nghiệp)
NHIỀU CUNG NỘI
ĐỊA HƠN
PHỤ THUÔC ̣
NHIÊU HƠN VAO
̀ ̀
̣
NHÂP KHÂU ̉
Hầu hết nhẹ và sử
dụng vật liệu
công nghệ cao
Xe máy
Chế biến
thực phẩm
Điện tử II
TV-AV-DVD
Điện tử gia dụng Điện tử I
Phụ tùng và sản phẩm
cung cấp cho
toàn cầu
Dệt may &
giày dép
12
này, Việt Nam trước hết phải xoá bỏ những trở ngại không cần thiết về luật pháp, thủ tục,
các biểu
thuế, các loại thuế, v.v., và đảm bảo một môi trường kinh doanh tự do và ổn định tương tự
như ở
các nước đối thủ. Sau đó, công tác marketing tốt và việc giảm chi phí kinh doanh sẽ tiếp tục
khuyến
khích các công ty này, giống như ở trường hợp của điện tử dạng I.
(2) Ngành dệt may và giầy dép (và các hàng lặt vặt khác)
Đây là những ngành đòi hỏi nhiều lao động tay nghề cao và hướng về xuất khẩu, các nguyên
liệu
đầu vào chủ yếu được nhập khẩu8. Một trong những điều mà các nhà hoạch định chính sách
Việt
Nam hay phàn nàn là đóng góp của những ngành này vào giá trị gia tăng và chuyển giao kỹ
thuật
thấp. Hiện tại điều này đúng, nhưng liệu ngành dệt may và giầy dép của Việt Nam vẫn dừng
ở giai
đoạn sơ khai này hay sẽ tiến tới thực hiện cả thiết kế, thu mua toàn cầu, quản lý sản xuất,
quản lý
chất lượng và marketing để tạo ra giá trị lớn hơn nhiều còn tuỳ thuộc vào những nỗ lực của
các
doanh nghiệp trong nước và Chính phủ. Không giống như ngành điện tử, các ngành này có
nhiều
cơ hội để mở rộng sản xuất trong nước cả thượng nguồn (thiết kế, đồ phụ kiện, nhuộm
màu, v.v.)
lẫn hạ nguồn (marketing) cũng như nâng cao năng suất cắt và may. Việt Nam nên chuyển từ
các
sản phẩm thông dụng sang các mặt hàng giá cao và độc đáo - áo sơ mi nam và áo khoác giá rẻ
theo
thời gian nên được thay thế bằng quần áo thời trang phụ nữ và thời trang cao cấp của các nhà
thiết
kế. Xét theo mục đích này, các công nhân lành nghề của Việt Nam là tài sản lớn. Những
khách
hàng nước ngoài mua hàng dệt may và giầy dép nhận định rằng Việt Nam xếp ngang hàng với
Italia và Nhật Bản về sự khéo léo, nếu được đào tạo và hướng dẫn bài bản. Không một nước
đang
phát triển nào có thể cạnh tranh với Việt Nam ở điểm này - dù là Trung Quốc, Thái Lan,
Indonesia
hay Bangladesh.
Một số người lo ngại rằng ngành dệt may và giày dép sẽ suy giảm tương đối sớm khi mức
lương ở
Việt Nam tăng lên và các nước thu nhập thấp khác bắt đầu bắt kịp. Nhưng nếu các giá trị mới
vẫn
liên tục được tạo ra như đã lập luận ở trên, những ngành công nghiệp này vẫn có thể tiếp tục
mở
rộng mạnh mẽ trong một thời gian dài thay vì suy thoái. Việc này hoàn toàn phụ thuộc vào các
giám đốc doanh nghiệp và những nhà hoạch định chính sách của Việt Nam. Hỗ trợ chính thức
cho
các ngành này nên hướng tới thúc đẩy sự tinh xảo và sự khai thác sâu các khâu sản xuất hạ
nguồn.
Một vấn đề nữa thường được tranh luận ở Việt Nam là tiềm năng và tính khả thi của việc
đầu tư
vào lĩnh vực thượng nguồn (sản xuất vải và da). Vấn đề này nên được nhìn nhận như vấn đề
thay
thế nhập khẩu đề cập dưới đây, và giải pháp cũng giống như vậy. Nhìn chung, việc mở rộng
thượng
nguồn nên được thực hiện dưới những điều kiện thị trường nghiêm ngặt và không nên đẩy
mạnh
bằng bất cứ giá nào. Sản xuất nguyên liệu là một qui trình quy mô lớn lại phải chịu tình trạng
dư
cung và lợi nhuận thấp. Rất nhiều nước trong khu vực đã đầu tư vào nguyên liệu dệt và
Hồng Kông
đóng vai trò là trung tâm mua bán quốc tế nguyên liệu y phục. Lợi thế so sánh động của Việt
Nam
nằm ở khâu sản xuất hạ nguồn chứ không ở sản xuất nguyên liệu đòi hỏi nhiều vốn. Việt
Nam chỉ
nên đi vào lĩnh vực nguyên liệu khi có thể cạnh tranh hiệu quả với mạng lưới sản xuất khu
vực hiện
8 Trong tiếng Nhật, công việc đòi hỏi nhiều nhân công (lắp ráp, lập chương trình, may vá, thêu thùa, v.v.) được
thực
hiện theo yêu cầu của một người mua nước ngoài với mẫu thiết kế và nguyên liệu nhập khẩu do người này cung
cấp
được gọi là itaku kako (sản xuất theo hợp đồng). Trong ngành dệt may, thuật ngữ CMT (cut - make - trim: cắt -
may -
sửa) được dùng để mô tả hoạt động này. Nếu nhà sản xuất hàng dệt may ở nước sở tại được yêu cầu mua những
loại
nguyên liệu đã được xác định sẵn hoặc tìm những nhà cung cấp phù hợp, hoạt động này được gọi là FOB (free on
board, một thuật ngữ được dùng chỉ ở Việt Nam mà không liên quan gì đến hệ thống thuật ngữ của ngành ngoại
thương)
13
đang tồn tại. Nếu không thì nên tự do mua những nguyên liệu tốt nhất trên thế giới để sản
xuất ra
chất lượng cao nhất.
Nhiều mặt hàng khác như đồ nội thất, dụng cụ nhà bếp, cặp túi, đồ thủ công, và các đồ gia
dụng
nhỏ (gọi là zakka trong tiếng Nhật) thuộc cùng loại như hàng dệt may và giày dép. Với những
liên
kết với nước ngoài ban đầu, Việt Nam có thể và nên mở rộng phạm vi giá trị theo thời gian,
từ rẻ
tiền và thông dụng đến đắt tiền và tinh xảo. Những ngành này cũng cần được khuyến khích.
Tuy
nhiên, việc soạn thảo quy hoạch tổng thể các ngành này còn khó hơn và thậm chí không cần
thiết vì
số lượng các ngành này rất nhiều và chủ yếu do tư nhân đảm nhiệm.
(3) Ngành chế biến thực phẩm
Đây là ngành tập trung nhiều nhân công và hướng về xuất khẩu với nguyên liệu đầu vào mua
trong
nước. Hàng hoá sản xuất bởi các ngành nông - lâm - ngư nghiệp được chế biến và gia tăng
giá trị
cho xuất khẩu. Nói chung, ngành chế biến thực phẩm không đòi hỏi đầu tư lớn vào máy móc
thiết
bị đắt tiền hoặc linh kiện công nghệ cao. Về mặt này, ngành này đóng góp đáng kể cho nền
kinh tế
quốc dân thông qua việc “kích hoạt” các vùng nông thôn, xoá đói giảm nghèo, và thu về ngoại
tệ
cho đất nước.
Vấn đề lớn nhất với ngành này là chất lượng thấp trong các khâu chế biến, phân phối, và
marketing
mặc dù chất lượng nguồn nguyên liệu tương đối cao. Kết quả là sản phẩm của Việt Nam
thường
phải bán với giá thấp hơn so với sản phẩm của các nước đối thủ cạnh tranh. Những yếu kém
đó lại
là kết quả của việc thiếu sáng kiến chính sách, thiếu thông tin, và thiếu vốn. Trong khi
nguyên liệu
thô được sản xuất bởi các hộ gia đình thì các quá trình chế biến khác lại được thực hiện bởi
các
doanh nghiệp Nhà nước, những thương nhân tư nhân hoặc người mua nước ngoài với những
tỷ lệ
khác nhau tuỳ thuộc vào từng loại sản phẩm. Khi người nước ngoài trực tiếp tham gia vào
quá trình
sản xuất và marketing, chất lượng và việc kiểm soát vệ sinh được thực hiện rất nghiêm ngặt
- nế u
không sẽ không thể xuất khẩu sang các thị trường có thu nhập cao. Một số nhà sản xuất tư
nhân
trong nước, đa phần cũng có mối liên hệ với nước ngoài, cũng có thể sản xuất theo tiêu
chuẩn quốc
tế. Mặt khác, các sản phẩm (một phần) được quảng bá thông qua các kênh chính thức, bao
gồm cả
những mặt hàng xuất khẩu với số lượng lớn như gạo, cà phê, và chè, vẫn có chất lượng và
giá thấp,
ít được thị trường biết đến. Cần phải nỗ lực để cải thiện những sản phẩm này. Giống như
với ngành
dệt may và giày dép, chiến lược hiệu quả nhất là kết nối với người nước ngoài, học tập họ,
và cuối
cùng thay thế họ9. Lựa chọn này cần được nghiêm túc xem xét.
(4) Phần mềm
Do ngành phần mềm chỉ sử dụng trí não của người Việt Nam chứ không có đầu vào vật chất
nào
nên đóng góp cho giá trị gia tăng là trực tiếp. Ngành này cũng góp phần nâng cao tự hào dân
tộc vì
phần mềm được coi là ngành công nghiệp trí tuệ. Tuy nhiên, ngành phần mềm trong nước
vẫn còn
trong thời kỳ trứng nước và thiếu trầm trọng những lập trình viên, giảng viên giỏi, phương
pháp và
tài liệu giảng dạy, và trình độ tiếng Anh yếu (JICA-NEU 2003).
9 Các công ty nước ngoài mang vào công nghệ mới, những tiêu chuẩn an toàn và kỹ năng quảng bá (marketing) mà
trong nước đang thiếu. Ví dụ, Nestle đã liên kết với các nông dân ở Hà Tây để sản xuất các sản phẩm sữa chất
lượng
cao và METRO cũng mua và bán ra thị trường các thực phẩm sản xuất trong nước sử dụng mạng lưới bán hàng
hiện
đại.
14
Hơn bất cứ một ngành công nghiệp nào, việc xác định mục tiêu của ngành phần mềm cần
phải
được tiến hành hết sức cẩn thận. Sản phẩm phần mềm bao gồm từ thiết kế các siêu vi
mạch, gói
phần mềm ứng dụng chuẩn hoá, các trò chơi trên máy tính, đến phần mềm kinh doanh theo
yêu cầu
của khách hàng, phần mềm công nghiệp cho hoạt động nhà máy, v.v. Trong hoàn cảnh năng
lực
hạn chế, Việt Nam nên lựa chọn những lĩnh vực có thể làm tốt chứ không chọn những lĩnh
vực
khác. Điều này cụ thể nghĩa là bắt đầu với tư cách nhà thầu phụ cho các chương trình phần
mềm
ứng dụng theo yêu cầu của khách hàng. Trên thực tế, việc này đã diễn ra ở Việt Nam.Về bản
chất,
đó là itaku kako (sản xuất theo hợp đồng). Những quốc gia phần mềm khác như Ấn Độ,
Trung
Quốc, Israel, và Nga cũng đang làm việc này để xuất khẩu phần mềm. Về cơ bản Việt Nam
nên đi
theo con đường của họ và mở rộng năng lực sang các lĩnh vực phần mềm khác chỉ từng bước
một
và nếu có thể.
Do các công ty phần mềm ở Việt Nam còn nhỏ bé, non trẻ, chủ yếu là tư nhân và hoạt động
trong
một môi trường tự do, Chính phủ không cần (không nên) can thiệp trực tiếp vào các hoạt
động của
họ. Quy luật thị trường là động lực chủ yếu để phát triển ngành này. Tuy nhiên, chính sách có
thể
gián tiếp hỗ trợ ngành phần mềm vượt qua những điểm yếu nêu trên. Việc kết hợp tăng số
lượng
các lập trình viên giỏi và xác định mục tiêu đúng đắn với hỗ trợ gián tiếp sẽ có thể đẩy Việt
Nam
lên một vị trí quan trọng ở khu vực ASEAN.
(5) Xe máy
Ngành công nghiệp xe máy độc đáo theo nghĩa mặc dù định hướng nội địa, ngành này đã đạt
đến
mức độ cao về quy mô, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh. Dung lượng lớn bất thường
của thị
trường xe máy Việt Nam so với mức thu nhập một phần giải thích tình trạng này. Một nhân
tố quan
trọng nữa là nỗ lực của các nhà sản xuất để chống chọi với cơn sốt xe máy Trung Quốc cách
đây
vài năm và sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp. Xe máy là ngành công nghiệp mũi nhọn duy
nhất ở
Việt Nam có thể tăng trưởng mạnh mẽ mà không cần dựa nhiều vào xuất khẩu.
Nhờ nỗ lực mua linh kiện trong nước, các công ty lắp ráp xe máy đã xây dựng được mối liên
kết
khá chặt chẽ với các nhà cung cấp nội địa, cả của Việt Nam và có vốn đầu tư nước ngoài, và
có thể
trở thành trung tâm cho sự phát triển cao hơn của các ngành công nghiệp phụ trợ tại Việt
Nam. Tuy
nhiên, so với Thái Lan, tích tụ tư bản của các nhà cung cấp nội địa vẫn còn khá nhỏ bé. Đó là
do
lịch sử đầu tư nước ngoài ngắn hơn tại Việt Nam và sự thiếu vắng các ngành công nghiệp
khác (đặc
biệt là ô tô và điện tử) có thể cùng chia sẻ các ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam. Quy
hoạch
tổng thể của ngành công nghiệp xe máy cần gắn kết chặt chẽ với chiến lược thúc đẩy các
ngành
công nghiệp phụ trợ. Những vấn đề khác cũng cần phải xem xét bao gồm ùn tắc giao thông,
an toàn
giao thông, ô nhiễm không khí, và quy hoạch đô thị tổng thể. Trong tương lai gần, hạn ngạch
nhập
khẩu phụ tùng xe máy dựa trên phê duyệt đầu tư ban đầu (nghiên cứu khả thi) cần phải bị bãi
bỏ
càng sớm càng tốt.
Một vấn đề thú vị liên quan đến ngành xe máy là trận chiến về kiến trúc kinh doanh ở Việt
Nam
(Phạm và Shusa 2004, Mishima 2004). Vấn đề này liên quan chặt chẽ với vấn đề thị trường
xe máy
nội địa sẽ mở rộng tới các vùng nông thôn và miền núi nhanh đến mức nào. Trước đây, kiến
trúc
kinh doanh Nhật Bản thống lĩnh, trong đó các sản phẩm chất lượng cao và đắt tiền được lắp
ráp từ
các bộ phận được đặt hàng sản xuất (kiến trúc toàn bộ). Trong khi đó, Trung Quốc bắt đầu
sản xuất
nhái các dòng sản phẩm của Honda bằng cách kết hợp các bộ phận làm sẵn (kiến trúc từng
phần ).
15
Sau cơn sốc Trung Quốc vào những năm 1999-2001, cả hai loại hình đồng thời tồn tại ở Việt
Nam.
Các dòng sản phẩm đắt tiền do các công ty lắp ráp nước ngoài sản xuất với kiểu kiến trúc
toàn bộ,
trong khi các dòng sản phẩm rẻ tiền tiếp tục được các công ty lắp ráp trong nước sản xuất
với kiểu
kiến trúc từng phần. Kiểu phân đoạn thị trường này còn tồn tại bao lâu nữa vẫn là một câu
hỏi còn
bỏ ngỏ để các chuyên gia tranh luận.
Các ngành công nghiệp phụ trợ (phụ tùng và bộ phận)
Mọi người nhất trí rộng rãi rằng việc phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ là quan trọng
đối với
quá trình công nghiệp hóa của Việt Nam. Tuy nhiên, con đường đúng đắn để phân tích và thúc
đẩy
các ngành công nghiệp phụ trợ vẫn còn mù mờ. Trong quá trình hội nhập toàn cầu, không nên
lấy
nội địa hóa 100% làm mục tiêu. Không đất nước nào có thể chỉ sản xuất hoàn toàn trong nước
theo
kiểu kết hợp theo chiều dọc như một nền kinh tế đóng. Để tồn tại và chiến thắng trong cạnh
tranh
toàn cầu, cần phải kết hợp các đầu vào tốt nhất từ khắp mọi nơi trên thế giới, bao gồm cả
Việt Nam.
Những câu hỏi then chốt là cái gì nên nội địa hóa và cái gì nên được nhập khẩu trong
từng trường
hợp, và cái gì quyết định mô hình mua hàng tối ưu. Việc thúc đẩy các ngành công
nghiệp phụ trợ
phải được dựa trên sự hiểu biết đầy đủ, thấu đáo về các nhân tố này. Việc xác định đúng các
đầu
vào cần được nội địa hóa sẽ đẩy nhanh đáng kể quá trình công nghiệp hóa , ngược lại xác
định sai
sẽ dẫn đến lãng phí thời gian và nguồn lực (Mori và Ohno, 2004).
Những thứ phải gấp rút nội địa hóa được bộc lộ rõ ràng từ hành vi của các công ty có vốn
đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Các công ty này đều muốn mua được những phụ tùng và nguyên liệu đó
trên
thị trường nội địa tương xứng với giá trị thực của chúng. Thêm vào đó, các phụ tùng độc đáo
hoặc
thường xuyên cải tiến đương nhiên phải được mua trên thị trường nội địa thay vì nhập khẩu.
Cụ thể
hơn, những thứ phải được nội địa hóa khẩn trương gồm có các phụ tùng nhựa và kim loại,
các công
cụ đúc và nén, và các nguyên liệu bao bì. Những thứ này cũng bao gồm cả việc chế tạo các
phụ
tùng nhựa và kim loại nhanh chóng với độ tin cậy cao như cắt và xẻ, nghiền, rèn, đúc, xử lý
nhiệt,
v.v. Ngược lại, các công ty FDI không mong đợi các linh kiện chính xác hoặc các nguyên liệu
công
nghệ cao được sản xuất tại Việt Nam. Điều này một phần là do trình độ công nghệ trong
nước vẫn
còn thấp, và phần khác là do mỗi công ty đa quốc gia đã xây dựng một nhà máy toàn cầu tập
trung
rất nhiều vốn và quy mô lớn ở một nước khác để cung cấp những linh kiện đó. Nói cách
khác, các
công ty FDI rất muốn có các nhà máy xử lý nhiệt và phun nhựa đáng tin cậy hơn là các nhà
máy cố
gắng cung cấp những chi tiết khó với chất lượng thấp hơn chất lượng quốc tế.
Như đã chỉ rõ trên Hình 4, yêu cầu về mức độ và nội dung nội địa hóa khác nhau giữa các
ngành,
và có lẽ cũng khác nhau giữa các công ty để phản ánh chiến lược toàn cầu của họ. Hơn nữa,
các đầu
vào cần thiết cũng khác nhau rất lớn giữa các ngành. Thuật ngữ “các ngành công nghiệp
phụ trợ”
liên quan nhiều hơn đến sản xuất theo kiểu lắp ráp, trong khi dệt may, giày dép, chế biến
thực phẩm
lại đòi hỏi những loại nguyên liệu đặc thù cho từng ngành. Chính sách khuyến khích thúc đẩy
nên
chủ yếu hướng tới các phụ tùng và nguyên liệu cho sản xuất theo kiểu lắp ráp.
Trong sản xuất theo kiểu lắp ráp, các ngành công nghiệp phụ trợ thường có sự trùng lắp với
nhau,
vì vậy các chính sách thúc đẩy cũng phải hòa hợp với nhau. Mặc dù kích cỡ và độ chính xác
đòi hỏi
đối với các phụ tùng, linh kiện có thể khác nhau đôi chút giữa các ngành, ngành xe máy và
điện tử
dạng I, dạng II về cơ bản có thể cùng sử dụng chung các ngành công nghiệp phụ trợ. Chính
sách
khuyến khích thúc đẩy nên nhắm tới loại ngành công nghiệp phụ trợ chung này trước tiên.
Để kết
16
nối các nhà cung cấp nội địa với các công ty FDI và tăng cường năng lực cho họ, cần sử dụng
nhiều
biện pháp khác nhau như các hội chợ, cơ sở dữ liệu doanh nghiệp, và các trung tâm hỗ trợ kỹ
thuật.
Hình 5. Các mô hình chia sẻ của các ngành công nghiệp phụ trợ
Trong khi đó, như đã trình bày ở phía trước, đầu tư ngược dòng vào nguyên liệu trong ngành
dệt
may và giày dép (nghĩa là nguyên liệu dệt và da) cần phải được tiến hành một cách thận
trọng. Chế
biến, phân phối, và marketing là những khâu cần được tăng cường trong ngành chế biến thực
phẩm.
Các ngành công nghiệp sản xuất nguyên liệu
Trong số các đầu vào công nghiệp, các nguyên liệu cơ bản như thép, các sản phẩm hóa dầu
(bao
gồm cả nhưa PVC và phân bón), sợi dệt, xi măng, giấy và những nguyên liệu tương tự nên
được
phân tích tách biệt với các phụ tùng và quy trình sử dụng trong sản xuất theo kiểu lắp ráp.
Đây là
những ngành công nghiệp nguyên liệu đòi hỏi nhiều vốn, thuộc loại thay thế nhập khẩu, mà
việc
khuyến khích phát triển đòi hỏi phải đặc biệt thận trọng. Không nên khước từ hoàn toàn việc
khuyến khích phát triển các ngành này nữa, quan điểm cho rằng cần có các ngành công nghiệp
nặng để tăng chiều sâu của cơ cấu công nghiệp và giải tỏa áp lực cán cân thanh toán khi thu
nhập
tiếp tục tăng nhanh là có lý. Tuy nhiên, các ngành này nên được phát triển một cách có chọn
lọc và
tùy theo điều kiện, thay vì phát triển theo chiều rộng bằng mọi giá do có rất nhiều rủi ro lớn
tiềm
tàng cho nền kinh tế quốc dân. la
Như đã đề cập ở trên, một đất nước thiếu vốn như Việt Nam nhìn chung không có lợi thế so
sánh
động trong những ngành công nghiệp này. Bên cạnh đó, các nước khác đã tạo lập đủ năng lực
cung
cấp cho toàn cầu. Đặc điểm của thị trường của các nguyên liệu này là cạnh tranh quyết liệt,
lợi
nhuận nhỏ bé và giá cả không ổn định. Nếu Việt Nam muốn đầu tư vào các ngành này, cần
phải
đảm bảo rằng các dự án mới sẽ vẫn giữ được tính cạnh tranh trong môi trường khắc nghiệt
đó. Sự
thành công hay thất bại của một dự án đòi hỏi nhiều vốn đầu tư phụ thuộc chủ yếu vào việc
lựa
chọn công nghệ, tổ hợp sản phẩm, và thời điểm đầu tư thích hợp. Đầu tư mà không có đủ
kiến thức,
thông tin thì quá mạo hiểm, và bảo vệ các ngành công nghiệp nặng bằng hàng rào thuế quan
cao
cũng không còn phù hợp nữa. Tóm lại, hỗ trợ công cho những ngành công nghiệp này được
đảm
bảo khi và chỉ khi có cạnh tranh thị trường đầy đủ và năng lưc chính sách đã được tăng
cường đáng
kể.
ĐIỆN TỬ I & II XE MÁY DỆT MAY & GIÀY DÉP CHẾ BIẾN THỰC PHẨM
Chế biến nhựa và kim loại (cắt, nén,
rèn, đúc, v.v.)
Quần áo, da,
phụ kiện
Các mặt hàng nông,
lâm, ngư nghiệp
Các ngành CN phụ trợ chung
17
Trong việc soạn thảo các quy hoạch tổng thể cho các ngành công nghiệp nặng, cần đặc biệt
chú ý
đến một thực tế là các công ty tư nhân đã bắt đầu đầu tư sôi động vào các ngành này. Thị
trường
thép, trước đây do Tổng công ty Thép Việt Nam thuộc khối doanh nghiệp Nhà nước thống
lĩnh,
hiện nay đang được các công ty tư nhân trong nước và nước ngoài đầu tư mạnh mẽ. Điều này
không chỉ đúng với các sản phẩm “dễ làm” như thép thanh, thép sợi, thép lá mạ kẽm, thép
ống, mà
còn cả với thép thanh nhỏ để trang trí và các tấm thép phẳng nhẵn mà trước đây được coi là
rất khó
đối với họ. Tương tự như vậy, trong ngành xi măng cũng có những nhà sản xuất tư nhân năng
động
và thu được nhiều lợi nhuận nhờ nhu cầu lớn và công nghệ tốt. Những xu hướng này chỉ ra
tương
đối rõ ràng rằng đầu tư công và sản xuất công sẽ không còn quá quan trọng – hoặc thậm chí
còn
không cần thiết – trong việc phát triển các ngành này trong tương lai. Các công ty tư nhhân
nhìn
chung thường hoạt động hiệu quả hơn và những rủi ro mà họ phải gánh chịu sẽ không thêm
vào
gánh nặng nợ nần của quốc gia. Vai trò mới của chính phủ trong việc phát triển các ngành
công
nghiệp sản xuất nguyên liệu do tư nhân thúc đẩy phải được nghiên cứu kỹ lưỡng và phản
ánh vào
trong quy hoạch tổng thể của các ngành này.
Về ngành công nghiệp ô tô
Trong số các ngành công nghiệp sản xuất dân dụng, ngành ô tô có liên kết đầu vào – đầu ra
rộng
nhất và sự phối hợp công nghệ cao nhất. Vì lý do này, ngành này có ảnh hưởng lớn đến quá
trình
công nghiệp hóa của nền kinh tế quốc dân. Nhưng cũng chính bởi lý do này, việc thúc đẩy
ngành
công nghiệp ô tô thành công là rất khó khăn. Chính xác hơn, việc lắp ráp cuối cùng và xuất
khẩu
phụ tùng, mà đựợc tách ra khỏi phần còn lại của nền kinh tế, là tương đối dễ, nhưng việc
thiết lập
một mô hình tháp thể hiện các nhà cung cấp sơ cấp và thứ cấp phục vụ cho nhà lắp ráp cuối
cùng ở
đỉnh tháp, như trong Thành phố Toyota, là hết sức khó khăn. Chỉ có Mỹ, liên minh châu Âu, và
Nhật Bản có thể làm được. Tất cả các nước sản xuất ô tô khác như Hàn Quốc, Thái Lan,
Trung
Quốc, Brazil và Nam Phi đều sao chép công nghệ và nhận được sự hỗ trợ lớn từ ba nước trên.
Trong nội bộ chính phủ Việt Nam, đã có người kêu gọi chọn ngành công nghiệp ô tô là một
trong
những ngành công nghiệp mũi nhọn, và cũng có người kêu gọi phải thận trọng10. Những điểm
lợi
và hại của việc thúc đẩy ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam cũng đã được thảo luận sôi nổi
giữa
các chuyên gia về công nghiệp của Nhật Bản. Những người nhấn mạnh lợi ích ủng hộ mạnh
mẽ
việc thúc đẩy ngành này, trong khi những người nêu ra những chi phí và rủi ro lại hoài nghi.