Diễn biến và nguyên nhân giá dầu thế giới biến động
Dầu mỏ là ngành kinh doanh lớn nhất và toàn diện nhất thế giới.
Ngành kinh doanh này, đã mở rộng tới mọi đối tượng, từ các nhà khoan dầu
mạo hiểm, tới các tổng công ty nhà nước. Sự mở rộng của nó thể hiện sự
phát triển của thương mại, thị trường, chiến lược kinh doanh, những thay đổi
về công nghệ, các nền kinh tế quốc gia và quốc tế của thế kỷ XX.
Tiểu luận Kinh tế vi mô Diễn biến và nguyên nhân giá dầu thế giới biến động
MỞ ĐẦU
Dầu mỏ là ngành kinh doanh lớn nhất và toàn diện nhất thế giới.
Ngành kinh doanh này, đã mở rộng tới mọi đối tượng, từ các nhà khoan dầu
mạo hiểm, tới các tổng công ty nhà nước. Sự mở rộng của nó thể hiện sự
phát triển của thương mại, thị trường, chiến lược kinh doanh, những thay đổi
về công nghệ, các nền kinh tế quốc gia và quốc tế của thế kỷ XX. Có thể
nói, dầu mỏ đã trở thành động lực phát triển của thế giới, đồng thời cũng là
nguyên nhân gây ra nhiều biến động xã hội.
Với vai trò quan trọng đó, thời gian qua, giá dầu mỏ biến động đã thu
hút sự chú ý của nhiều nhà kinh tế đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu. Để vận dụng
kiến thức đã học vào thực tiễn, góp phần nghiên cứu mặt lý luận của vấn đề
này, bằng những kiến thức được học từ môn Kinh tế vi mô, đặc biệt là nội
dung bài học về Cung, Cầu, em xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài:
“Diễn biến và nguyên nhân giá dầu thế giới biến động thời gian
qua”.
Đề tài được nghiên cứu nhằm mục đích vận dụng kiến thức đã học,
đưa ra những nhận định ban đầu về nguyên nhân khiến giá dầu biến động
thời gian qua; đồng thời, góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cho
bản thân, hoàn thành chương trình học tập môn Kinh tế vi mô tại trường Đại
học Ngoại thương. Để đạt được mục tiêu đó, đề tài sử dụng phương pháp
nghiên cứu chung: phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp phân tích,
tổng hợp, mô hình hóa, so sánh tĩnh…
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, bố cục của đề tài bao gồm những nội
dung chính sau:
Phần 1: Lý luận chung về cung, cầu
Phần 2: Diễn biến và nguyên nhân giá dầu thế giới biến động thời
gian qua.
Lê Đình Vũ- K47-KTĐN 1
Tiểu luận Kinh tế vi mô Diễn biến và nguyên nhân giá dầu thế giới biến động
PHẦN 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CUNG, CẦU
1. Cung
1.1. Khái niệm
Cung là số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà người bán có khả năng bán
và sẵn sàng bán tại các mức giá khác nhau trong một khoảng thời gian nhất
định với giả định các nhân tố khác không đổi.
1.2. Luật cung
Luật cung chỉ ra mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa giá và lượng cung: “với
giả định các nhân tố khác không đổi, số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ được
cung trong một khoảng thời gian nhất định sẽ tăng lên khi giá tăng và ngược
lại, khi giá giảm”.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến cung
Cung của một loại hàng hóa, dịch vụ nào đó phụ thuộc vào giá cả của
chính hàng hóa, dịch vụ đó. Ngoài ra, cung còn phụ thuộc vào một số yếu tố
khác. Sự thay đổi của các yếu tố này sẽ dẫn đến sự dịch chuyển của đường
cung.
1.3.1. Trình độ công nghệ
S S’
P
P0
O
Q1 Q2 Q
Hình 1.1. Sự cải tiến trong công nghệ dệt vải: đường cung dịch chuyển sang
phải cho thấy các doanh nghiệp cung ứng hàng nhiều hơn ở mỗi mức giá
Lê Đình Vũ- K47-KTĐN 2
Tiểu luận Kinh tế vi mô Diễn biến và nguyên nhân giá dầu thế giới biến động
Đường cung trong hình 1.1 ứng với một trình độ công nghệ nhất định.
Khi công nghệ sản xuất được cải tiến, khả năng của nhà sản xuất được mở
rộng hơn. Nhà sản xuất sử dụng ít đầu vào hơn nhưng có thể sản xuất ra sản
lượng nhiều hơn trước. Do vậy, nhà sản xuất sẽ cung ứng nhiều hàng hóa,
dịch vụ hơn tại mỗi mức giá. Khi đó, đường cung dịch chuyển sang phía phải.
Sự dịch chuyển của đường cung sang phải cho thấy rằng tại mỗi mức giá cho
trước, lượng cung cao hơn so với ban đầu.
1.3.2. Giá của các yếu tố sản xuất
Để tiến hành sản xuất, các doanh nghiệp cần mua các yếu tố đầu vào
trên thị trường các yếu tố sản xuất như: lao động, xăng dầu, điện, nước, v.v.
Giá cả của các yếu tố đầu vào quyết định chi phí sản xuất của các doanh
nghiệp. Giá cả của các yếu tố đầu vào giảm xuống sẽ khiến cho các nhà sản
xuất có thể sản xuất nhiều sản phẩm tại mỗi mức giá nhất định. Khi đó,
đường cung sẽ dịch chuyển sang phải. Giá cả các yếu tố đầu vào cao hơn sẽ
làm chi phí sản xuất gia tăng. Khi đó, các nhà sản xuất sẽ cảm thấy kém hấp
dẫn hơn khi sản xuất vì có thể lợi nhuận sẽ thấp hơn khi sản xuất và do vậy
sẽ cắt giảm sản lượng.
Hình 1.2. Sự dịch chuyển của đường cung: giá xăng dầu tăng làm chi phí sản
xuất tăng, đường cung dịch chuyển sang trái: các doanh nghiệp cung ít đi ở
mỗi mức giá
S’ S
P
P0
O
Q1 Q2 Q
1.3. 3. Các chính sách của Chính phủ
Lê Đình Vũ- K47-KTĐN 3
Tiểu luận Kinh tế vi mô Diễn biến và nguyên nhân giá dầu thế giới biến động
Các chính sách của Chính phủ cũng ảnh hưởng đến cung của các doanh
nghiệp. Những chính sách này có thể làm giảm cung (đánh thuế hàng hoá,
dịch vụ) hay tăng cung (trợ cấp cho nhà sản xuất).
1.3.4. Kỳ vọng
Kỳ vọng là những dự đoán của người bán về diễn biến của các yếu tố:
giá cả, thu nhập, thị hiếu… trong tương lai làm ảnh hưởng đến cung hiện
tại. Thông thường, các nhà sản xuất sẽ cung ứng nhiều hơn nếu dự báo
giá hàng hóa trong tương lai sẽ giảm xuống và ngược lại, cung ít đi nếu
giá sẽ tăng, khi các yếu tố khác không đổi. Nếu giá trong tương lai tăng
P Cung sau P Cung chưa có trợ cấp
lên, các doanh nghiệp Cungdtrướtrữ hàng hóa và trì hoãn việc bán trong hiện
thuế sẽ ự c
P1 tại để có thể kiếm được lợi nhuậnP1 trong tương lai. Nếpu có trợvọng
thuế
cao Cung
cấ kỳ
tương lai là tốt, cung hiThuếơạvị sẽ giảm và ngược lại, nếu kỳ Trọng trên mỗi
ện ttrên
mỗi đ n
i vợ cấp tương
P2 P2 đơn vị sản phẩm
sản phẩm
lai là xấu, cung hiện tại sẽ tăng.
Cầu
Cầu
O
1.3.4. Số lượng người bán
O
Số lượng người bán phản ánhQquy mô của thQ1 ường. Thị trường có quy
Q1 Q2 ị tr Q2 Q
mô càng lớn, càng nhiều nhà cung cấp thì cung càng cao và ngược lại.
1.3.5. Điều kiện tự nhiên và các yếu tố khách quan khác
Việc sản xuất của các doanh nghiệp có thể gắn liền với các yếu tố: tình
hình chính trị, khí hậu… Sự thay đổi của các điều kiện này có thể dẫn
đến thay đổi lượng cung của một loại hàng hóa nào đó trên thị trường. Thí
dụ, điều kiện tự nhiên có thể là một yếu tố kìm hãm hay thúc đẩy việc
sản xuất của các doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp.
Tóm lại, sự thay đổi của các yếu tố ảnh hưởng đến cung sẽ làm dịch
chuyển đường cung. Người bán sẽ thay đổi lượng cung ở mỗi mức giá
khi các yếu tố này thay đổi.
2. Cầu
2.1. Khái niệm
Lê Đình Vũ- K47-KTĐN 4
Tiểu luận Kinh tế vi mô Diễn biến và nguyên nhân giá dầu thế giới biến động
Cầu là số lượng hàng hóa mà người tiêu dùng có khả năng mua và sẵn
long mua với những mức giá khác nhau trong một khoảng thời gian xác
định, giả định các yếu tố khác là không đổi. Chỉ khi nào người tiêu dùng
có đủ hai yếu tố “mong muốn mua” và “có khả năng mua” thì cầu về hàng
hóa mới xuất hiện. Thiếu một trong hai nhân tố này thì không có cầu.
2.2. Luật cầu
Luật cầu chỉ ra mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa giá và lượng cầu:
“người tiêu dùng sẽ mua nhiều hàng hóa hơn nếu giá của nó giảm và ngược
lại, với giả định các yếu tố khác không đổi”.
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu
2.3.1. Thu nhập của người tiêu dùng
Khi thu nhập tăng, cầu đối với hầu hết các loại hàng hóa đều tăng.
Xăng dầu là hàng hóa thiết yếu, do đó, khi thu nhập tăng, cầu sẽ tăng và
ngược lại, thu nhập giảm, cầu sẽ giảm.
2.3.2. Giá của các hàng hóa có liên quan
Hàng hóa liên quan đến hàng hóa đang nghiên cứu gồm: hàng hóa thay thế
và hàng hóa bổ sung. Hàng hóa thay thế là những hàng hóa giống hoặc có
cùng giá trị sử dụng với hàng hóa đang xét. Cầu đối với một loại hàng hóa
nào đó sẽ giảm (tăng) đi khi giá của (các) mặt hàng hóa thay thế của nó
giảm (tăng), nếu các yếu tố khác là không đổi. Hàng hóa bổ sung là những
hoàng hóa được sử dụng đồng thời với hàng hóa đang xét và thường được
tiêu thụ cùng với nhau. Cầu đối với một loại hàng hóa nào đó sẽ giảm
(tăng) khi giá của (các) hàng hóa bổ sung của nó tăng (giảm), nếu các yếu
tố khác không đổi.
2.3.3. Dân số
Là số lượng người tiêu dùng, phản ánh quy mô tiêu dùng của thị trường.
Thị trường có quy mô càng lớn, thì cầu càng cao và ngược lại. Dân số nơi
tồn tại của thị trường là yếu tố quan trọng quyết định quy mô thị trường.
Lê Đình Vũ- K47-KTĐN 5
Tiểu luận Kinh tế vi mô Diễn biến và nguyên nhân giá dầu thế giới biến động
Cùng với sự gia tăng dân số, cầu đối với hầu hết các loại hàng hóa đều có
thể gia tăng.
2.3.4. Kỳ vọng
Kỳ vọng là những dự đoán của người tiêu dùng về thay đổi trong tương
lai của các yếu tố: giá cả, thu nhập, thị hiếu… làm ảnh hưởng đến cầu
hiện tại. Nếu những thay đổi đó là có lợi, cầu hiện tại sẽ giảm. Ngược
lại, nếu những diễn biến đó là bất lợi, cầu hiện tại sẽ tăng.
Tóm lại, đường cầu đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nào đó sẽ dịch
chuyển khi các yếu tố khác với giá ảnh hưởng đến cầu đối với hàng hóa,
dịch vụ đó thay đổi. Lượng cầu của người tiêu dùng tại mỗi mức giá sẽ
thay đổi khi các yếu tố này thay đổi.
Lê Đình Vũ- K47-KTĐN 6
Tiểu luận Kinh tế vi mô Diễn biến và nguyên nhân giá dầu thế giới biến động
PHẦN 2
DIỄN BIẾN VÀ NGUYÊN NHÂN GIÁ DẦU THẾ GIỚI
BIẾN ĐỘNG THỜI GIAN QUA
2.1. Diễn biến giá dầu
Vào tháng 7-2008, giá dầu đã vượt qua mức tăng cao nhất mọi thời đại
– 147,27 USD/thùng, điều mà cách đây vài năm không ai nghĩ tới.
Giá dầu thế giớ i (USD/thùng)
160
140
120
100
80
60
40
20
0
3/7/2005
6/3/2007
7/5/2007
9/3/2008
9/8/2006
17/8/2005
6/10/2006
16/8/2007
14/8/2008
27/8/2008
8/11/2008
6/12/2008
15/1/2009
21/2/2009
27/4/2006
12/9/2006
21/7/2008
22/11/2005
13/01/2007
17/10/2008
19/12/2008
22/11/2007
25/02/3008
18/10/2008
31/10/2008
Sau khi duy trì ở mức giá 20 USD/thùng gần suốt những năm 90, giá
dầu bắt đầu tăng lên mạnh mẽ trong năm 2000, vượt qua cả mức kỷ lục trong
giai đoạn 1977-1981 (sau khi đã được điều chỉnh theo lạm phát), vượt ngưỡng
100 USD và cuối cùng lập kỷ lục với giá 147,27 USD/thùng tháng 7-2008.
Tháng 6-2008, Alexei Miller, Giám đốc điều hành Tập đoàn dầu khí lớn nhất
Lê Đình Vũ- K47-KTĐN 7
Tiểu luận Kinh tế vi mô Diễn biến và nguyên nhân giá dầu thế giới biến động
nước Nga - Gazprom - đã tiên liệu rằng chẳng bao lâu nữa, giá dầu sẽ leo lên
250 USD/thùng. Cũng vào thời điểm đó, Chủ tịch Hiệp hội các nước xuất
khẩu dầu mỏ (OPEC) Chakib Kelil đặt ra mức đỉnh điểm trong tương lai sẽ là
170 USD.
Tuy nhiên, khi lượng dầu tiêu thụ toàn cầu sụt giảm do cuộc khủng
hoảng kinh tế, giá dầu cũng đi xuống. Những tháng vừa qua, giá dầu rơi vào
tình trạng không ổn định. Với việc nhu cầu về dầu sụt giảm ở hầu hết các
nước phương Tây và tốc độ tăng trưởng chậm lại ở một số nền kinh tế đang
lên của châu Á, giá dầu đang có khuynh hướng giảm xuống. Trong tuân đâu
̀ ̀
tiên cua thang 10/2008, giá dâu đã giảm 13% và đên ngay 7-10, giá dâu thô đã
̉ ́ ̀ ́ ̀ ̀
giam xuông ̉ mức 88 USD/thung, thâp nhât trong vong 8 thang trước đó. Và
̉ ́ ̀ ́ ́ ̀ ́
dầu tiếp tục giảm giá, mức giá thấp nhất được ghi lại là hơn 30 USD/thùng
(tháng 12/2008). Đến tháng 3/2009, giá dầu ở mức 43 USD/thùng.
Trong một năm, dầu mỏ lập một biểu đồ hình chóp nón: Nếu như giai
đoạn đầu năm đến ngày 11/7/2008 lập kỷ lục về tốc độ và mức độ leo thang
chưa từng có trong lịch sử (đạt ngưỡng 147,27 USD/thùng) thì nửa năm còn
lại, nó cũng chứng tỏ sự xuống dốc một cách kỳ lạ, loại bỏ hoàn toàn mọi dự
báo của các chuyên gia hàng đầu thế giới. Vậy đâu là nguyên nhân của hiện
tượng giá dầu biến động?
2.2. Nguyên nhân giá dầu biến động
2.2.1. Giai đoạn tăng giá
Nguyên nhân của giá dầu cao dễ thấy nhất đối với nhiều người là
chiến tranh I-rắc, rối loạn ở Trung Đông, Venezuela, Nigeria… Tuy nhiên,
nguyên nhân thực tế phức tạp hơn nhiều.
Vấn đề giá dầu thô tăng theo thời gian là một khuynh hướng không thể
đảo ngược, liên quan đến tình trạng cạn kiệt nguồn khai thác vì dầu thô là
nguồn tài nguyên không tái tạo được. Hiện nay, trên thế giới đang diễn ra các
cuộc tranh luận gay gắt về tình trạng cạn kiệt dầu. Trong những năm gần
đây, các mỏ mới, lớn, phát hiện càng ngày càng ít dần, trong khi các mỏ đang
Lê Đình Vũ- K47-KTĐN 8
Tiểu luận Kinh tế vi mô Diễn biến và nguyên nhân giá dầu thế giới biến động
khai thác đang đi vào giai đoạn đỉnh điểm hoặc chuyển sang giai đoạn kết
thúc. Theo thông báo của Trung tâm phân tích tình trạng cạn kiệt dầu (ODAC)
có trụ sở ở London, thì năm 2000 có 13 mỏ mới được phát hiện với trữ lượng
500 triệu thùng trở lên, năm 2001 giảm xuống còn 6, năm 2002 phát hiện 2
mỏ và năm 2003 chỉ có 1 mỏ thuộc tầm cỡ nói trên. Các mỏ có trữ lượng trên
500 triệu thùng cung cấp đến 80% sản lượng dầu tiêu thụ trên thị trường thế
giới, do đó hiện tượng cạn kiệt dầu trở thành một nguy cơ đối với toàn cầu.
Trường phái bi quan cho rằng, sản lượng đỉnh điểm của thế giới sẽ
xảy ra vào khoảng 2007-2015 và trường phái lạc quan thì cho rằng, thời điểm
đó sẽ vào khoảng 2020-2030. Sau thời kỳ đỉnh điểm sẽ là thời kỳ cạn kiệt.
Như vậy, sự khác nhau của 2 trường phái chỉ là thời điểm sớm hay muộn, còn
bản chất hiện tượng không có gì khác nhau. Ngày nay, người ta phải đi tìm
các mỏ nhỏ, mỏ biên, mỏ ở vùng nước sâu hoặc điều kiện thiên nhiên khắc
nghiệt, công nghệ càng hiện đại, vận chuyển càng xa càng đắt tiền, nên giá
thành thùng dầu mỗi ngày một tăng cao.
Bên cạnh nguyên nhân nói trên thì một nguyên nhân khác cũng rất quan
trọng, đó là nhu cầu dầu khí của tất cả các nước ngày một tăng cao . Các
nước công nghiệp hoá vẫn chiếm phần lớn trong tổng tiêu dùng dầu lửa (các
nước OECD chiếm tới 57%). Tuy nhiên, theo IMF, trong vài năm qua, sự gia
tăng nhanh chóng về mức cầu từ các thị trường mới nổi đặc biệt là các nước
đang phát triển, nhất là Trung Quốc, Ấn Độ… là tác động chính khiến giá dầu
tăng. Những nước này cần năng lượng cho công nghiệp hoá, đồng thời dân
chúng giàu có hơn thì nhu cầu về năng lượng cũng tăng, đặc biệt là nhu cầu
về ô tô. Năm 2003, lượng nhập khẩu dầu mỏ của Trung Quốc ở mức dưới 25
triệu thùng, tuy nhiên, đến năm 2007, nó đã đạt mức 200 triệu thùng. Hơn
nữa, các nước này chỉ có rất ít sáng kiến để tiết kiệm năng lượng, do kết quả
của việc các chính phủ tiếp tục giữ giá năng lượng thấp một cách giả tạo và
thiếu sự kiểm soát về môi trường. Theo IMF, năm 2007, chưa đến một nửa
trong số 43 nước mới nổi và đang phát triển đã cho phép tăng giá năng lượng,
đẩy cầu về dầu trong các nước này tăng lên.
Lê Đình Vũ- K47-KTĐN 9
Tiểu luận Kinh tế vi mô Diễn biến và nguyên nhân giá dầu thế giới biến động
Mặt khác sự gia tăng cần thiết nguồn cung đang bị cản trở bởi các
nhân tố, như: rủi ro về địa chính trị, dự án kéo dài, sự thiếu hụt lao động và
trang thiết bị, chi phí thăm dò, những thách thức về công nghệ để hút dầu ở
các giếng dầu mới và tăng quốc hữu hoá về dự trữ dầu. Trước khi đạt được
sự gia tăng thực tế, các nguồn mới phải được tìm thấy để bù đắp cho sự suy
giảm sản xuất ở các giếng dầu cũ. Các nhà máy cũ phải nâng cấp hoặc xây
dựng mới, công nghệ phải thay đổi để đáp ứng các yêu cầu bảo vệ môi
trường, chi phí đầu tư xây dựng đường ống dẫn hoặc đóng mới các tàu chở
dầu hiện đại càng đẩy giá xăng dầu lên cao.
Hoạt động của các nhà đầu cơ cũng đóng vai trò quan trọng, góp
phần đẩy giá dầu lên cao. Hoạt động đầu cơ thường làm cung - cầu của thị
trường bị mất cân đối giả tạo. Giá dầu tăng trong vài năm qua đã thu hút
nhiều nhà đầu tư cá nhân cũng như của các tổ chức lao vào lĩnh vực này. Từ
khi bùng nổ cuộc khủng hoảng tín dụng, lượng tiền chảy vào hàng hoá đã
tăng mạnh mẽ, các quỹ tiền tệ bơm hàng tỉ USD vào thị trường tài chính và
năng lượng. Nguồn tiền đầu tư từ các quỹ hưu trí và bảo hiểm đổ vào hàng
hóa, trong đó có dầu mỏ, cũng đã tăng vọt. Theo giới phân tích, trong bối cảnh
thị trường tín dụng căng thẳng, một phần nguồn vốn từ thị trường này đã
được chuyển sang đầu tư vào năng lượng và hàng hóa. Các nhà giao dịch dầu
lửa hiện nắm giữ trên 286.000 hợp đồng dầu được giao hàng ở Cushing. Tuy
nhiên, chỉ có một phần rất nhỏ - 2% trong số này - có ý định thực sự nhận dầu
thô. Phần lớn trong số họ thậm chí chẳng biết Cushing nằm ở đâu trên bản
đồ, mục đích của họ chỉ là để bán lại hợp đồng để kiếm lời. Theo đánh giá
của các ngân hàng quốc tế, hoạt động đầu cơ chiếm 20% nguyên nhân làm
tăng giá dầu trên thế giới.
Đồng USD suy yếu cũng được cho nguyên nhân khiến giá dầu tăng phi
mã. Sự mất giá của đồng USD so với những đồng tiền mạnh khác thúc đẩy
việc mua bán hàng hóa vì các nhà đầu tư đánh giá tài sản bằng đồng USD là
khá rẻ. Sức mua của đồng đôla giảm, làm cho tổng nguồn thu OPEC giảm.
Các nhà lãnh đạo OPEC cho rằng, dù giá dầu hiện nay trên thế giới tăng
Lê Đình Vũ- K47-KTĐN 10
Tiểu luận Kinh tế vi mô Diễn biến và nguyên nhân giá dầu thế giới biến động
nhưng dưới tác động của lạm phát và suy yếu của đồng đôla thì so với lợi
nhuận công ty thu được là không lớn. Một số nhà phân tích cho rằng các nhà
đầu tư đã sử dụng giá dầu để đối phó với đồng USD suy yếu.
Một nguyên nhân khác nữa là kỳ vọng của các nhà sản xuất về việc
giá dầu tiếp tục tăng giá. Để đối phó với khủng hoảng kinh tế, Chính phủ
các nước đều ấn định mức lãi xuất thấp. Tuy nhiên, xét cho cùng, lãi suất
thấp dẫn tới giá hàng hóa và tài sản cao, như các trường hợp “bong bóng” địa
ốc và bất động sản đã chứng minh. Theo nhà kinh tế học Jeffrey Frankel của
Đại học Havard: mức lãi suất hiện nay không đủ để bù đắp cho tốc độ lạm
phát, nghĩa là lãi suất thực âm. Kết quả, lợi nhuận từ việc bơm một thùng
dầu khỏi lòng đất, bán thùng dầu đó và sử dụng khoản tiền thu được để đầu
tư thường thấp hơn so với số tiền có thể thu được bằng cách cứ để dầu nằm
yên trong lòng đất và đợi giá tăng cao hơn mới khai thác.
2.2.2. Giai đoạn giảm giá
Những dự đoán dầu tiếp tục tăng giá gần như lập tức mất giá trị khi
dầu thô hạ xuống gần 40 USD/thung vào tháng 1/2009. Vậy vì lý do gì, chỉ
̀
trong 4 tháng, dầu mất gần 70% giá trị và lùi sát 30 USD/thùng - thấp nhất
trong 5-7 năm gần đây?
Các chuyên gia kinh tế đều thống nhất cho rằng kinh tế thế giới chững
lại khiến nhu cầu về dầu giảm mạnh. Theo nghiên cứu cua Bernstein
̉
Research, “những số liệu gần đây cho thấy, có lẽ rốt cuộc chúng ta cũng
chạm mức cầu phủ định.” (Câu phủ định đối với một mặt hàng là khi người
̀
tiêu thụ không có nhu cầu và cũng không muốn mua mặt hàng đó). Trong báo
cáo công bố ngày 8/3/2009, World Bank dự báo kinh tế và thương mại toàn
cầu sẽ tăng trưởng âm trong năm 2009, lần đầu tiên kể từ Thế chiến thứ 2.
Trong đó, các quốc gia đang phát triển sẽ thâm hụt từ 270 đến 700 tỷ USD
trong năm nay. Do tác động trực tiếp từ khủng hoảng tài chính thế giới,
những nước có nguồn cầu số 1 thế giới phải cắt giảm tiêu thụ như Mỹ,
Trung Quốc khiến nhu cầu dầu tuột dốc không phanh. Điều này đã khiến giá
Lê Đình Vũ- K47-KTĐN 11
Tiểu luận Kinh tế vi mô Diễn biến và nguyên nhân giá dầu thế giới biến động
dầu giảm ở các nước thuộc OECD, bắt đầu từ Mỹ, nền kinh tế hàng đầu và
là nơi tiêu thụ ¼ sản lượng dầu thế giới. Theo thống kê của Cơ quan thông
tin năng lượng Mỹ, nhu cầu về dầu lửa trong quý I/2008 của Mỹ giảm
800.000 thùng/ngày so với cùng kỳ năm 2007, tương đương với 1% sản lượng
khai thác hàng ngày trên thế giới và là mức sụt giảm kỷ lục kể từ năm 1982.
Theo một nghiên cứu khác, nước Mỹ sẽ tiêu thụ ít đi 430.000 thùng dầu mỗi
ngày trong năm nay, tổng quãng đường mà dân Mỹ chạy xe cũng đã giảm 15,5
tỷ km so với cùng kỳ năm ngoái. Theo ông Khelid, Bộ trưởng Năng lượng
Algeria kiêm Chủ tịch Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC), nhu cầu
dầu mỏ sụt giảm thời gian gần đây xuất phát từ lượng tiêu thụ dầu đã giảm
mạnh tại các thị trường lớn như Mỹ và nhu cầu dầu mỏ toàn cầu đã giảm đi
khoảng 3 triệu thùng/ngày. Theo báo cáo của IEA, tổng nhu cầu dầu của toàn
thế giới năm 2008 khoảng 86,5 triệu thùng/ngày (giảm 240.000 thùng/ngày)
và sang năm 2009 cũng chỉ ở mức 87,2 triệu thùng/ngày (giảm 440.000
thùng). Rõ ràng, tình hình kinh tế suy thoái dẫn đến nhu cầu về dầu giảm là
nguyên nhân chính khiến giá dầu giảm xuống.
Bên cạnh đó, chính sách bỏ trợ giá xăng dầu ở Trung Quốc, nước nhập
khẩu dầu nhất châu Á, buộc người tiêu dùng phải tiết kiệm hơn, góp phần
làm giảm nhu cầu tiêu thụ.
Mặt khác, các nhà phân tích thị trường đều dự báo khi giá dầu tăng quá
cao, các nước sẽ buộc phải áp dụng chính sách sử dụng năng lượng tiết
kiệm hơn, đẩy mạnh khai thác và sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo
nhằm giảm bớt phụ thuộc vào dầu lửa. Có thể kể ra rất nhiều nguồn năng
lượng tái tạo được sử dụng thay thế dầu mỏ: năng lượng gió, năng lượng
mặt trời, thủy điện, địa nhiệt, cồn sinh học … Đa số các quốc gia công
nghiệp đã cam kết trong Nghị định thư Kyoto là trong 5 năm tới sẽ tăng thành
phần năng lượng tái sinh lên đến 5% tổng số năng lượng tiêu thụ. Hiện nay,
việc phát triển năng lượng thay thế đang được coi là chính sách "ưu tiên"
trong Nhà Trắng, 1 trong 3 “thay đổi” lớn mà ông Obama hứa đem đến cho
nước Mỹ trong nhiệm kỳ của mình là giảm sự phụ thuộc của Mỹ vào dầu
Lê Đình Vũ- K47-KTĐN 12
Tiểu luận Kinh tế vi mô Diễn biến và nguyên nhân giá dầu thế giới biến động
lửa, tăng tỷ lệ sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo. Bộ Năng lượng Mỹ dự
báo đến năm 2030, sản lượng điện khai thác từ gió sẽ chiếm tới 20% nguồn
cung cấp năng lượng của Mỹ. Ngoài ra, Chính phủ Mỹ còn dự kiến sẽ đưa
loại cồn etylic mới trở thành nguồn năng lượng thực sự, có sức cạnh tranh
để thay thế dầu mỏ trong vòng 6 năm tới.
Yếu tố thứ ba là đồng USD tăng giá. Dầu mỏ và nhiều loại hàng hóa
khác thường được định giá bằng USD. Khi đồng USD yếu, trị giá hàng hóa
đương nhiên tăng lên, và kết quả ngược lại nếu đồng USD mạnh. Đồng USD
lên giá so với các đồng tiền chủ chốt khác thời gian gần đây cũng khiến giá
dầu "hạ nhiệt". Giá USD có xu hướng tăng lên sẽ làm giảm sự hấp dẫn của
mặt hàng dầu mỏ đối với các nhà đầu tư.
Giá dầu giảm còn do sự ổn định nguồn cung của các nước OPEC và
xuất hiện thêm một số nguồn cung khác ngoài OPEC. Các Bộ trưởng của
Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) kết thúc cuộc họp thường kỳ tại
Viên (Áo) ngày 11/9/2008, quyết định tiếp tục duy trì chính sách ổn định thị
trường bằng việc giữ nguyên hạn ngạch sản xuất dầu của khối APEC ở mức
28 triệu thùng/ngày. Đây là mức sản lượng cao trong 25 năm qua. Ngày
15/3/2009, Hội nghị Bộ trưởng OPEC tiếp tục cam kết duy trì hạn ngạch xuất
khẩu dầu thô như hiện nay. Các bộ trưởng OPEC cho rằng, giá dầu mỏ như
vừa qua không tác động lớn đến sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới, vì
vậy OPEC không có ý định thay đổi chỉ tiêu sản lượng. Ông Ali Naimi, Bộ
trưởng Bộ dầu lửa của Ảrập Saudi - nhà xuất khẩu dầu hàng đầu thế giới,
tuyên bố: “Các kho dự trữ đang ở tình trạng khả quan, giá đang xuống và tôi hy
vọng không ai phải lo ngại về việc thiếu hụt. Chúng tôi rất hài lòng với tình
hình hiện nay”. Năm 2007, giá dầu mỏ tăng đã mang lại lợi nhuận khổng lồ
513 tỷ USD cho các nước thành viên OPEC và các nước này đã tăng sản lượng
xuất khẩu lên 45%. Các chuyên gia cho rằng, nhu cầu nhập khẩu dầu mỏ từ
các nước OPEC sẽ giảm 800 nghìn thùng/ngày, xuống mức trung bình là 28,3
triệu thùng/ngày, do có thêm nguồn cung từ các nước xuất khẩu dầu mỏ mới
không thuộc OPEC. Mỹ cũng đã quyết định thăm dò khai thác khu vực thềm
Lê Đình Vũ- K47-KTĐN 13
Tiểu luận Kinh tế vi mô Diễn biến và nguyên nhân giá dầu thế giới biến động
lục địa của họ, là khu vực vốn được coi “dự trữ chiến lược”, lâu nay Mỹ chưa
đụng đến với lý do “bảo vệ tài nguyên môi trường”. Việc này góp phần làm
tăng nguồn cung dầu mỏ, tạo tâm lý đẩy giá dầu đi xuống.
Thứ năm, giá dầu giảm do giới đầu cơ bán ra. Trong bối cảnh kinh tế
thế giới nhiều bất ổn, các nguồn nguyên liệu chiến lược như dầu lửa hoặc
vàng luôn là được giới đầu cơ tăng cường nắm giữ để tránh rủi ro. Xuất phát
từ nguyên nhân ban đầu là đồng USD mất giá, các nhà đầu cơ mua vào các
hợp đồng giao dịch dầu lửa với tính toán giá dầu sẽ tiếp tục tăng. Tuy nhiên,
thời gian gần đây, cùng với sự suy giảm nhu cầu tiêu thụ dầu trên thế giới,
đồng USD tăng giá trở lại, giới đầu cơ đã bán ra nhiều hợp đồng giao dịch
dầu lửa, góp phần làm giá dầu giảm.
Có 3 nguyên nhân chính khiến giới đầu cơ bán hợp đồng là:
Thứ nhất, tuyên bố của Giám đốc Cơ quan dự trữ liên bang Mỹ (FED)
Ben Bernake vừa qua khẳng định nước Mỹ đang đi đúng hướng trong khắc
phục các khó khăn của thị trường tài chính, đã làm giảm mối lo của giới đầu
tư. Vì thế, họ rút bớt tiền đầu cơ khỏi dầu thô, khiến giá dầu giảm.
Thứ hai, sau một thời gian dài găm giữ, thì đây là lúc để các nhà đầu cơ
xả hàng, hiện thực hoá lợi nhuận. Trên thực tế, bối cảnh về một đợt giảm
mạnh giá xăng dầu đã được các chuyên gia kinh tế trên thế giới dự báo từ lâu,
từ khi mà giá dầu không ngừng leo thang, bất chấp mọi nỗ lực chung của
cộng đồng quốc tế trong việc hạ nhiệt giá dầu. Tình trạng này được các nhà
kinh tế Mỹ ví có những nét gần giống với tình trạng “bong bóng” trong cuộc
khủng hoảng nhà đất vừa qua.
Thứ ba, đẩy mạnh chống đầu cơ dầu mỏ đang được chính giới ở Mỹ
coi là biện pháp cơ bản ngăn chặn “sốt” giá dầu. Quốc hội Mỹ gây áp lực
buộc chính phủ Mỹ có biện pháp mạnh xử lý giới đầu cơ dầu lửa. Thượng
viện Mỹ ngày 22/7/2008 đã thông qua một dự luật nhằm đẩy mạnh chống
nạn đầu cơ dầu mỏ. Dự luật này yêu cầu Ủy ban Giao dịch hàng hóa kỳ hạn
Mỹ (CFTC) đưa ra những hạn chế đối với các giao dịch của các nhà đầu tư và
Lê Đình Vũ- K47-KTĐN 14
Tiểu luận Kinh tế vi mô Diễn biến và nguyên nhân giá dầu thế giới biến động
đầu cơ trên thị trường dầu mỏ, đồng thời loại trừ các khe hở pháp lý cho phép
các nhà đầu cơ giao dịch trên thị trường dầu mỏ London ''lách'' được những
quy định ngặt nghèo của Mỹ. Tổng thống Barack Obama đã khẳng định tuyên
chiến với nạn đầu cơ năng lượng; cam kết chấm dứt việc thả nổi các giao
dịch dầu mỏ cùng các đề xuất chi tiết về siết chặt hoạt động của các công ty
dầu mỏ. Ngày 25/7/2008, CFTC đã khởi kiện quỹ đầu tư Optiver của Mỹ
trước tòa án New York với cáo buộc quỹ này đã “làm giá” dầu lửa thời gian
qua. Thái độ kiên quyết của chính phủ Mỹ trong chống đầu cơ khiến giới đầu
cơ quốc tế lo ngại và buộc phải bán ra các hợp đồng để bảo toàn lợi nhuận.
Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân khác: Thời gian qua, tâm lý lo
ngại thiên tai ảnh hưởng tới nguồn cung cấp dầu thô ở Vịnh Mexico và các
nguồn cung khác trên thế giới đã lắng dịu. Khủng hoảng chính trị liên quan
đến khí đốt giữa Nga và Ucraina cũng đã cơ bản được giải quyết. Tình hình
Iran và Trung Đông không có căng thẳng mới. Vấn đề hạt nhân của Iran sắp
đi vào giai đoạn quyết định và có nhiều dấu hiệu cho thấy Iran sẽ cùng nhóm
5+1 tiếp tục đàm phán về chương trình hạt nhân của Iran, chưa có khả năng
Mỹ, Israel tấn công các cơ sở hạt nhân của Iran trong tương lai gần.
Lê Đình Vũ- K47-KTĐN 15
Tiểu luận Kinh tế vi mô Diễn biến và nguyên nhân giá dầu thế giới biến động
KẾT LUẬN
Dầu mỏ đã tạo nên những thay đổi lớn trong lịch sử thế giới hơn 1 thế
kỷ vừa qua. Có thể nói, sự tồn vong và phát triển của thế giới ngày nay phụ
thuộc rất lớn vào các nguồn tài nguyên, chủ yếu là dầu mỏ, khí đốt và than
đá. Ngay cả nguồn lương thực của chúng ta, dù là sản phẩm của ngành nông
nghiệp, cũng phụ thuộc không ít vào các nguồn tài nguyên này với tư cách là
nguyên liệu (phân đạm được sản xuất từ dầu, khí và than đá).
Nhận thức được ý nghĩa quan trọng đó, đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu khoa học về dầu mỏ nói chung và giá dầu nói riêng trên phạm vi
thế giới cũng như ở Việt Nam. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này, tác giả
đã cố gắng bám sát lý luận Cung, Cầu đã được trang bị ở môn Kinh tế vi mô,
từ đó đưa ra một số nhận định về nguyên nhân của tình trạng giá dầu biến
động thời gian qua. Nhưng do thời gian nghiên cứu có hạn, kinh nghiệm
nghiên cứu còn hạn chế, tài liệu tản mạn, đồng thời vấn đề mà tác giả nghiên
cứu không phải là dễ. Vì vậy, đề tài không tránh khỏi những thiếu sót nhất
định. Tôi hy vọng rằng vấn đề này sẽ được tổ chức nghiên cứu ở phạm vi
rộng lớn và sâu sắc hơn.
Qua đây, tôi xin gửi lời cám ơn chân thành đến cô giáo, Thạc sĩ Trần
Kiều Minh đã hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này./.
Lê Đình Vũ- K47-KTĐN 16