Đề tài: "THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM"
Kể từ khi đổi mới đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng : trong thời kỳ này thực hiện chiến lược 10 năm 1991-2000, nền kinh tế thoát ra khỏi khủng hoảng; trong thời kỳ 5 năm đầu tiên thực hiện chiến lược 10 năm 2001-2010, nền kinh tế dừng như “không chệch hướng” khỏi quỹ đạo và đạt tốc độ tăng trưởng hàng năm tương đối cao. Ngoài ra còn các thành tích khá ấn tượng về ổn định kinh tế vĩ mô, về tốc độ tăng giá trị xuất khẩu hàng...
GVHD:Th.s Lữ Lâm Uyên
TR ƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT KINH TẾ
TÊN ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở
VIỆT NAM
GV hướng dẫn: Ths.Lữ Lâm Uyên
SV th ực hiện :Nguyễn Bảo Ngọc
L ớp : Thương mại 3
Khóa :32
Tp.Hồ Chí Minh, ngày 23 tháng 4 năm 2008
SVTH: Nguyễn Bảo Ngọc.Lớp TM3.K32 - Trang1 -
GVHD:Th.s Lữ Lâm Uyên
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
..................................................................................................
..................................................................................................
..................................................................................................
..................................................................................................
..................................................................................................
........................................................................................................
........................................................................................................
........................................................................................................
........................................................................................................
........................................................................................................
........................................................................................................
........................................................................................................
........................................................................................................
........................................................................................................
........................................................................................................
........................................................................................................
......................................................................................................
Điểm bằng số:
Điểm bằng chữ :
........................................................................................................
........................................................................................................
SVTH: Nguyễn Bảo Ngọc.Lớp TM3.K32 - Trang2 -
GVHD:Th.s Lữ Lâm Uyên
LỜI NÓI ĐẦU
Kể từ khi đổi mới đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu
quan trọng : trong thời kỳ này thực hiện chiến lược 10 năm 1991-2000, nền kinh tế
thoát ra khỏi khủng hoảng; trong thời kỳ 5 năm đầu tiên thực hiện chiến lược 10
năm 2001-2010, nền kinh tế dừng như “không chệch hướng” khỏi quỹ đạo và đạt
tốc độ tăng trưởng hàng năm tương đối cao. Ngoài ra còn các thành tích khá ấn
tượng về ổn định kinh tế vĩ mô, về tốc độ tăng giá trị xuất khẩu hàng năm, về xóa
đói giảm nghèo… chính những thành tích đạt và vượt kế hoạch ấy đôi khi đã làm
dịu đi những băn khoăn về một số chỉ tiêu khác của đổi mới chứa đạt kế hoạch,
trong đó có việc đổi mới doanh nghiệp Nhà nước.Đổi mới doanh nghiệp nhà nước
là một bộ phận trong tổng thể công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế từ cơ chế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì
vậy, điều cần khẳng định trước tiên là mục tiêu của đổi mới doanh nghiệp nhà
nước phải phù hợp với mục tiêu chung của toàn bộ chương trình đổi mới nền kinh
tế, trong đó điều cốt lõi là nguyên tắc thị trường sẽ thay thế nguyên tắc kế hoạch
hóa tập trung. Theo tinh thần này, hai mục tiêu trực tiếp nổi bật của đổi mới doanh
nghiệp nhà nước là nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu
quả hơn và đảm bảo cho doanh nghiệp nhà nước góp phần cùng kinh tế nhà nước
nói chung làm tốt hơn "vai trò chủ đạo" trong nền kinh tế.
Quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước trên thực tế được triển khai trên
nhiều bình độ, trong đó nổi lên một xu hướng được coi là chủ lưu: đổi mới, sắp xếp
lại các doanh nghiệp nhà nước. Trong chương trình “đổi mới, sắp xếp lại doanh
nghiệp nhà nước" thì ai cũng biết, cổ phần hóa các doanh nghiệp là một nội dung
được coi là chủ yếu.
Muốn đổi mới hoạt động doanh nghiệp cần cổ phần hóa. Muốn huy động
vốn trong nước và ngoài nước cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần cổ phần hóa.
Muốn cải cách hành chính trong kinh tế, cổ phần hóa là một nội dung không thể
thiếu. Cổ phần hóa là một xu thế khách quan, nhất là khi ta đã trở thành thành viên
WTO, nghĩa là đã hội nhập ở một trình độ cao, đã hình thành một nền kinh tế thị
trường, thoát ra khỏi cơ chế quan liêu bao cấp.
Đây là đề tài tương đối rông và phức tạp, mặc dù đã cố gắng tìm tòi và sắp
xếp tư liệu nhưng chắc chắn trong bài viết của em sẽ không tránh khỏi những sai
lầm và thiếu sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của cô để em có
thể hoàn thiện hơn bài viết của mình
Em xin chân thành cảm ơn cô.
SVTH: Nguyễn Bảo Ngọc.Lớp TM3.K32 - Trang3 -
GVHD:Th.s Lữ Lâm Uyên
MỤC LỤC
Lời nói đầu……………………………………………………………….....3
Mục lục……………………………………………………………………...4
Chương I:Khái quát chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.……..5
1)Mục tiêu,yêu cầu cổ phần hóa(CPH) Doanh nghiệp nhà nước(DNNN)..........5
2)Sự cần thiết chuyển sang hình thức cổ phần hóa DNNN…………………….5
3)Đối tượng và điều kiện cổ phần hóa………………………………………….6
4)Hình thức cổ phần hóa………………………………………………………..6
5)Chi phí thực hiện cổ phần hóa………………………………………………..6
6)Chính sách đối với doanh nghiệp và người lao động sau CPH……………….7
a.Doanh nghiệp sau khi CPH được hưởng các ưu đãi..............................7
b.Người lao động trong doanh nghiệp CPH đựơc hưởng các chính sách ưu
đãi sau…………………………………………………………………………...8
Chương II: Kết quả sau khi cổ phần hóa Doanh nghiệp……….....................8
1)Luật điều chỉnh………………………………………………………………..8
2)Những kết quả đạt được và hạn chế cần khắc phục……………………..……10
3)Nguyên nhân …………………………………………………………………11
Chương III: Thực trạng cổ phần hoán DNNN tại Việt Nam………..……...11
1)Thực trạng chung hiện nay……………………………………………………11
2)Một số DNNN điển hình………………………………………………………15
a/DNNN cổ phần hóa không đạt mục tiêu………………………………...15
b/Các DNNN cổ phần hóa có hiệu quả.......................................................15
c/Các dự án cổ phần hóa khác…………………………………………….16
d/DNNN điển hình…………………………………………………………17
4)Mục tiêu hoàn thành CPH hơn 1500 DNNN vào năm 2010…………………...18
ChươngVI: Vấn đề đặt ra và biện pháp giải quyết của nhà nước……………19
1)Vấn đề đặt ra hiện nay……………...………………………………………..19
2)Biện pháp khắc phục…………………………………………………………22
3)Chủ trương,chính sách của Nhà nước………………………………………..23
4)Kết luận………………………………………………………………………25
*Tài liệu tham khào.…………………………………………………………..27
SVTH: Nguyễn Bảo Ngọc.Lớp TM3.K32 - Trang4 -
GVHD:Th.s Lữ Lâm Uyên
CHƯƠNG I :KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC:
1)Mục tiêu,yêu cầu cổ phần hóa(CPH) Doanh nghiệp nhà nước(DNNN):
(Theo điều 1 – Nghị định 187)
1.Chuyển đổi những công ty nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn sang
loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của cá nhân, các tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để tăng năng lực tài chính,
đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế.
2. Đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao
động trong doanh nghiệp.
3. Thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục tình
trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát triển thị
trường vốn, thị trường chứng khoán.
2)Sự cần thiết chuyển sang hình thức cổ phần hóa DNNN:
- Dưới góc độ của kinh tế thị trường, cổ phần hóa không phải là tư nhân hóa. Về
điều này, sự phân tích về tính chất xã hội hóa của hình thái cổ phần so với các hình
thái công ty khác ở phần trên đã rất rõ. Trong vấn đề này, ít nhất có một điều đã rõ
là, không phải tỷ lệ kinh tế thuộc doanh nghiệp quốc doanh càng lớn về mặt lượng
thì tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế càng cao. Đây là một sự nhầm lẫn về
nhận thức đã được thực tiễn lịch sử kiểm chứng và xác nhận.
- Theo quan niệm “truyền thống” của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, doanh nghiệp
quốc doanh được coi là hình thức mang tính chất xã hội hóa trực tiếp và cao nhất,
bởi nó được nhà nước nhân danh toàn xã hội mà lập ra. Trước đây, quan niệm này
không chấp nhận kinh tế thị trường nên cũng vì thế mà không chấp nhận các dạng
thức xã hội hóa khác nhau của kinh tế thị trường. Thành ra, doanh nghiệp quốc
doanh đã trở thành hình thái độc quyền biểu thị tính chất xã hội hóa của sản xuất,
là hoàn toàn xã hội chủ nghĩa, (còn hợp tác xã thì chỉ là xã hội chủ nghĩa có một
nửa). Từ đó, dẫn đến sự chỉ đạo về mặt chính sách là bằng mọi cách, làm cho kinh
tế quốc doanh càng chiếm tỷ trọng cao càng tốt với điều tâm niệm rằng: doanh
nghiệp quốc doanh chính là hiện thân của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nghĩa
là càng nhiều doanh nghiệp quốc doanh thì càng có nhiều chủ nghĩa xã hội. Chính
cách hiểu này đã khiến cho có thời kỳ quá trình quốc doanh hóa trở thành xu
hướng chủ đạo trong nền kinh tế, và như đã nói, đã bị thực tiễn bác bỏ.
- Ngược lại, nếu đứng từ góc độ của kinh tế thị trường, như đã trình bày ở
phần trên, cả trên phương diện lô-gíc lẫn lịch sử, hình thái cổ phần chính là một
hình thái biểu hiện tính chất xã hội hóa sản xuất cao nhất, và tính hiệu quả của nó
cũng đã được thử thách qua thời gian với độ dài tính bằng thế kỷ. Và theo lô-gíc,
không thể chuyển sang kinh tế thị trường mà lại không chấp nhận hình thức tổ
chức kinh tế chủ yếu đã tạo ra chính bản thân nó.Để có khả năng hướng nền kinh tế
SVTH: Nguyễn Bảo Ngọc.Lớp TM3.K32 - Trang5 -
GVHD:Th.s Lữ Lâm Uyên
đi theo những mục tiêu đã định, Nhà nước rất cần có thực lực sức mạnh kinh tế của
mình. Đặc biệt là trong trường hợp sử dụng các doanh nghiệp nhà nước, khi mà
việc gia tăng số lượng loại công cụ này chưa hẳn đã làm cho chính nó mạnh hơn.
Như vậy, về phương diện học thuật, hoàn toàn có thể khẳng định rằng, trên
quan điểm của kinh tế thị trường, việc cổ phần hóa ở nước ta hiện nay có ý nghĩa
như là một trong những biểu hiện bằng hành động thực tiễn của sự nhận thức lại về
bản chất của tính chất xã hội hóa của sản xuất; rằng đó là quá trình chuyển đổi hình
thức xã hội hóa sản xuất từ dạng doanh nghiệp quốc doanh trong khuôn khổ của cơ
chế kế hoạch hóa tập trung sang dạng công ty cổ phần (trong đó có loại tuyệt đối
100% cổ phần của Nhà nước) thích hợp với khuôn khổ của kinh tế thị trường.
3)Đối tượng và điều kiện cổ phần hóa:
Áp dụng đối với công ty Nhà nước không thuộc diện Nhà nước nắm giữ
100% vốn điều lệ thực hiện cổ phần hóa, bao gồm:các tổng công ty Nhà nước (kể
cả ngân hàng thương mại Nhà nước và các tổ chức tài chính Nhà nước); công ty
Nhà nước độc lập; công ty thành viên hạch toán độc lập của tổng công ty do Nhà
nước quyết định đầu tư và thành lập; đơn vị hạch toán phụ thuộc của công ty Nhà
nước.
Các công ty nhà nước quy định ở trên được tiến hành cổ phần hóa khi còn
vốn Nhà nước ( chưa bao gồm giá trị quyền sử dụng đất) sau khi giảm trừ giá trị tài
sản không cần dung, tài sản chờ thanh lý, các khoản tổn thất do lỗ, giảm giá tài sản,
công nợ không có khả năng thu hồi và chi phí cổ phần hóa.
Đối với việc CPH đơn vị hạch toán phụ thuộc của các công ty nhà nước chỉ
được tiến hành khi:
_Đơn vị hạch toán phụ thuộc của doanh nghiệp có đủ điều kiện hạch toán
độc lập.
_Không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp hoặc các bộ phận còn lại của doanh nghiệp.
4)Hình thức cổ phần hóa:
Giữ nguyên vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu
hút thêm vốn áp dụng đối với những doanh nghiệp CPH có nhu cầu tăng them vốn
điều lệ. Mức vốn huy động thêm tùy thuộc vào quy mô và nhu cầu vốn của công ty
cổ phần. Cơ cấu vốn điều lệ của công ty cổ phần được phản ảnh trong phương án
CPH
Bán một phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán
bớt một phần vốn Nhà nước vừa phát hành cộ phiếu để thu hút vốn.
Bán toàn bộ vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán
toàn bộ vốn Nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn.
5)Chi phí thực hiện cổ phần hóa:
SVTH: Nguyễn Bảo Ngọc.Lớp TM3.K32 - Trang6 -
GVHD:Th.s Lữ Lâm Uyên
Chi phí thực hiện cổ phần hoá được trừ vào vốn nhà nước tại doanh nghiệp
cổ phần hoá. Nội dung và mức chi phí cổ phần hoá thực hiện theo hướng dẫn
của Bộ Tài chính
6)Chính sách đối với doanh nghiệp và người lao động sau CPH:
a.Doanh nghiệp sau khi CPH được hưởng các ưu đãi:
1. Được hưởng ưu đãi như đối với doanh nghiệp thành lập mới theo quy định
của pháp luật về khuyến khích đầu tư mà không cần phải làm thủ tục cấp chứng
nhận ưu đãi đầu tư.
Trường hợp doanh nghiệp cổ phần hoá thực hiện niêm yết trên thị trường chứng
khoán thì ngoài các ưu đãi trên còn được hưởng thêm các ưu đãi theo quy định của
pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
2. Được miễn lệ phí trước bạ đối với việc chuyển những tài sản thuộc quyền
quản lý và sử dụng của doanh nghiệp cổ phần hóa thành sở hữu của công ty cổ
phần.
3. Được miễn lệ phí cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh khi chuyển từ
công ty nhà nước thành công ty cổ phần.
4. Được duy trì các hợp đồng thuê nhà cửa, vật kiến trúc của các cơ quan
Nhà nước hoặc được ưu tiên mua lại theo giá thị trường tại thời điểm cổ phần hoá
để ổn định hoạt động sản xuất, kinh doanh.
5. Được hưởng các quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai trong
trường hợp giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá đã bao gồm cả giá trị quyền sử dụng
đất.
6. Được tiếp tục vay vốn tại ngân hàng thương mại, công ty tài chính, các tổ
chức tín dụng khác của Nhà nước theo cơ chế như đối với công ty nhà nước.
7. Được duy trì và phát triển Quỹ phúc lợi dưới dạng hiện vật như: các công
trình văn hóa, câu lạc bộ, bệnh xá, nhà điều dưỡng, nhà trẻ để đảm bảo phúc lợi cho
người lao động trong công ty cổ phần. Những tài sản này thuộc sở hữu của tập thể
người lao động do công ty cổ phần quản lý.
8. Sau khi công ty nhà nước chuyển thành công ty cổ phần, nếu do nhu cầu
tổ chức lại hoạt động kinh doanh, thay đổi công nghệ dẫn đến người lao động ở
công ty nhà nước chuyển sang bị mất việc hoặc thôi việc, kể cả trường hợp người
lao động tự nguyện thôi việc thì được giải quyết như sau:
a) Trong 12 tháng kể từ ngày công ty cổ phần được cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh, nếu người lao động bị mất việc do cơ cấu lại công ty thuộc đối tượng
hưởng chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước
theo Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2002 của Chính phủ thì
được Quỹ hỗ trợ lao động dôi dư hỗ trợ.
Các đối tượng lao động mất việc, thôi việc còn lại thì được hưởng trợ cấp mất việc,
thôi việc theo quy định của pháp luật lao động hiện hành và được hỗ trợ từ tiền thu
SVTH: Nguyễn Bảo Ngọc.Lớp TM3.K32 - Trang7 -
GVHD:Th.s Lữ Lâm Uyên
của Nhà nước do cổ phần hoá công ty nhà nước quy định tại Điều 35 của Nghị định
này.
b) Trường hợp người lao động bị mất việc, thôi việc trong 4 năm tiếp theo thì công
ty cổ phần có trách nhiệm thanh toán 50% tổng mức trợ cấp theo quy định của Bộ
luật Lao động, số còn lại được thanh toán từ tiền thu của Nhà nước do cổ phần hoá
công ty nhà nước quy định tại Điều 35 của Nghị định này. Hết thời hạn trên, công
ty cổ phần chịu trách nhiệm thanh toán toàn bộ trợ cấp cho người lao động.
b.Người lao động trong doanh nghiệp CPH đựơc hưởng các chính sách
ưu đãi sau:
1. Người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp tại
thời điểm quyết định cổ phần hoá được mua tối đa 100 cổ phần cho mỗi năm thực
tế làm việc tại khu vực nhà nước với giá giảm 40 % so với giá đấu bình quân bán
cho nhà đầu tư khác.
2. Được tiếp tục tham gia và hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội theo chế độ
hiện hành nếu chuyển sang làm việc tại công ty cổ phần.
3. Được hưởng chế độ hưu trí và các quyền lợi theo chế độ hiện hành nếu đã
có đủ điều kiện tại thời điểm cổ phần hóa.
4. Nếu bị mất việc, thôi việc tại thời điểm cổ phần hoá được thanh toán trợ
cấp mất việc, thôi việc theo quy định của pháp luật.
CHƯƠNG II: KẾT QUẢ SAU KHI CỔ PHẦN HÓA DNNN
1)Luật điều chỉnh:
Cổ phần hóa là nội dung quan trọng của Đổi mới Sắp xếp Doanh nghiệp Nhà
nước. Từ năm 1992 đến nay qua các Nghị định 28, 44. và hiện nay đang thực hiện
là Nghị định 64/2002/NĐ-CP, chính sách cổ phần hóa ngày càng được bổ sung đầy
đủ nhằm thực hiện các mục tiêu đa dạng hóa sở hữu tạo ra loại hình quản lý hiệu
quả, huy động vốn của xã hội và tạo điều kiện cho người lao động làm chủ thực sự
doanh nghiệp với tư cách vừa là chủ sở hữu vừa là người lao động.
Nghị quyết 9 đã đề ra:
Tiếp tục sắp xếp đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực
doanh nghiệp Nhà nước, trọng tâm là cổ phần hóa mạnh hơn nữa… Đẩy nhanh tiến
độ cổ phần hóa và mở rộng diện các doanh nghiệp cần cổ phần hóa kể cả một số
Tổng công ty và doanh nghiệp lớn trong các ngành như điện lực, luyện kim, cơ
khí, hóa chất, phân bón, cement, xây dựng, vận tải đường bộ, đường hàng không,
hàng hải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm… và hoàn thiện, mở rộng nhanh hoạt
động của Thị trường chứng khoán để sớm trở thành kênh huy động vốn có hiệu
quả cho đầu tư và phát triển. Khuyến khích tạo điều kiện cho các doanh nghiệp,
nhất là các doanh nghiệp lớn của Nhà nước hoạt động có hiệu quả chuyển thành
Công ty cổ phần, phát hành cổ phiếu, trái phiếu tham gia thị trường chứng khoán.
SVTH: Nguyễn Bảo Ngọc.Lớp TM3.K32 - Trang8 -
GVHD:Th.s Lữ Lâm Uyên
Mở rộng quy mô cổ phần hóa và không cổ phần hóa khép kín trong nội
bộ doanh nghiệp chính là tinh thần xuyên suốt trong chủ trương đổi mới cơ chế,
chính sách về cổ phần hóa từ nay trở đi.
Dự thảo về chính sách đổi mới thay thế Nghị định số 64/2002/NĐ-CP
về cổ phần hóa hiện nay thay đổi theo hướng sau:
_Đặt thêm mục tiêu: Thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị
trường, gắn việc phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán, khắc phục tình
trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp.
- Mở rộng đối tượng cổ phần hóa bao gồm các Tổng công ty Nhà nước kể
cả các ngân hàng thương mại Nhà nước và các tổ chức tài chính Nhà nước.
- Chính phủ ban hành Quyết định số 155/2004/QĐ-TTg về tiêu chí, danh
mục phân loại công ty Nhà nước, thu hẹp diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn Nhà
nước và cổ phần chi phối, mở rộng diện cổ phần hóa cho hầu hết các lĩnh vực sản
xuất kinh doanh dịch vụ.
- Doanh nghiệp cổ phần hóa có tổng giá trị tài sản theo sổ sách kế toán từ
20 tỷ đồng trở lên việc xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa thực hiện thông
qua các tổ chức có chức năng định giá như các Công ty Kiểm toán, Công ty Chứng
khoán, tổ chức thẩm định giá, ngân hàng đầu tư trong và ngoài nước có năng lực
định giá.
- Đối tượng mua cổ phần lần đầu bao gồm: Nhà đầu tư chiến lược trong
nước, người lao động trong doanh nghiệp các nhà đầu tư khác (bao gồm cả đầu tư
nước ngoài).
- Thay thế các quy định hiện hành dành tối thiểu 30% số cổ phần còn lại
(nếu có) để bán cho các đối tượng ngoài doanh nghiệp bằng quy định mới: dành
100% số cổ phần còn lại (sau khi trừ cổ phần Nhà nước nắm giữ) bán đấu giá công
khai cho các nhà đầu tư… giá bán cổ phần ưu đãi cho người lao động trong doanh
nghiệp được giảm 40% so với giá đấu bình quân.
- Phương thức tổ chức bán đấu giá cổ phần lần đầu với khối lượng cổ
phần hóa trên 1 tỷ đồng được đấu giá tại các tổ chức tài chính trung gian và trên 10
tỷ đồng thì tổ chức tại trung tâm giao dịch chứng khoán.
Các quy định mới trên dự thảo sắp ban hành đã được thảo luận kỹ càng,
được nhiều Bộ, ngành, các nhà kinh tế ủng hộ vì có thể thực hiện được mục tiêu
khắc phục tình trạng cổ phần hóa trong nội bộ doanh nghiệp, tạo điều kiện thay đổi
phương thức quản lý và huy động thêm vốn xã hội đồng thời khắc phục hạn chế
những khiếm khuyết trong xác định giá trị doanh nghiệp. Đây cũng là cơ hội tạo
nguồn hàng để phát triển thị trường chứng khoán.
Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 về Chứng khoán và Thị
trường chứng khoán đã đơn giản hóa nhiều những điều kiện để các Công ty cổ
phần phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (chỉ cần vốn điều lệ 5 tỷ đồng, hoạt
SVTH: Nguyễn Bảo Ngọc.Lớp TM3.K32 - Trang9 -
GVHD:Th.s Lữ Lâm Uyên
động kinh doanh năm trước có lãi) hoặc điều kiện để được niêm yết cổ phiếu (vốn
điều lệ trên 5 tỷ đồng, 2 năm liên tục trước đó có lãi…).
Chỉ thị số 20/2004/CT-UB của Ủy ban nhân dân Thành phố đã giao Ban Đổi
mới Quản lý doanh nghiệp Thành phố phối hợp với Trung tâm giao dịch chứng
khoán Thành phố tổ chức tập huấn, khuyến khích các doanh nghiệp đủ điều kiện
tham gia Thị trường chứng khoán, chọn một số doanh nghiệp cổ phần hóa thí điểm
bán cổ phần lần đầu ở Trung tâm giao dịch chứng khoán.
2)Những kết quả đạt được và hạn chế cần khắc phục:
Cổ phần hoá các DNNN thời gian qua đạt được những kết quả đáng ghi
nhận, nhưng việc cổ phần hoá, sắp xếp các doanh nghiệp có quy mô lớn, trong đó
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng thực hiện còn
chậm.
CPH đã tạo ra loại hình DN nhiều chủ sở hữu bao gồm Nhà nước, công nhân
viên trong DN và cổ đông ngoài DN. Sự đa dạng về sở hữu mang lại sự đa dạng về
vốn, huy động được nguồn vốn đang nằm trong các tổ chức, cá nhân ngoài xã hội
vào sản xuất kinh doanh. Nhờ vậy quy mô vốn của một DN được tăng lên, trong
khi Nhà nước lại tránh được tình trạng đầu tư dàn trải, nhỏ lẻ vào tất cả các ngành,
lĩnh vực kinh tế; từ đó thu lại được một phần vốn để đầu tư vào những ngành, lĩnh
vực then chốt và các mục đích khác cần thiết hơn.
Thông qua CPH các khoản nợ xấu, tài sản không sử dụng được trong sản
xuất kinh doanh của DN (hàng tồn kho lâu ngày, kém, mất phẩm chất, máy móc
thiết bị hư hỏng, hết khấu hao...) được xử lý nên đã làm lành mạnh tình hình tài
chính của DN, qua đó mở ra cơ hội phát triển cho DN.
CPH cũng đã tạo nên một cơ chế quản lý mới cùng đội ngũ cán bộ quản lý
thích nghi hơn với cơ chế thị trường. Những chuyển biến nói trên đã nâng cao rõ
rệt hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DN CPH trên tất cả các chỉ tiêu chủ yếu:
về vốn, doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, số lượng lao động và thu nhập của lao
động, cổ tức. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy: vốn bình quân một DN tăng từ 24
tỷ đồng (2001) lên 63,6 tỷ đồng (2004); có tới 92,5% số DN được điều tra cho rằng
có lãi, lợi nhuận trước thuế tăng bình quân 149,8%, lợi nhuận sau thuế tăng bình
quân 182,3%, mức nộp ngân sách tăng bình quân 26,53%/DN, năng suất lao động
tăng trung bình 63,9%, thu nhập bình quân tháng của lao động tăng 34,5% so với
trước khi CPH, lao động tăng do mở rộng sản xuất, cổ tức cao hơn nhiều so với lãi
suất ngân hàng.
Các DNNN đã cổ phần hoá, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và việc huy động
vốn ngoài xã hội trong quá trình cổ phần hoá DNNN còn hạn chế do chưa khuyến
khích việc bán cổ phần ra bên ngoài. Chưa có doanh nghiệp nào tính giá trị quyền
sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá.
Thời gian thực hiện cổ phần hoá một doanh nghiệp còn dài, làm tiến độ cổ phần
hoá chậm.
SVTH: Nguyễn Bảo Ngọc.Lớp TM3.K32 - Trang10 -
GVHD:Th.s Lữ Lâm Uyên
Vốn nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn trong vốn điều lệ ở nhiều doanh
nghiệp không thuộc diện cần giữ cổ phần chi phối, phổ biến nhất là trong các tổng
công ty nhà nước thuộc các ngành xây dựng, giao thông.
Nhiều công ty cổ phần chưa có sự đổi mới thực sự trong quản trị công ty;
phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tư duy quản lý vẫn còn như DNNN. Hạn chế
này rõ nhất là ở những doanh nghiệp mà Nhà nước còn giữ cổ phần chi phối, ban
lãnh đạo của doanh nghiệp đều từ DNNN trước đó chuyển sang.
Trong một số công ty cổ phần, người lao động - cổ đông phần do nhận thức
chưa đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình, phần do sự hiểu biết pháp luật về
công ty cổ phần còn hạn chế, nên có nơi quyền làm chủ chưa được phát huy.
Ngược lại có nơi lạm dụng quy định của pháp luật gây khó khăn cho công tác quản
lý của Hội đồng quản trị, sự điều hành của giám đốc. Nhiều nội dung của cơ chế,
chính sách quản lý công ty cổ phần như: chính sách tiền lương, tiền thưởng… vẫn
còn áp dụng như DNNN.
3)Nguyên nhân
Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên ở các cấp, người lao động trong
doanh nghiệp chưa nhận thức đúng đắn về công cuộc đổi mới, sắp xếp và cổ phần
hoá DNNN. Một số khác còn mang nặng tư tưởng bao cấp, lo ngại sau cổ phần sẽ
mất đặc quyền, đặc lợi.
Một số Bộ, ngành, địa phương, tổng công ty nhà nước chưa quán triệt sâu
sắc và nghiêm chỉnh chấp hành Nghị quyết của Đảng, quy định của Nhà nước,
thiếu chương trình, kế hoạch cụ thể, chưa tích cực, sâu sát trong chỉ đạo thực hiện
đã làm ảnh hưởng tới tiến độ cổ phần hoá DNNN.
Một số khó khăn, vướng mắc trong chính sách cổ phần hoá chưa được xử lý
kịp thời như: đối tượng cổ phần hoá, việc bán cổ phần ra bên ngoài, chính sách bán
cổ phần ưu đãi, phương thức bán cổ phần, quy định về xác định giá trị doanh
nghiệp; chưa có giải pháp xử lý dứt điểm các tồn tại về tài chính, quy trình cổ phần
hoá toàn bộ tổng công ty nhà nước.
Những khó khăn, vướng mắc của DNNN sau cổ phần hoá chưa được xử lý
kịp thời, vẫn còn tình trạng phân biệt đối xử trong việc cho thuê đất, chuyển quyền
sử dụng đất, di chuyển địa điểm sản xuất, vay vốn kinh doanh…
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA DNNN TẠI VIỆT NAM
1)Thực trạng chung hiện nay:
Quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước trên thực tế được triển khai trên
nhiều bình độ, trong đó nổi lên một xu hướng được coi là chủ lưu: đổi mới, sắp xếp
lại các doanh nghiệp nhà nước. Trong chương trình “đổi mới, sắp xếp lại doanh
nghiệp nhà nước" thì ai cũng biết, cổ phần hóa các doanh nghiệp là một nội dung
được coi là chủ yếu. Chương trình sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước được
khởi động từ đầu những năm 1990 đến nay đã làm được nhiều việc; trong đó ấn
tượng nhất là số lượng doanh nghiệp nhà nước từ hơn 12 nghìn năm 1992 đã giảm
SVTH: Nguyễn Bảo Ngọc.Lớp TM3.K32 - Trang11 -
GVHD:Th.s Lữ Lâm Uyên
xuống còn gần 2.200 (9-2006); trong đó, hơn 1.500 doanh nghiệp hoạt động sản
xuất kinh doanh, 355 doanh nghiệp quốc phòng an ninh và sản xuất, cung ứng sản
phẩm, dịch vụ công ích, số còn lại là các nông, lâm trường quốc doanh, với tổng số
vốn nhà nước gần 260 nghìn tỷ đồng. Một phần trong số này nằm trong 105 tập
đoàn và tổng công ty (trong đó 7 tập đoàn, 13 tổng công ty 91; 83 tổng công ty
thuộc các bộ, ngành, địa phương và 2 tổng công ty thuộc Tập đoàn Công nghiệp
Than - khoáng sản Việt Nam).
Đóng góp vào mức giảm số lượng gần 10 nghìn doanh nghiệp nhà nước từ
năm 1992 đến nay, hình thức cổ phần hóa chỉ chiếm 1/4 (3.060 doanh nghiệp), còn
6.740 doanh nghiệp (3/4 số doanh nghiệp) giảm đi qua các hình thức chuyển đổi,
sáp nhập và một phần không đáng kể bị giải thể.
Theo đánh giá của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, nhìn
chung các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều nâng cao được hiệu quả sản xuất,
kinh doanh với các mức độ khác nhau. Dựa trên báo cáo của các bộ, ngành, địa
phương về kết quả hoạt động của 850 doanh nghiệp cổ phần hóa đã hoạt động trên
1 năm cho thấy, vốn điều lệ bình quân tăng 44%, doanh thu bình quân tăng 23,6%,
lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76%. Đặc biệt, có tới trên 90% số doanh
nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động kinh doanh có lãi, nộp ngân sách bình quân tăng
24,9%, thu nhập bình quân của người lao động tăng 12%, số lao động tăng bình
quân 6,6%, cổ tức bình quân đạt 17,11%.
Báo cáo tình hình thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại phiên
họp thứ 43 của ủy ban Thường vụ Quốc hội (ngày 21-9-2006) nhận định:
"Qua hơn 15 năm triển khai, chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã đạt
được những hiệu quả về kinh tế, chính trị, xã hội nhất định, tạo sự rõ ràng về quyền
lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của từng thành phần sở hữu, từng cổ đông; xoá bỏ cơ
chế phân phối bình quân; hình thành phương thức phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ
góp vốn, giảm được sự can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của các cấp chính
quyền, các cơ quan quản lý nhà nước; tạo cơ chế quản lý tự chủ, tự chịu trách
nhiệm nhằm thúc đẩy doanh nghiệp năng động hơn; tạo cơ sở pháp lý và vật chất
để người lao động xác lập và nâng cao vai trò làm chủ, gắn bó máu thịt với doanh
nghiệp. Kết quả nổi bật của cổ phần hoá là năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp nhà nước được nâng lên đáng kể. Họ phải tự tìm kiếm cơ hội, đối tác kinh
doanh, chủ động đổi mới công nghệ, tiết kiệm tối đa các chi phí để tăng doanh thu.
Cổ phần hoá cũng đã huy động thêm vốn của xã hội đầu tư cho phát triển sản xuất
kinh doanh, tạo cơ hội việc làm cho người lao động. Dưới góc độ phân công lao
động trong xã hội, cổ phần hoá đã thật sự giải phóng sức lao động từ chỗ đông mà
không mạnh, ỷ lại, dựa dẫm, thụ động chuyển sang chủ động, tích cực hơn trong
nền kinh tế nhiều thành phần với thái độ đầy đủ hơn, trách nhiệm hơn, góp phần
tăng thu nhập cho xã hội, cho Nhà nước và cho người lao động".
SVTH: Nguyễn Bảo Ngọc.Lớp TM3.K32 - Trang12 -
GVHD:Th.s Lữ Lâm Uyên
Và cũng theo đánh giá của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp,
sau quá trình thực hiện sắp xếp, số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm nhưng vẫn
tiếp tục giữ vai trò chi phối những ngành, lĩnh vực then chốt. Khu vực doanh
nghiệp nhà nước vẫn đóng góp gần 40% GDP và 50% tổng thu ngân sách nhà
nước.
Thực tiễn đó đã đủ để khẳng định, về cơ bản cổ phần hóa là một hướng đổi
mới doanh nghiệp phù hợp với tiến trình đổi mới kinh tế nói chung. Nhưng, một
nghịch lý đã từng tồn tại ngay từ khi công cuộc cổ phần hóa được khởi động cho
đến tận nay là "Tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp Việt Nam còn chậm, chưa đạt
yêu cầu" như nhan đề của một bài viết đăng trên website của Đảng (ngày 21-9-
2006). Bản báo cáo nêu rõ: những năm gần đây, đặc biệt từ năm 2001, số lượng
doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa tăng đáng kể, nhưng nhìn chung việc
triển khai còn chậm. Số doanh nghiệp được cố phần hóa tăng nhiều, nhưng số vốn
mới chiếm 12% tổng số vốn trong các doanh nghiệp nhà nước; nếu trừ đi phần vốn
nhà nước còn giữ lại gần 50% trong các doanh nghiệp cố phần hóa, thì thực chất tỷ
lệ trên chỉ chiếm khoảng 6%. So với mục tiêu của Nghị quyết Trung ương 9 khoá
IX thì còn chậm, nhất là các doanh nghiệp có quy mô lớn, các doanh nghiệp trong
lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Tiến độ cổ phần hóa không đồng đều giữa các bộ,
ngành, địa phương; một số bộ, ngành chưa hoàn thành theo đề án đã được phê
duyệt.
Như vậy, tuy số lượng doanh nghiệp có thể nhiều, nhưng xét về chỉ tiêu vốn
đã được cổ phần hóa thì coi như không đáng kể, thậm chí chưa xứng với một
chương trình lớn ở tầm quốc gia, bởi vì cổ phần hóa dường như ít ảnh hưởng tới
nguyên tắc thị trường của các doanh nghiệp nhà nước nói riêng và toàn bộ cơ chế
vận hành của nền kinh tế nói chung. Điều này cũng có nghĩa là, mục tiêu chính của
sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước là góp phần thúc đẩy nhanh sự chuyển đổi
cơ chế của nền kinh tế, làm cho nguyên tắc thị trường thay thế nguyên tắc kế hoạch
hóa tập trung, vẫn chưa đạt được như mong đợi.
Chính vì vậy mà tại Hội nghị về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước
giai đoạn 2006-2010 được tổ chức ngày 7-10-2006 vừa qua, Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng khẳng định: "Nhiệm vụ sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp trong 5 năm tới
trọng tâm là cổ phần hóa. Mục tiêu đến năm 2010, chúng ta sẽ cơ bản cổ phần hóa
xong doanh nghiệp nhà nước". Phương án được lựa chọn để tiếp tục thực hiện sắp
xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước từ nay đến 2010 là đẩy mạnh sắp xếp, cố
phần hóa các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Theo đó, từ nay đến hết năm
2010 sẽ cổ phần hóa khoảng 1.500 doanh nghiệp (riêng các doanh nghiệp thành
viên của tổng công ty nhà nước phải hoàn thành trong năm 2008), trong đó, năm
2007 phải cổ phần hóa 550 doanh nghiệp (có khoảng 20 tổng công ty), số còn lại
sẽ thực hiện trong các năm 2008-2009, một số công ty và số ít doanh nghiệp chưa
cố phần hóa được thực hiện trong năm 2010. Theo kết quả này, đến cuối năm
SVTH: Nguyễn Bảo Ngọc.Lớp TM3.K32 - Trang13 -
GVHD:Th.s Lữ Lâm Uyên
2010, cả nước sẽ chỉ còn 554 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, trong đó có 26 tập
đoàn, tổng công ty quy mô lớn; 178 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực an
ninh, quốc phòng, sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ thiết yếu; 200 nông, lâm
trường; 150 doanh nghiệp thành viên các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Có thể nói rằng, đây là một trong những nhiệm vụ rất khó khăn trong những
năm sắp tới. Bởi vì như thực tiễn nhiều năm qua đã cho thấy, không chỉ khối lượng
công việc phải tiến hành rất lớn, mà còn có thể phải đối mặt với không ít trở lực.
Trong 4 năm sắp tới (2007-2010) sẽ phải cổ phần hóa 1.500 doanh nghiệp (bình
quân mỗi năm cổ phần hóa 375 doanh nghiệp), riêng năm 2007 đặt kế hoạch cổ
phần hóa 550 doanh nghiệp. Chỉ tiêu này tuy không cao hơn nhiều so với kế hoạch
của một số năm trước, nhưng so với kinh nghiệm thực hiện nhiều năm thì rất cao.
Như trên đã nêu, trong khoảng 15 năm (1992-2006), cả nước cổ phần hóa được
3.060 doanh nghiệp, tức là bình quân mỗi năm cổ phần hóa được 204 doanh
nghiệp. Tất nhiên, với quyết tâm cao và kinh nghiệm đã tích lũy được, hoàn toàn
có cơ sở để hoàn thành mục tiêu này, dĩ nhiên là còn cần phải có những đổi mới
mạnh mẽ trong phương thức tiến hành cổ phần hóa.
Thật vậy, với cách làm như từ trước đến nay, diện mạo của tình hình cổ phần
hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam là: "quy mô doanh nghiệp được sắp
xếp hoặc cổ phần hóa trong thời gian qua chủ yếu vẫn là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong tổng số doanh nghiệp được cổ phần hóa có trên 2.600 đơn vị có quy mô
dưới 10 tỉ đồng. Tuy việc cố phần hóa các doanh nghiệp quy mô trên 10 tỉ đồng đã
tăng lên trong các năm 2004-2005, số doanh nghiệp dưới 10 tỉ vẫn chiếm 80% tổng
số được cổ phần hóa... Đáng chú ý, trong số các đơn vị đã cổ phần hóa có tới gần
1.200 đơn vị nhà nước tiếp tục giữ trên 50% vốn điều lệ, tỷ lệ này tương đương
khoảng 33% nhưng hầu hết đây là những doanh nghiệp có vốn lớn.
Nhiều doanh nghiệp không thuộc diện Nhà nước nắm 100% vốn nhưng đã
tránh cổ phần hóa bằng cách chuyển sang mô hình công ty mẹ - công ty con hoặc
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Số lượng doanh nghiệp tham gia
cung cấp dịch vụ công ích còn lớn, nhưng không ít doanh nghiệp có số thu từ dịch
vụ công ích dưới 20%.
Hiệu quả của quá trình sắp xếp, cổ phần hóa vẫn chưa được như mong đợi.
Tuy Chính phủ đã hỗ trợ: loại trừ tài sản và công nợ không tính vào giá trị doanh
nghiệp cổ phần hóa trên 2.500 tỉ đồng; xóa nợ thuế và các khoản phải nộp Nhà
nước trên 310 tỉ đồng; ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp trên 1.000 tỉ đồng; chi
phí cho cải cách doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng thương mại để hỗ trợ doanh
nghiệp sắp xếp và xử lý nợ và lỗ là 2.962 tỉ đồng; hỗ trợ lao động dôi dư 6.000 tỉ
đồng; chi xử lý nợ các ngân hàng thương mại 8.317 tỉ đồng.
Tình trạng này cho thấy, cổ phần hóa chưa đạt được kết quả tương xứng với
sự kỳ vọng cũng như hỗ trợ của Nhà nước.
SVTH: Nguyễn Bảo Ngọc.Lớp TM3.K32 - Trang14 -
GVHD:Th.s Lữ Lâm Uyên
Một khía cạnh rất quan trọng khác của tình hình là bộ máy quản lý và
phương thức hoạt động của các doanh nghiệp được cổ phần hóa. Công chúng vẫn
thấy một tình hình rất phổ biến là những “Công ty cổ phần nhà nước”. Bởi vì, “Sau
khi cổ phần hóa, khoảng 81,5% giám đốc, 78% chức danh phó giám đốc và kế toán
trưởng không có sự thay đổi. Điều này cho thấy trên thực tế là nhiều doanh nghiệp
sau cổ phần hóa vẫn hoạt động như trước cả về tổ chức, tư duy, công nghệ, quản lý
và triết lý kinh doanh vẫn mang dáng dấp của doanh nghiệp nhà nước. Nếu có thay
đổi chỉ là giám đốc doanh nghiệp nhà nước cũ trở thành lãnh đạo mới của công ty
cổ phần, chưa có doanh nghiệp nào sử dụng cơ chế thuê giám đốc điều hành”(7).
Rõ ràng, để tăng tốc tiến trình cổ phần hóa trong những năm tới, cần phải xem xét
lại nhiều vấn đề liên quan, trong đó đặc biệt là các chính sách thực thi cổ phần hóa
đã và đang được áp dụng.
2)Một số DNNN điển hình:
a/DNNN cổ phần hóa không đạt mục tiêu:
Đó là phương án CPH TCty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn được Bộ
Công nghiệp trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt với vốn điều lệ là 5.500 tỉ đồng
thì phần vốn Nhà nước nắm giữ tới 80% là quá lớn và không cần thiết, còn phần
bán cho CBNV và ra ngoài có 20%.
Hay theo hồ sơ bán đấu giá cổ phần lần đầu của Cty thuỷ điện Thác Mơ
thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam ngày 29.3.2007 có vốn điều lệ 700 tỉ đồng thì
phần vốn Nhà nước nắm giữ cũng tới 79,73%, bán ra bên ngoài 20%, còn phần bán
ưu đãi cho người lao động chỉ có 0,27%.
Đây là một xu hướng không tích cực, cả bộ chủ quản lẫn DN đều muốn Nhà
nước (mà thực chất là bộ và DN) nắm giữ cổ phần chi phối tới 80%. Trong khi DN
rượu - bia - nước giải khát thực ra Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối,
còn với khâu phát điện Nhà máy thuỷ điện Thác Mơ với công suất 150MW thì giai
đoạn đầu Nhà nước cũng chỉ cần nắm giữ cổ phần chi phối ở mức trên 51% là
được.
Hiện cả nước còn 2.176 DN 100% vốn nhà nước chưa CPH với giá trị tài
sản 260 nghìn tỉ đồng (đó là giá trên sổ sách kế toán, nếu CPH áp giá mới đánh giá
lại thì giá trị tài sản còn lớn hơn nhiều).
Nếu vẫn cung cách xây dựng và phê duyệt phương án CPH như trên thì rất khó đẩy
nhanh tốc độ CPH DNNN và hiệu quả huy động vốn của các nhà đầu tư sẽ vẫn rất
thấp.
b/Các DNNN cổ phần hóa có hiệu quả:
Công ty cổ phần cơ điện lạnh tại Thành phố Hồ Chí Minh là một minh
chứng điển hình của các doanh nghiệp cổ phần hoá làm ăn có hiệu quả. Với số vốn
ban đầu 15 tỉ đồng, sau 5 năm cổ phần hoá, vốn của doanh nghiệp đã tăng lên 167
tỉ đồng, doanh thu tăng từ 78,44 tỉ đồng lên 353 tỉ đồng và lợi nhuận tăng gấp 4
lần, thu nhập bình quân hàng tháng của người lao động tăng từ 1,4 triệu đồng lên 2
SVTH: Nguyễn Bảo Ngọc.Lớp TM3.K32 - Trang15 -
GVHD:Th.s Lữ Lâm Uyên
triệu đồng. Công ty cổ phần bông Bạch Tuyết chỉ có 11 tỉ đồng vốn khi tiến hành
cổ phần hoá, sau 1 năm số vốn này đã tăng lên 15 tỉ đồng, doanh thu tăng 22 lần,
lợi nhuận tăng 30%.
c/Các dự án cổ phần hóa khác:
Ngân hàng Thương mại Việt Nam và Công ty bảo hiểm Bảo Việt nằm trong
số các doanh nghiệp nhà nước bắt đầu bán cổ phần cho công chúng trong năm nay;
26 công ty khác, trong đó có VietNam Airlines, sẽ được cổ phần hóa vào năm
2008. 19 công ty khác sẽ bán cổ phần vào năm 2009 và đến năm 2010 sẽ có thêm 6
công ty tiến hành cố phần hóa.
Một viên chức của VietNam Airlines, ông Trần Đình Hùng, cho phái viên
AP biết rằng công ty đang nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của thủ tướng này dự
trù bán từ 10 đến 20% phần hùn cho công chúng. Ông Hùng nói thêm rằng sau khi
cổ phần hóa, công ty ông sẽ hoạt động có hiệu quả và năng động hơn.
Đầu năm 2006 đã triển khai sắp xếp: Công ty mía đường, đã phê duyệt giá
trị doanh nghiệp; xây dựng phương thức bán và giá khởi điểm để đưa ra đấu giá.
Tỉnh củng đã kiến nghị Bộ Tài chính giao cho Trung tâm thẩm định giá và dịch vụ
bất động sản để tổ chức đấu giá nhà máy đường. Quyết định phê duyệt phương án
chuyển đổi công ty bế xe tàu thành đơn vị sự nghiệp có thu thực hiện theo Nghị
định số 10 của Thủ tướng Chính phủ. Xây dựng phương án hợp nhất giữa Công ty
du lịch và Công ty thương mại thành Công ty du lịch thương mại, hoạt động theo
mô hình Công ty mẹ, công ty con. Triển khai xây dựng phương án thành lập Công
ty nông lâm nghiệp. Triển khai thực hiện cổ phần hoá: Tổ chức đại hội cổ đông
thành lập công ty cổ phần nông lậm sản. Các đơn vị: Công ty TNHH Kiên Hùng I
và các cơ sở của Công ty Du lịch (Khách sạn nhà hàng Tô Châu, Nhà hàng Hải Âu,
khách sạn- nhà hàng Hòn Trẹm và các cơ sở du lịch tại Mũi Nai) đang trong quá
trình thẩm định giá trị doanh nghiệp để lập phương án cổ phần hoá. Đối với Công
ty xuất nhập khẩu thủy sản, hiện đang trong quá trình quyết toán tài chính năm
2005 và thẩm định giá trị doanh nghiệp để lập phương án cổ phần hoá.
Có thể nói tiến động sắp xếp và thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước thuộc tỉnh quản lý vẫn đảm bảo theo kế hoạch đề ra, các doanh nghiệp thuộc
diện cổ phần hoá (Công ty cổ phần chế biến thủy sản xuất khẩu Ngô Quyền, Công
ty cổ phần nước đá thủy sản, Công ty cổ phần chế biến thực phẩm đóng hộp, Công
ty cổ phần vận tải thủy bộ,….đều có công nhân tham gia vay; đồng thời đơn vị đã
chủ động qua hệ với các ngân hàng thương mại để vay vốn cho công nhân, viên
chức của doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính (thế chấp bằng cổ phiếu),
mua cổ phần ưu đãi, nhằm hạn chế tình trạng mua, bán cổ phần ưu đãi giữa công
nhân viên chức với nhau. Ngoài ra theo như Ban chỉ đạo đổi mới phát triển doanh
nghiệp tỉnh cho biết từ khi chuyển giao một số doanh nghiệp: Công ty TNHH Kiên
Hùng I, Công ty cổ phần chế biến xuất khẩu thủy sản Ngô Quyền, Công ty cổ phần
nước đá thủy sản, Công ty cổ phần chế biến thực phẩm đóng hộp, Công ty cổ phần
SVTH: Nguyễn Bảo Ngọc.Lớp TM3.K32 - Trang16 -
GVHD:Th.s Lữ Lâm Uyên
.
d/DNNN điển hình:
Công ty Cổ phần sữa Việt Nam(vốn điều lệ 1.590.000.000.000 đồng)
Theo điều lệ của công ty
Điều 2: Tên, Hình thức, Trụ sở, Đại diện theo pháp luật, Chi nhánh, Văn phòng
đại diện và Thời hạn hoạt động của Công ty
1. Tên hợp pháp của Công ty bằng tiếng Việt là Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam.
Tên đăng ký hợp pháp của Công ty bằng tiếng Anh là Vietnam Dairy Products
Joint-Stock Company. Tên viết tắt là Vinamilk.
2. Công ty được thành lập theo phương thức chuyển từ một doanh nghiệp nhà nước
thành một công ty cổ phần, được tổ chức quản lý và hoạt động theo Luật Doanh
nghiệp. Theo đó, Công ty có tư cách pháp nhân kể từ Ngày Thành lập, và các Cổ
đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của Công ty trong
phạm vi số vốn đã góp vào Công ty.
3. Trụ sở đăng ký của Công ty là:
Địa chỉ: 184-186-188 Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
Điện thoại: (848) 9300 358
Fax: (848) 9305 206
E-mail: [email protected]
Website: www.vinamilk.com.vn
4. Tổng Giám đốc sẽ là đại diện theo pháp luật của Công ty.
5. Công ty có thể thành lập chi nhánh và văn phòng đại diện tại Địa bàn Kinh
doanh để hỗ trợ các mục tiêu của Công ty phù hợp với Nghị quyết của Hội đồng
quản trị và trong phạm vi Pháp luật cho phép.
6. Trừ khi chấm dứt hoạt động trước thời hạn theo Điều 43.2 và 44 hoặc gia hạn
hoạt động theo Điều 45, Thời hạn của Công ty là 50 năm kể từ Ngày Thành lập
Theo Thứ trưởng Bộ Công nghiệp Nguyễn Xuân Thúy, Bộ Công nghiệp đã
quyết định khi tiến hành cổ phần hóa Công ty Vinamilk, Nhà nước giữ 80% vốn
điều lệ của công ty, 20% còn lại được bán cho cán bộ nhân viên công ty và các cổ
đông bên ngoài (chủ yếu là các hộ bán sữa cho công ty, các đối tác chiến lược...).
Lý do Nhà nước giữ cổ phần lớn ở Vinamilk vì đây là công ty có vốn lớn và
đang kinh doanh có hiệu quả (đối với các công ty loại này, qui định là khi cổ phần
hóa Nhà nước phải giữ cổ phần chi phối).
Ngoài ra, mức cổ phần bán ra cho cán bộ nhân viên và cổ đông bên ngoài
tuy chỉ có 20% nhưng do Vinamilk khi cổ phần hóa có vốn điều lệ lớn (khoảng
1.500 tỉ đồng) nên lượng cổ phần bán ra cũng không phải ít.
SVTH: Nguyễn Bảo Ngọc.Lớp TM3.K32 - Trang17 -
GVHD:Th.s Lữ Lâm Uyên
Thứ trưởng Nguyễn Xuân Thúy cũng cho biết ngoài Vinamilk, hiện nay Bộ
Công nghiệp đang đẩy mạnh thực hiện cổ phần hóa ở gần 100 doanh nghiệp thuộc
bộ quản lý, trong số này có khá nhiều doanh nghiệp loại lớn và làm ăn có hiệu quả
3)Mục tiêu hoàn thành CPH hơn 1500 DNNN vào năm 2010:
Sau quá trình thực hiện sắp xếp, số lượng doanh nghiệp Nhà nước giảm
nhưng vẫn tiếp tục giữ vai trò chi phối những ngành, lĩnh vực then chốt. Khu vực
doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng góp gần 40% GDP và 50% tổng thu ngân sách
Nhà nước.
Dựa trên báo cáo của các bộ, ngành, địa phương về kết quả hoạt động của
850 doanh nghiệp CPH đã hoạt động trên 1 năm cho thấy, vốn điều lệ bình quân
tăng 44%, doanh thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận thực hiện bình quân tăng
139,76%. Đặc biệt, có tới trên 90% số doanh nghiệp sau CPH hoạt động kinh
doanh có lãi, nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%, thu nhập bình quân của người
lao động tăng 12%, số lao động tăng bình quân 6,6%, cổ tức bình quân đạt 17,11%.
Cùng với việc sắp xếp, CPH doanh nghiệp Nhà nước, từ năm 2001 đến nay, trên
địa bàn cả nước đã tiến hành giải thể 5 tổng công ty không giữ được vai trò chi
phối, đồng thời hỗ trợ các công ty thành viên sát nhập, hợp nhất 7 tổng công ty; tổ
chức lại tổng công ty rượu - bia - nước giải khát thành 2 tổng công ty; thành lập
thêm 17 tổng công ty Nhà nước, tổ chức lại 7 tổng công ty thành tập đoàn, đưa 1
tổng công ty 90 vào cơ cấu của tập đoàn.
Như vậy, đến hết tháng 9/2006, cả nước đã có 105 tập đoàn và tổng công ty,
cụ thể gồm 7 tập đoàn, 13 tổng công ty 91; 83 tổng công ty thuộc các bộ, ngành,
địa phương và 2 tổng công ty thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than - khoáng sản Việt
Nam.
Theo số liệu tổng hợp từ các bộ, địa phương, đến nay, cả nước còn 2.176
doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước với tổng số vốn Nhà nước gần 260 nghìn tỷ
đồng. Trong đó, 1.546 doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, 355 doanh
nghiệp quốc phòng an ninh và sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích và
295 nông, lâm trường quốc doanh.
Phương án được lựa chọn để tiếp tục thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh
nghiệp Nhà nước từ nay đến 2010 là đẩy mạnh sắp xếp, CPH các tập đoàn kinh tế,
tổng công ty Nhà nước. Theo đó, từ nay đến hết năm 2010 sẽ cổ phần hoá khoảng
1.500 doanh nghiệp (riêng các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty Nhà nước
phải hoàn thành trong năm 2008), trong đó, năm 2007 phải CPH 550 doanh nghiệp
(có khoảng 20 tổng công ty), số còn lại sẽ thực hiện trong các năm 2008- 2009,
một số công ty và số ít doanh nghiệp chưa cổ phần hoá được sẽ thực hiện trong
năm 2010.
Như vậy, đến cuối năm 2010, cả nước sẽ chỉ còn 554 doanh nghiệp 100%
vốn Nhà nước, trong đó có 26 tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn; 178 doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, sản xuất, cung ứng sản
SVTH: Nguyễn Bảo Ngọc.Lớp TM3.K32 - Trang18 -
GVHD:Th.s Lữ Lâm Uyên
Tại hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo, để cơ bản hoàn thành
xong CPH vào năm 2010, chúng ta dự kiến sẽ phải cổ phần hoá xong 79 tổng công
ty trong số 105 tổng công ty và CPH khoảng 1.500 doanh nghiệp, còn lại là các
doanh nghiệp công ích, nông, lâm trường. Theo Thủ tướng, trước mắt, trong khi
chưa thực hiện CPH được tổng công ty thì tiến hành cổ phần hóa tất cả các doanh
nghiệp thành viên trước và chuyển sang mô hình hoạt động công ty mẹ - con.
Chúng ta chưa cần CPH ngay các tổng công ty vì hiện vẫn chưa có kinh nghiệm cổ
phần hóa tổng công ty. Vì thế, Ban chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp sẽ có hướng dẫn
cụ thể đối với các tổng công ty.
Riêng những lĩnh vực mới, kể cả những lĩnh vực nhạy cảm, đòi hỏi Nhà
nước phải tham gia quản lý như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, điện lực, viễn
thông thì phải xây dựng đề án CPH cụ thể để trình Chính phủ phê duyệt.
Đối với những doanh nghiệp đã lỗ hết vốn thì buộc phải giải thể và thực
hiện chính sách lao động dôi dư hoặc bán đấu giá mặt bằng thu hồi về cho Nhà
nước. Một vấn đề quan trọng nữa là CPH phải gắn liền với vấn đề đưa ra sàn đấu
giá và niêm yết trên thị trường chứng khoán (tính đến thời điểm này, mới chỉ có
trên 60 doanh nghiệp Nhà nước được CPH đã niêm yết trên thị trường chứng
khoán)
CHƯƠNG VI: VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT CỦA NHÀ
NƯỚC
1)Vấn đề đặt ra hiện nay:
Bên cạnh những kết quả tích cực kể trên, tiến trình CPH cũng đang phải đối
mặt với những vướng mắc, đặc biệt là những vấn đề nảy sinh từ “hậu” CPH.
Hiện tại Nhà nước vẫn còn nắm tỷ lệ vốn quá cao trong tổng vốn điều lệ của
các DN đã CPH (bình quân tới 46,5%) và đóng vai trò là cổ đông lớn nhất; đồng
thời phần lớn các công ty cổ phần đang được Nhà nước giữ cổ phần chi phối (chỉ
khoảng 30% DN CPH là Nhà nước không giữ % nào). Hơn nữa tuy số DNNN đã
CPH khá lớn (khoảng trên 60%) nhưng số vốn Nhà nước được cổ phần còn nhỏ
(khoảng 9%), bởi hầu hết các DN đã CPH là các DN nhỏ và vừa, trong khi vốn
Nhà nước lại tập trung ở các DN lớn.
Điều này cho thấy Nhà nước vẫn còn đầu tư dàn trải, hơn nữa còn làm hạn
chế việc mua cổ phần tham gia đầu tư của công nhân viên trong DN và đặc biệt là
các tổ chức, cá nhân ngoài DN ở trong và ngoài nước. Trong khi đó những người
đại diện phần vốn nhà nước tại các DN CPH là những công chức nhà nước, do đó
họ cần hệ số an toàn hơn là sự mạo hiểm, mà trong kinh doanh muốn thành công
không thể không mạo hiểm. Vì vậy trình độ quản lý, điều hành DN chưa có tính
đột phá. Tình trạng cổ phần khép kín đã dẫn đến thiếu những cổ đông chiến lược từ
bên ngoài với tỷ lệ cổ phần đủ lớn để tạo ra cuộc “cách mạng” trong quản trị DN.
SVTH: Nguyễn Bảo Ngọc.Lớp TM3.K32 - Trang19 -
GVHD:Th.s Lữ Lâm Uyên
Một vướng mắc lớn khác là vấn đề đất đai và sở hữu tài sản.
Quyền sử dụng đất và các quyền nghĩa vụ đất đai có liên quan trước khi
đăng ký dưới hình thức công ty cổ phần vẫn còn thiếu rõ ràng và chưa được giải
quyết dứt điểm. Điều này khiến DN CP gặp nhiều khó khăn trong bố trí kế hoạch
sản xuất kinh doanh như xây dựng nhà xưởng, góp vốn liên doanh bằng tài sản có
trên đất mà DN đang sử dụng hay vay vốn ngân hàng...
Về tài sản, trước CPH hầu hết các dây chuyền sản xuất chính hoặc các tài
sản lớn đều do tổng công ty đứng tên sở hữu, nhưng khi CPH việc chuyển giao
đăng ký chưa dứt điểm gây ra tình trạng quyền sở hữu tài sản không rõ ràng. Do
đó, khi DN muốn triển khai mở rộng, liên doanh, hợp tác kinh doanh sẽ gặp khó
khăn.
Các DN còn cho rằng chưa có sự đối xử bình đẳng trong vấn đề tài chính đối
với DN trước và sau CPH. Sau CPH tỷ trọng vay vốn từ Ngân hàng thương mại
Nhà nước đã giảm đáng kể bởi có sự khác biệt trong điều kiện về tín dụng, thế
chấp, cầm cố tài sản và lòng tin khi cho vay của ngân hàng với DN trước và sau
CPH.
Thêm nữa là những vướng mắc về xử lý nợ tồn đọng của DN sau CPH, về tư
vấn CPH và xác định giá trị DN, về thời gian hoàn tất CPH còn quá dài (trên 400
ngày/DN), về xác định đối tượng lao động dôi dư...
Những vướng mắc kể trên một mặt làm giảm hiệu quả của CPH, mặt khác
góp phần tạo ra tâm lý e ngại CPH trong cán bộ lãnh đạo quản lý DN, làm “chùn
tay” những DN chưa CPH; do đó làm cho tốc độ CPH hiện vẫn chậm so với mục
tiêu mà Đảng, Nhà nước đã đặt ra.
Ngoài ra:
Thực trạng quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta nói
trên đang đặt ra nhiều vấn đề cả về mặt lý luận, tư duy kinh tế lẫn thực tiễn quản
lý, tổ chức hoạt động doanh nghiệp.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam có những đặc điểm khác với
tính quy luật chung ở các nước, bởi:
- Các doanh nghiệp mà Việt Nam thực hiện cổ phần hóa được hình thành trong quá
trình thực hiện công hữu hóa, tập thể hóa nền kinh tế trước đây. Điều này khác với
các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước phát triển: là kết quả của quá
trình phát triển lực lượng sản xuất đã vượt quá tầm của sở hữu tư nhân, đòi hỏi
phải mở rộng quan hệ sở hữu.
- Các doanh nghiệp mà nước ta thực hiện cổ phần hóa vốn tồn tại lâu năm trong cơ
chế bao cấp và kế hoạch của Nhà nước và mới làm quen với cơ chế thị trường,
khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước là đã tồn tại và phát
triển trong cơ chế thị trường, cạnh tranh.
- Các doanh nghiệp mà nước ta tiến hành cổ phần hóa chủ yếu được tổ chức và
hoạt động theo yêu cầu và kế hoạch của Nhà nước, khác với các doanh nghiệp thực
SVTH: Nguyễn Bảo Ngọc.Lớp TM3.K32 - Trang20 -