Đề cương tuyên truyền 40 năm thực hiện di chúc chủ tịch Hồ Chí Minh (2/9/1969-2/9/2009)
Đề cương tuyên truyền 40 năm thực hiện Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh ( 2/9/1969 – 2/9/2009) I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ, Ý NGHĨA, GIÁ TRỊ CƠ BẢN CỦA DI CHÚC. 1. Hoàn cảnh lịch sử: Tháng 5/1965, Chủ tịch
Đề cương tuyên truyền 40 năm thực hiện Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh
( 2/9/1969 – 2/9/2009)
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ, Ý NGHĨA, GIÁ TRỊ CƠ BẢN CỦA DI CHÚC.
1. Hoàn cảnh lịch sử:
Tháng 5/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu khởi thảo viết Di chúc. Lúc
bấy giờ, đất nước ta đang trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy cam go, khốc
liệt và sức khoẻ của Người đã yếu. Năm 1968, Bác viết thêm 6 trang. Tháng
5/1969, Bác viết lại đoạn mở đầu Di chúc.
Di chúc được công bố một phần trong lễ tang Bác. Thông báo số 151-TB/
TW ngày 19/8/1989 của Bộ Chính trị về một số vấn đề liên quan đến Di chúc và
ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định bản Di chúc công bố
tháng 9/1969 là “bảo đảm trung thành với bản gốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Một số vấn đề như những việc cần làm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước thắng lợi, miễn giảm thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã
nông nghiệp, cho bà con nông dân cũng như đề nghị của Người về hoả táng thi
hài chưa được công bố. Thông báo của Trung ương đã giải thích rõ lý do việc
này. Vào dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) đã quyết định công bố toàn bộ các
bản Di chúc của Người viết.
2. Ý nghĩa:
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện lịch sử vô giá kết tinh
những tinh hoa đạo đức và tâm hồn cao đẹp, những nội dung cơ bản, những
quan điểm cốt yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh, vạch ra phương hướng phát
triển cho cách mạng Việt Nam cả hôm nay và trong tương lai.
3. Những giá trị cơ bản của Di chúc:
a. Di chúc là tâm nguyện, tình cảm, ý chí, niềm tin, trách nhiệm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tổ quốc, nhân dân và sự nghiệp cách mạng.
Di chúc thể hiện sự tự nhận thức sâu sắc về bản thân của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Người đón nhận quy luật cuộc sống bằng phong thái ung dung, tự tại,
chuẩn bị việc ra đi của mình bằng những lời tâm huyết dặn lại. Tâm nguyện
của Người: “Suốt đời tôi hết lòng phụng vụ Tổ quốc, phụng vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải
hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phụng vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn
nữa”. Ý chí, niềm tin, tinh thần lạc quan cách mạng, trách nhiệm với nhân dân
của Người thể hiện sâu sắc ở dự báo về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Mỹ và ngày thống nhất đất nước, ở những chỉ dẫn về công việc của sự nghiệp
cách mạng còn dang dở. Di chúc là tâm sự của một người đã hy sinh hạnh phúc
riêng tư, hiến dâng trọn cuộc đời cho Tổ quốc và nhân dân; là tấm lòng chung
thuỷ với “các nước anh em” và “bầu bạn khắp năm châu”.
b. Di chúc là công trình lý luận về xây dựng và củng cố Đảng cầm
quyền.
- Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Đảng ta là một
Đảng cầm quyền”. Để đáp ứng được nhiệm vụ lãnh đạo xã hội, Đảng phải
luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và gắn bó máu thịt với nhân dân,
không ngừng nâng cao bản chất giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình. Di chúc
nêu những vấn đề cốt yếu của công tác xây dựng Đảng, đó là: giữ gìn mối đoàn
kết trong Đảng, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình
và phê bình, rèn luyện đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết
lòng hết sức phục vụ nhân dân của mỗi cán bộ, đảng viên. Công tác chỉnh đốn
Đảng là nhiệm vụ chiến lược, là công việc thường xuyên để giữ vững vai trò
lãnh đạo của Đảng cầm quyền.
- Sự nghiệp cách mạng là một sự nghiệp bền bỉ, dài lâu, tiếp nối từ thế
hệ này sang thế hệ khác. Đảng cầm quyền phải chăm lo phát triển lực lượng
cho hiện tại và chuẩn bị cho tương lai một thế hệ trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên”,
có như vậy mới thực hiện thành công lý tưởng xây dựng một xã hội mới, tiến
bộ, văn minh. Bác dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc
rất quan trọng và rất cần thiết”, đó là công việc: bồi dưỡng lý tưởng cộng sản,
giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức rèn luyện đạo đức cách mạng, đào tạo
nguồn nhân lực kế tục sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa.
- Cách mạng Việt Nam không thể tách rời cách mạng thế giới. Sự vững
mạnh của Đảng còn được khẳng định trong mối quan hệ đoàn kết chặt chẽ với
các đảng cộng sản và bè bạn quốc tế. Điều Bác dặn trong Di chúc “về phong
trào cộng sản thế giới” là định hướng quan trọng cho quan hệ đối ngoại của
Đảng, đó là nguyên tắc đoàn kết quốc tế dựa trên “nền tảng chủ nghĩa Mác -
Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”.
c. Di chúc là tác phẩm bàn về xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam.
- Di chúc là điểm kết tinh tư tưởng của Bác về độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, mối
quan hệ giữa công bằng và tiến bộ xã hội, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và phát triển văn hoá trong xây dựng xã hội mới, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
và sức mạnh thời đại, động lực lợi ích và chăm lo chu đáo tới cuộc sống con
người, tư tưởng trọng dân, coi dân là gốc, là chủ thể của sự nghiệp xây dựng và
đổi mới đất nước.
- Di chúc như một kế hoạch, một chương trình hành động của toàn Đảng,
toàn dân về sự nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh với những chỉ dẫn về
đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; phát triển
kinh tế và văn hoá, nâng cao đời sống nhân dân.
- Di chúc có giá trị văn hoá rất lớn. Đó là tinh thần nhân văn sâu sắc thể
hiện trong ứng xử với nhân dân, đồng chí, bè bạn. Qua lời dặn dò về việc riêng,
2
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến việc xây dựng một đời sống văn hoá
mới; một lối sống tiết kiệm, không lãng phí.
II. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM QUA 40 NĂM
THỰC HIỆN DI CHÚC:
1. Hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước, chuẩn bị điều kiện đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975 là điểm mốc quan
trọng, là bước ngoặt lịch sử đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, kết thúc 21 năm chiến đấu chống Mỹ và 30 năm chiến tranh giải
phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc từ Cách mạng tháng Tám năm 1945, chấm dứt
vĩnh viễn ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến ở nước ta,
hoàn thành cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước,
bảo vệ và phát triển những thành tựu của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã mở ra kỷ nguyên
mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ
nghĩa xã hội, thực hiện điều mong mỏi trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
2. Từng bước thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đem lại phồn vinh
cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân.
Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thực hiện Di
chúc của Bác, Đảng đã tập trung sức lực và trí tuệ lãnh đạo nhân dân ta tiến
hành sự nghiệp cách mạng đưa cả nước đi theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chọn. Mặc dù tình hình quốc tế có nhiều biến động phức tạp, vừa phải
thường xuyên đối phó với những âm mưu chống phá của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực phản động, vừa phải xây dựng cuộc sống mới từ một nền kinh tế
lạc hậu, bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, vừa phải làm nghĩa vụ quốc tế,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã kiên trì phấn đấu và đã thu được
những kết quả đáng khích lệ: khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh; xây dựng
một số cơ sở vật chất; phát triển được một số ngành kinh tế quan trọng; thiết
lập và củng cố chính quyền nhân dân trên phạm vi cả nước; phát triển sự
nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế; tiến hành thắng lợi hai cuộc chiến đấu bảo vệ
Tổ quốc ở biên giới.
Tuy vậy, trong xây dựng kinh tế, chúng ta cũng đã từng phạm những sai
lầm, khuyết điểm trong chủ trương, chính sách cũng như trong quá trình chỉ đạo
thực tiễn. Nhưng Đảng sớm nhận thức tình hình đất nước, bối cảnh quốc tế,
trên tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”,
kiên định mục tiêu, con đường Bác đã chọn, thẳng thắn phân tích những nguyên
nhân của sự vấp váp, sai lầm, tin tưởng vững chắc vào sức mạnh của nhân dân
và dân tộc, Đảng ta đã khởi xướng đường lối Đổi mới và quyết tâm tiến hành
sự nghiệp “Đổi mới” vì hạnh phúc của nhân dân.
3
Công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng và
có ý nghĩa lịch sử: về kinh tế, đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường, đời
sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện; thực hiện có kết
quả chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần; thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành; cơ cấu kinh tế ngành, vùng có sự
chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thực hiện có
hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, giữa tiến
bộ và công bằng xã hội; công tác giải quyết việc làm và xóa đói, giảm nghèo đạt
kết quả tốt; sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hoá
về loại hình trường lớp; khoa học công nghệ và tiềm lực khoa học - công nghệ
có bước phát triển nhất định; công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có tiến bộ;
những giá trị văn hoá đặc sắc của các dân tộc được kế thừa và phát triển, giao
lưu hợp tác văn hoá với nước ngoài được mở rộng, các tài năng văn hoá - nghệ
thuật được khuyến khích; chính sách phát triển nguồn nhân lực được chú trọng;
quan hệ đối ngoại phát triển mạnh mẽ, vị thế nước ta trên trường quốc tế được
nâng cao...
3. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định
con đường xã hội chủ nghĩa, kiên định sự lãnh đạo của Đảng - nhân tố
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; thực hiện công tác xây dựng
và chỉnh đốn Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà chiến lược và sách lược tài tình, nhà tổ chức
thiên tài, nhà cổ động chính trị vĩ đại, người có công rèn luyện, giáo dục bao lớp
cán bộ ưu tú của Đảng. Người đã đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể cách mạng
Việt Nam. Tại Đại hội lần thứ VII của Đảng, Đảng ta đã khẳng định cùng với
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ
nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Thực hiện Di chúc của Người, trong tình hình thế giới có nhiều diễn biến
phức tạp, yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới rất nặng nề, các
thế lực tấn công toàn diện vào Đảng, vào chế độ, Đảng ta vẫn vững vàng, thể
hiện rõ bản chất cách mạng và khoa học, kiên định về mục tiêu, lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo nhân dân ta thực hiện công cuộc đổi
mới đạt nhiều thành tựu to lớn, quan trọng, đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
Công tác xây dựng Đảng đã được đặt ra trong nhiều nghị quyết của
Đảng. Tiếp theo Cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết
Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII, Đảng ta đã phát động Cuộc vận động “Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Cuộc vận động đã góp phần tạo
nên sự chuyển biến trong thực hiện nhiệm vụ chính trị và ý thức rèn luyện, tu
dưỡng đạo đức Hồ Chí Minh của cán bộ, đảng viên từ Trung ương đến cơ sở;
góp phần khắc phục một bước tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; các cấp uỷ đã
quan tâm nhiều hơn đến việc phát hiện, ngăn chặn, xử lý tiêu cực, sai phạm;
4
tinh thần tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên có tiến bộ; việc thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí theo tấm gương của Bác Hồ đã có chuyển biến
rõ nét; tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân, ý thức trách nhiệm với công việc
được giao của cán bộ được nâng lên.
Công tác xây dựng Nhà nước đã quán triệt nguyên tắc quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân, thực hành dân chủ, phát huy tính sáng tạo của nhân
dân; tham khảo và vận dụng có chọn lọc lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà
nước pháp quyền của nhân loại vào điều kiện cụ thể Việt Nam, đảm bảo phù
hợp với dân tộc, thời đại và hoàn cảnh thực tiễn của đất nước.
Kết quả của công tác xây dựng Đảng nói riêng, xây dựng hệ thống chính
trị nói chung là nhân tố góp phần làm nên thắng lợi to lớn của cách mạng Việt
Nam và của sự nghiệp đổi mới đất nước hơn 20 năm qua.
4. Phát huy tình cảm quốc tế trong sáng, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, nâng cao vị thế đất nước trong hội nhập quốc tế.
Đảng ta do Hồ Chủ tịch sáng lập và rèn luyện, ngay từ khi ra đời đã
gương cao ngọn cờ của chủ nghĩa quốc tế vô sản, đề ra nhiệm vụ đoàn kết với
giai cấp vô sản thế giới, với các dân tộc bị áp bức, coi đó là một nguyên tắc,
một trong những nhân tố quyết định thành công của cách mạng nước ta. Bằng
những việc làm vô tư trong sáng trong việc giúp đỡ bạn bè, cùng với việc không
ngừng mở rộng quan hệ hợp tác, hữu nghị với tất cả các nước, thực hiện chính
sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, vai trò, uy tín của
nước ta ngày càng được nâng cao trong cộng đồng quốc tế.
Từ sau khi phá bỏ chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ và các lực lượng
thù địch nước ngoài, Việt Nam đã tham gia hợp tác ngày càng sâu, toàn diện vào
nền kinh tế thế giới. Trong các lĩnh vực kinh tế then chốt, như: thương mại,
dịch vụ, lao động, đầu tư, khoa học và công nghệ, chúng ta đã đạt được những
thành tựu quan trọng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), đã không ngừng mở rộng các quan hệ kinh tế song phương, tiểu
vùng, vùng, liên vùng và toàn cầu. Đến năm 2005, nước ta đã có quan hệ thương
mại với 221 nước và vùng lãnh thổ, ký 90 hiệp định thương mại song phương,
trong đó nổi bật là Hiệp định Thương mại với Mỹ, tạo điều kiện mở rộng giao
lưu hàng hoá với nước ngoài, gia nhập AFTA, APEC, WTO, thiết lập được quan
hệ tài chính với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, như: WB, IMF, ADB.
Tranh thủ ODA, thu hút FDI, mở rộng thị trường ngoài nước, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực; trở thành Uỷ viên không thường trực Hội
đồng bảo an LHQ; tham gia giải quyết những vấn đề của khu vực và thế giới;
xác định quan hệ ổn định với các nước láng giềng, nước lớn; giải quyết hoà
bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan, góp phần
giữ vững môi trường hoà bình khu vực.
III. TIẾP TỤC THỰC HIỆN DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG MỚI.
1. Công tác xây dựng Đảng:
5
1.1. Học tập phẩm chất, đạo đức, tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Phẩm chất cao quý của Bác là trung với nước, trung với Đảng, hiếu với
dân, “hết lòng phục vụ nhân dân”; kiên định lập trường cách mạng; sáng suốt
trong đường lối chiến lược, sách lược; dũng cảm trong hành động; khôn khéo
trong xử lý tình huống; khiêm tốn, giản dị trong cuộc sống hàng ngày; cần,
kiệm, liêm chính, chí, công, vô tư; thương yêu đồng chí, đồng bào hết mực.
Đạo đức cao quý của Bác là “hy sinh tất cả vì độc lập dân tộc, vì hạnh
phúc của nhân dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của
dân”. Cả cuộc đời Bác “chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho
đất nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Bác là tấm gương sáng về phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo,
học đi đôi với hành, gắn lý luận với thực tiễn; là gương sáng về tinh thần cách
mạng và khoa học; gương sáng về tinh thần học tập suốt đời; một phong cách
nói đi đôi với với làm; một thái độ kiên quyết không khoan nhượng chống chủ
nghĩa cá nhân, tham ô, lãng phí; một cách ứng xử hài hoà, thấu tình đạt lý giữa
việc chung - việc riêng, lý trí - tình cảm, lý luận - thực tiễn, quá khứ - hiện tại -
tương lai, dân tộc - giai cấp, trong nước - quốc tế, ...
1.2. Tiếp tục thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”:
Với mục tiêu tạo sự chuyển biến rõ nét hơn nữa trong công tác xây dựng
Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức, đoàn kết thống nhất, gắn bó mật thiết với nhân dân, có năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu cao, phương thức lãnh đạo khoa học, đội ngũ cán bộ,
đảng viên có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, hai năm qua,
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã
được triển khai sâu rộng trong các tổ chức của hệ thống chính trị và toàn xã hội
và đã tạo được những chuyển biến quan trọng.
Chủ đề học tập năm 2009 của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là “Nâng
cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân
dân”. Để tiếp tục thực hiện tốt Cuộc vận động này, mỗi cấp uỷ, đảng viên, các
tổ chức đảng, cơ quan nhà nước cần đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng
và nâng cao ý thức trách nhiệm phục vụ nhân dân bằng những việc làm thiết
thực, hàng ngày, tập trung giải quyết dứt điểm những khiếu nại, tố cáo chính
đáng của nhân dân; chống lãnh đạm, vô cảm, quan liêu, mệnh lệnh, hách dịch,
hành dân. Xây dựng tinh thần thương yêu, đoàn kết, hợp tác với đồng chí, đồng
đội, đồng nghiệp; đoàn kết, hợp tác; chống chia rẽ, bè phái, cục bộ, địa phương,
chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Xây dựng tinh thần cần kiệm, coi trọng chất lượng,
hiệu quả công việc; chống thói lười biếng, lãng phí, phô trương, hình thức. Xây
dựng tinh thần liêm, chính, khiêm tốn, thật thà, dũng cảm; chống tham nhũng,
dối trá, hối lộ, bê tha, trụy lạc; khắc phục tình trạng nói không đi đôi với làm,
chạy theo danh vọng, địa vị, chức quyền, sa vào chủ nghĩa cá nhân vị kỷ mà
không chú trọng rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng.
6
2. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau:
Thực hiện lời Bác dặn về việc chuẩn bị một lực lượng cho sự nghiệp
cách mạng, Đảng, Nhà nước đã có nhiều Nghị quyết, chỉ thị, chính sách về công
tác giáo dục, bồi dưỡng thanh niên. Nghị quyết Trung ương 7(khoá X) Về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đã nêu rõ mục tiêu: “Tiếp tục xây dựng
thế hệ thanh niên Việt Nam giàu lòng yêu nước, tự cường dân tộc; kiên định lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có đạo đức cách mạng, ý thức chấp
hành pháp luật, sống có văn hoá, vì cộng đồng; có năng lực, bản lĩnh trong hội
nhập quốc tế; có sức khoẻ, có tri thức, kỹ năng và tác phong công nghiệp trong
lao động tập thể, trở thành những người công dân tốt của đất nước”.
Đảng, Nhà nước, các cấp uỷ đảng, đoàn thể và cả xã hội có trách nhiệm
chăm lo, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để thanh niên đựoc rèn luyện,
cống hiến và trưởng thành; được học tập, có việc làm, nâng cao thu nhập, có
đời sống văn hoá, tinh thần lành mạnh.
3. Nâng cao đời sống của nhân dân:
Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực trong chỉ đạo, điều hành đất nước,
đưa nền kinh tế vượt qua những thời điểm khó khăn, quan tâm toàn diện các
mặt đời sống của nhân dân, có những chính sách hỗ trợ kịp thời cho các đối
tượng. Các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ về chiến lược phát
triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, cải thiện
và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội đang được triển khai mạnh mẽ đòi hỏi sự đồng thuận, tích
cực tham gia của nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân Việt Nam
cần nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước trước tình hình mới để phấn đấu mục tiêu Bác dặn trong Di chúc: “xây
dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh”.
4. Đoàn kết quốc tế:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại “độc lập tự chủ, hoà bình, hợp
tác và phát triển”, chính sách “đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá
các quan hệ quốc tế”, “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế” Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng xây dựng và phát triển
các quan hệ quốc tế trong giai đoạn mới, coi đó là những điều kiện hết sức quan
trọng quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nước ta đang chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động
phức tạp, khó lường, các quan hệ chính trị - kinh tế đan xen, mỗi cấp uỷ, đảng
viên và mỗi người dân cần nắm chắc quan điểm của Đảng để tỉnh táo, khôn
khéo, nắm được cơ hội tốt trong quan hệ đối ngoại, trong hợp tác để phát triển
đất nước, nêu cao tinh thần quốc tế vô sản, đảm bảo nguyên tắc về an ninh
quốc phòng, chủ quyền biên giới quốc gia./.
Ban Tuyên giáo Trung ương
7
8