Đề án " Thực trạng và giải pháp cơ bản để phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại ở việt nam từ nay đến 2020 "
Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế đòi hỏi toàn đảng, toàn dân ta phải phát huy cao độ tinh thần cách mạng tiến công, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, đưa đất nước tiến
nhanh và vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Thực trạng và giải pháp cơ bản để
phát triển và nâng cao hiệu quả kinh
tế đối ngoại ở việt nam từ nay đến 2020
Đề án môn học SV: Ngô ánh Ngọc
ĐỀ TÀI : " Thực trạng và giải pháp cơ bản để phát triển và nâng
cao hiệu quả kinh tế đối ngoại ở việt nam từ nay đến 2020 ".
Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế đòi hỏi toàn đảng, toàn dân ta
phải phát huy cao độ tinh thần cách mạng tiến công, tiếp tục đẩy mạnh công
cuộc đổi mới, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, đưa đất nước tiến
nhanh và vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Không làm được như
vậy, chúng ta sẽ tụt hậu xa hơn về trình độ phát triển kinh tế so với các nước
xung quanh, ảnh hưởng trực tiếp tới niềm tin của nhân dân, sự ổn định chính
trị xã hội và an ninh quốc gia.
Trong nền kinh tế toàn cầu hoá hiện nay mở cửa kinh tế là cần thiết đối
với tất cả các quốc gia, đó là xu thế tất yếu của thời đại, là vấn đề có tính chất
quy luật trong thời đại ngày nay. Hội nhập vào nền kinh tế thế giới để phát
triển nền kinh tế Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát
triển kinh tế của Việt Nam hiện nay. Việt Nam đang trong quá trình thực hiện
công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phát huy nội lực để phát triển kinh tế đất nước
cho nên vấn đề mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, hội nhập knh tế quốc tế
càng đặt ra gay gắt. Đây còn là một xu hướng vận động khách quan của các
nền kinh tế của các nuớc trên thế giới trong nền kinh tế toàn cầu hoá và khu
vực hoá.
Trong xu thế toàn cầu hoá, quan hệ kinh tế đối ngoại càng phát triển
rộng rãi và có hiệu quả bao nhiêu thì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước càng được tiến hành thuận lợi và thành công nhanh chóng bấy
nhiêu.Tuy nhiên vấn đề quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế ẩn chứa rất nhiều
phức tạp cho nên cần nhận thức đầy đủ về những cơ hội và thách thức trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng như vai trò và tầm quan trọng của nó
trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước là điều có ý nghĩa quan trọng, là
cơ sở chỉ đạo, định hướng cho các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó
tìm ra các giải pháp hữu hiệu để thúc đẩy quá trình hội nhập có hiệu quả nền
Đề án môn học SV: Ngô ánh Ngọc
kinh tế Việt Nam vào khu vực và nền kinh tế thế giới. Thực hiện mục tiêu
chiến lược của đất nước ta mà Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
đã đề ra đó là : " Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao
đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm
lực kinh tế quốc phòng an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta
trên trường quốc tế được nâng cao".
Vấn đề mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, hội nhập kinh tế vào nền
kinh tế chung của thế giới là điều kiện tiên quyết, bắt buộc nếu như muốn nền
kinh tế đất nước phát triển nhanh chóng, theo kịp trình độ phát triển của thế
giới. Nhưng vấn đề này còn tiềm ẩn nhiều khó khăn và thách thức, nhất là đối
với những nước kém phát triển hay đang phát triển, mới bắt đầu bước vào hội
nhập kinh tế thế giới, đặc biệt là nước ta.
Vì vậy qua việc tham khảo tài liệu cùng với những kiến thức đã được
học trong nhà trường, em đã lựa chọn đề tài "Thực trạng và giải pháp cơ
bản để phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại ở Việt Nam từ
nay đến 2020". Một mặt, để nghiên cứu thêm thực trạng của nền kinh tế
nước ta sau khi bước vào tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, qua đó tìm hiểu
những thành tựu và những khó khăn thách thức của nền kinh tế nước ta. Mặt
khác, đưa ra các giải pháp của Đảng và nhà nước ta để có thể nâng cao được
hiệu quả kinh tế đối ngoại của nước ta từ nay đến năm 2020.
Nội dung của bài viết được trình bày trong hai phần chính :
Phần 1: Một số vấn đề cơ bản về lý luận.
Phần 2: Thực trạng và giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại ở
Việt Nam từ nay đến năm 2020.
1
Đề án môn học SV: Ngô ánh Ngọc
NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN.
1. Các khái niệm viết về kinh tế đối ngoại, kinh tế quốc tế, toàn cầu
hoá, hội nhập kinh tế.
Kinh tế đối ngoại của một quốc gia là một bộ phận của kinh tế quốc tế,
là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của một quốc
gia nhất địnhvới các quốc gia khác còn lại hoặc với các tổ chức kinh tế quốc
tế khác, được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và phát triển trên cơ
sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế.
Mặc dù kinh tế đối ngoại và kinh tế quốc tế là hai khái niệm có mối
quan hệ với nhau, song không nên đồng nhất chúng với nhau. Kinh tế đối
ngoại là quan hệ kinh tế mà chủ thể của nó là một quốc gia với bên ngoài -
với nước khác hoặc với tổ chức kinh tế quốc tế khác. Còn kinh tế quốc tế là
mối quan hệ kinh tế với nhau giữa hai hoặc nhiều nước, là tổng thể quan hệ
kinh tế của cộng đồng quốc tế.
Hiện nay, có rất nhiều tài liệu viết về hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy,
một cách chung nhất chung nhất, có thể xác định hội nhập kinh tế quốc tế là
việc các nước đi tìm kiếm một số điều kiện nào đó mà họ có thể thống nhất
được với nhau, kể cả dành cho nhau những ưu đãi, tạo ra những điều kiện
công bằng, có đi có lại trong quan hệ hợp tác với nhau nhằm khai thác khả
năng lẫn nhau, phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của mình.
Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm
hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính
tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Quan hệ song phương, đa phương
giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong kinh tế, văn hoá và bảo vệ môi
2
Đề án môn học SV: Ngô ánh Ngọc
trường, phòng chống tội phạm, thiên tai và các đại dịch... Các công ty xuyên
quốc gia tiếp tục cấu trúc lại, hình thành những tập đoàn khổng lồ chi phối
nhiều lĩnh vực kinh tế. Sự cách biệt giàu nghèo giữa các quốc gia ngày càng
tăng.
Toàn cầu hoá nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình
vừa hợp tác để phát triển, vừa đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của
các nước đang phát triển bảo vệ lợi ích của mình, vì một trật tự kinh tế quốc tế
cân bằng, chống lại những áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế, các công
ty xuyên quốc gia.
2. Nước ta phải mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối
ngoại là tất yếu.
2.1. Xu thế phát triển kinh tế của thế giới.
Hiện nay khoa học và công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin và
công nghệ sinh học, tiếp tục có những bước nhảy vọt, ngày càng trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức, làm chuyển
dịch nhanh cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Tri thức và sở hữu trí tuệ có vai trò ngày càng quan trọng. Trình độ làm
chủ thông tin tri thức có ý nghĩa quyết định sự phát triển. Chu trình luân
chuyển vốn, đổi mới công nghệ và sản phẩm ngày càng được rút ngắn; các
điều kiện kinh doanh trên thị trường thế giới luôn thay đổi đòi hỏi các quốc
gia cũng như doanh nghiệp phải rất nhanh nhạy nắm bắt thích nghi.
Tác động của cách mạng khoa học công nghệ với cường độ mạnh hơn
và trình độ cao hơn làm thay đổi cơ cấu các ngành sản xuất và dịch vụ mạnh
mẽ hơn, sâu sắc hơn, lực lượng sản xuất cũng phát triển ở trình độ cao hơn,
các ngành kinh tế trở nên mềm hoá, khu vực phi hình thức được mở rộng
"kinh tế tượng trưng" có quy mô lớn hơn nền "kinh tế thực" nhiều lần. Cơ cấu
lao động theo ngành nghề có sự thay đổi sâu sắc, xuất hiện nhiều ngành nghề
mới với sự đan kết của nhiều lĩnh vực khoa học công nghệ, của sự phân công
3
Đề án môn học SV: Ngô ánh Ngọc
lao động quốc tế, vai trò và tầm hoạt động mới của Công ty đa quốc gia và
xuyên quốc gia, quá trình hợp tác hoá và quốc tế hoá nền kinh tế thế giới ngày
càng phát triển mạnh mẽ cả chiều rộng và chiều sâu trên cấp độ toàn cầu hoá
và khu vực hoá, đưa nền kinh tế thế giới vào cạnh tranh toàn cầu bên cạnh
việc đẩy mạnh tìm kiếm sự hợp tác trong cạnh tranh. Như vậy hoà bình, hợp
tác hội nhập kinh tế quốc tế vì sự phát triển kinh tế ngày càng trở thành một
đòi hỏi bức xúc của nhiều quốc gia nhằm tập trung nỗ lực và ưu tiên cho phát
triển kinh tế. Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế này.
Xuất phát từ những xu hướng, yêu cầu đòi hỏi nói trên thì hội nhập
kinh tế quốc tế là một nhân tố vô cùng quan trọng của quá trình đổi mới kinh
tế ở Việt Nam. Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một yếu tố không thể
thiếu trong chiến lược hướng ngoại để tăng trưởng và phát triển bền vững,
chúng ta sẽ có cơ hội thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực cũng
như trên thế giới, cải thiện vị thế của mình; đồng thời đứng trước nguy cơ tụt
hậu xa hơn nếu không tranh thủ được cơ hội, khắc phục yếu kém để vươn lên,
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chính vì vậy việc chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là cần thiết để phát triển kinh tế,
là đòi hỏi mang tính khách quan tất yếu.
2.2. Vai trò và tác dụng của kinh tế đối ngoại.
Có thể khái quát vai trò to lớn của kinh tế đối ngoại qua các mặt sau
đây:
- Góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và
trao đổi quốc tế; nối liền thị trường trong nước và thị trường thế giới và khu
vực.
- Hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút vốn đầu tư trực tiếp
(FDI) và vốn viện trợ chính thức từ các chính phủ và tổ chức tiền tệ quốc tế
(ODA); thu hút khoa học, kỹ thuật, công nghệ khai thác và ứng dụng những
kinh nghiệm xây dựng và quản lý nền kinh tế hiện đại vào nước ta.
4
Đề án môn học SV: Ngô ánh Ngọc
- Góp phần tích luỹ vốn thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước đưa đất nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu lên nước
công nghiệp tiên tiến hiện đại.
- Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc
làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập, ổn định và cải thiện đời sống nhân
dân theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Những vai trò to lớn của kinh tế đối ngoại chỉ đạt được khi hoạt động
kinh tế đối ngoại vượt qua được những thách thức của toàn cầu hoá và giữ
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.3. Mục tiêu của kinh tế đối ngoại.
Đối với nước ta, việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải nhằm ừng
bước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và
văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian trước mắt việc
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước - nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ.
Mục tiêu đó phải được quán triệt tới mọi ngành, mọi cấp trong hoạt động kinh
tế đối ngoại cũng như phải được quán triệt trong mọi lĩnh vực của kinh tế đối
ngoại.
3. Nguyên tắc cơ bản cần quán triệt trong việc mở rộng và nâng
cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
a) Bình đẳng
Đây là nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng làm nền tảng cho việc thiết
lập và lựa chọn đối tác trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước.
Nguyên tắc bình đẳng này xuất phát từ yêu cầu phải coi mỗi quốc gia
trong cộng đồng quốc tế là một quốc gia độc lập có chủ quyền. Nó cũng bắt
nguồn từ yêu cầu của sự hình thành và phát triển của thị trường quốc tế mà
mỗi quốc gia là thành viên. Với tư cách là thành viên, mỗi quốc gia phải được
đảm bảo có quyền tự do kinh doanh, quyền tự chủ như mọi quốc gia khác.
5
Đề án môn học SV: Ngô ánh Ngọc
Nói cách khác, đảm bảo tư cách pháp nhân của mỗi quốc gia trước luật pháp
quốc tế và cộng đồng quốc tế. Kiên trì đấu tranh để thực hiện nguyên tắc này
là nhiệm vụ chung của mọi quốc gia, nhất là các nước đang phát triển khi thực
hiện mở cửa và hội nhập ở thế bất lợi so với các nước phát triển.
b) Cùng có lợi
Nếu nguyên tắc thứ nhất giữ vai trò chung cho việc hình thành và phát
triển quan hệ đối ngoại, thì nguyên tắc này lại giữ vai trò là nền tảng kinh tế
để thiết lập và mở rộng quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau.
Cơ sở khách quan của nguyên tắc cùng có lợi bắt nguồn từ yêu cầu phải
thực hiện đúng các quy luật kinh tế của thị trường diễn ra trên phạm vi quốc
tế mà mỗi nước có lợi ích kinh tế dân tộc khác nhau. Cùng có lợi kinh tế là
một trong những nguyên tắc làm cơ sở cho chính sách kinh tế đối ngoại và
luật đầu tư nước ngoài, nguyên tắc này được cụ thể hoá thành những điều
khoản làm cơ sở để ký kết trong các nghị định thư giữa các chính phủ và
trong các hợp đồng kinh tế giữa các tổ chức kinh tế các nước với nhau.
c) Tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội
bộ của mỗi quốc gia.
Nguyên tắc này đòi hỏi mỗi bên trong hai bên hoặc nhiều bên phải thực
hiện đúng các yêu cầu :
- Tôn trọng các điều khoản đã được ký kết trong các nghị định giữa
các chính phủ và trong các hợp đồng kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với
nhau.
- Không được đưa ra những điều kiện làm tổn hại đến lợi ích của
nhau.
- Không được dùng các thủ đoạn có tính chất can thiệp vào công việc
nội bộ của quốc gia có quan hệ, nhất là dùng thủ đoạn kinh tế, kỹ thuật và
kích động để can thiệp vào đường lối thể chế chính trị của các quốc gia đó.
6
Đề án môn học SV: Ngô ánh Ngọc
d) Giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc và củng cố định hướng xã hội
chủ nghĩa đã chọn.
Đây là nguyên tắc vừa mang tính chất chung cho tất cả các nước khi
thiết lập và thực hiện quan hệ đối ngoại, vừa là nguyên tắc có tính đặc thù đối
với các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta. Trong quan hệ kinh tế
quốc tế giữa các nước với nhau không đơn thuần phải xử lý tốt mối quan hệ
về lợi ích kinh tế, mà còn phải xử lý tốt mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi
ích chính trị. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là để tạo ra sự tăng trưởng
kinh tế cao và bền vững. Nhưng tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với việc thực
hiện từng bước những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Do vậy mở rộng quan
hệ kinh tế đối ngoại phải chủ động đảm bảo sao cho vừa khai thác được nhiều
nguồn lực bên ngoài, vừa phát huy được nguồn lực bên trong bảo đảm phát
triển kinh tế, trả được nợ, phụ thuộc nhưng không lệ thuộc vào nước ngoài và
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Bốn nguyên tắc nói trên có quan hệ mật thiết với nhau và đều có tác
dụng chi phối hoạt động kinh tế đối ngoại giữa các nước trong đó có nước ta.
Vì vậy, không được xem nhẹ nguyên tắc nào khi thiết lập duy trì và mở rộng
kinh tế đối ngoại.
4. Những hình thức chủ yếu của kinh tế đối ngoại.
a) Ngoại thương.
Ngoại thương hay còn gọi là thương mại quốc tế, là sự trao đổi hàng
hoá, dịch vụ (hàng hoá hữu hình hoặc vô hình) giữa các quốc gia thông qua
xuất nhập khẩu.
Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, ngoại thương giữ vị trí trung
tâm và có tác dụng to lớn: góp phần làm tăng sức mạnh tổng hợp, tăng tích
luỹ của mỗi nước nhờ sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh giữa các quốc gia
trong trao đổi quốc tế; là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; "điều tiết
thừa thiếu" trong mỗi nước; nâng cao trình độ công nghệ và cơ cấu ngành
7
Đề án môn học SV: Ngô ánh Ngọc
nghề trong nước; tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống của người lao
động nhất là trong các ngành xuất khẩu.
Nội dung của ngoại thương bao gồm: xuất khẩu và nhập khẩu hàng
hoá, thuê nước ngoài gia công tái xuất khẩu, trong đó xuất khẩu là hướng ưu
tiên và là trọng điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại ở các nước nói chung và
ở nước ta nói riêng.
b) Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất.
Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất bao gồm gia công, xây dựng xí nghiệp
chung, chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất quốc tế...
- Nhận gia công.
Nhận gia công cho nước ngoài là một hình thức rất tốt, giúp tận dụng
nguồn dự trữ lao động, tạo nhiều việc làm và tận dụng công suất máy móc
hiện có. Rất nhiều nước trên thế giới chăm lo đẩy mạnh hình thức này, kể cả
những nước và lãnh thổ "công nghiệp mới" như Hàn Quốc, Đài Loan... Đối
với nước ta, trong những năm trước mắt, tăng cường việc nhận gia công là
một phương hướng đúng đắn, có ý nghĩa chiến lược để mở rộng quan hệ kinh
tế với nước ngoài, ổn định tình hình kinh tế - xã hội trong nước.
Các ngành có hàm lượng lao động cao cũng thích hợp với nước ta bởi
vì chúng đòi hỏi ít vốn đầu tư, việc đào tạo công nhân cũng nhanh hơn việc
đầu tư công nhân cho các ngành có hàm lượng khoa học cao. Cần thấy rằng,
muốn mở rộng việc nhận gia công cho nước ngoài phải chọn những gì thế
giới cần chứ không thể chọn những gì mà chủ quan ta mong muốn.
- Một hình thức phổ biến khác là xây dựng những xí nghiệp chung
với sự hùn vốn và công nghệ từ nước ngoài.
Xí nghiệp chung hay hỗn hợp là kiểu tổ chức xí nghiệp, thương
nghiệp, dịch vụ và tổ chức tài chính - tín dụng... Hiện nay, những xí nghiệp
loại này đang tồn tại một cách phổ biến ở nhiều nước. Về mặt pháp lý, xí
nghiệp chung thường được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần với trách
8
Đề án môn học SV: Ngô ánh Ngọc
nhiệm hữu hạn tương ứng với số vốn đóng góp của các thành viên. Các xí
nghiệp này thường được ưu tiên xây dựng ở những ngành kinh tế quốc dân
hướng vào xuất khẩu hay thay thế hàng nhập khẩu và trở thành nguồn thu
ngoại tệ chuyển đổi hay tạo điều kiện cho nhà nước tiết kiệm ngoại tệ. Ở nước
ta hiện nay, hình thức này đóng vai trò rất quan trọng.
- Hợp tác sản xuất quốc tế trên cơ sở chuyên môn hoá.
Hợp tác sản xuất quốc tế có thể diễn ra một cách tự giác theo những
hiệp định hay hợp đồng giữa các bên tham gia, cũng có thể hình thành một
cách tự phát do kết quả cạnh tranh, do đầu tư và lập các chi nhánh của các
công ty xuyên quốc gia tại các nước.
Chuyên môn hoá bao gồm chuyên môn hoá những ngành khác nhau
và chuyên môn hoá trong cùng một ngành (chuyên môn hoá theo sản phẩm,
theo bộ phận sản phẩm hay chi tiết và theo công nghệ), hình thức hợp tác này
làm cho cơ cấu kinh tế ngành của các nước tham gia đan kết vào nhau, phụ
thuộc lẫn nhau.
c) Hợp tác khoa học - kỹ thuật.
Hợp tác khoa học kỹ thuật được thực hiện dưới nhiều hình thức như
trao đổi những tài liệu - kỹ thuật và thiết kế, mua bán giấy phép, trao đổi kinh
nghiệm, chuyển giao công nghệ, phối hợp nghiên cứu khoa học kỹ thuật, hợp
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công nhân.
Đối với những nước lạc hậu về kỹ thuật, vốn chi cho nghiên cứu khoa
học kỹ thuật còn ít, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật chưa nhiều, phương tiện
vật chất còn thiếu thốn như nước ta thì việc tham gia hợp tác khoa học kỹ
thuật với nước ngoài là vô cùng quan trọng. Đó là một điều kiện thiết yếu để
rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến.
d) Đầu tư quốc tế.
Đầu tư quốc tế (trước đây Lênin gọi là xuất khẩu tư bản) là một hình
thức cơ bản của quan hệ kinh tế đối ngoại. Nó là quá trình trong đó hai hay
9
Đề án môn học SV: Ngô ánh Ngọc
nhiều bên (có quốc tịch khác nhau) cùng góp vốn để xây dựng và triển khai
một dự án đầu tư quốc tế nhằm mục đích sinh lợi.
Đầu tư quốc tế có tính chất hai mặt đối với các nước nhận đầu tư. Nó
làm tăng thêm nguồn vốn, tăng công nghệ mới, nâng cao trình độ quản lý tiên
tiến, tạo thêm việc làm, đào tạo tay nghề, khai thác tài nguyên, chuyển đổi cơ
cấu kinh tế theo hướng hiện đại, tiếp cận kinh tế thị trường hiện đại trên thế
giới. Mặt khác, đầu tư quốc tế cũng có khả năng làm tăng sự phân hoá giữa
các giai tầng trong xã hội, giữa các vùng lãnh thổ, làm cạn kiệt tài nguyên,
làm ô nhiễm môi trường sinh thái, tăng tính lệ thuộc vào bên ngoài. Những
điều bất lợi trên đây cần được tính toán và cân nhắc kỹ trong quá trình xây
dựng, thẩm định ký kết và triển khai dự án được ký kết trong thực tế.
Có hai loại đầu tư quốc tế là: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
- Đầu tư trực tiếp (Trước đây Lênin gọi là xuất khẩu tư bản hoạt động)
là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu và quyền sử dụng quản lý vốn của người
đầu tư thống nhất với nhau, tức là người có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào
việc tổ chức quản lý và điều hành dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả,
rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp chủ yếu
là của doanh nghiệp và tư nhân.
- Đầu tư gián tiếp (Lênin gọi là xuất khẩu tư bản cho vay) là loại hình
đầu tư mà quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn đầu tư, tức là người có
vốn không trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, điều hành dự án mà thu lợi
dưới hình thức lợi tức cho vay (nếu là vốn cho vay) hoặc lợi tức cổ phần (nếu
là vốn cổ phần), hoặc có thể không thu lợi trực tiếp (nếu cho vay ưu đãi).
Nguồn vốn đầu tư gián tiếp rất đa dạng về chủ thể và hình thức.
- Chính sách thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.
Cùng với chính sách ngoại thương, chính sách thu hút vốn đầu tư
quốc tế là một hình thức quan hệ kinh tế đối ngoại có tầm quan trọng chiến
10
Đề án môn học SV: Ngô ánh Ngọc
lược. Sau những năm đổi mới, việc thực hiện chính sách này ở nước ta đã
mang lại những thành tựu nhất định.
e) Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ, du lịch quốc tế.
Các dịch vụ thu ngoại tệ là một bộ phận quan trọng của kinh tế đối
ngoại. Xu thế hiện nay là tỷ trọng các hoạt động dịch vụ tăng lên so với các
hàng hoá khác trên thị trường thế giới. Với Việt Nam việc đẩy mạnh hoạt
động dịch vụ thu ngoại tệ là giải pháp cần thiết, thiết thực để phát huy lợi thế
của đất nước.
Các hình thức thu ngoại tệ chủ yếu:
- Du lịch quốc tế.
Kinh tế càng phát triển, năng suất lao động càng cao thì nhu cầu du lịch
- nhất là du lịch quốc tế càng tăng vì thu nhập của con người tăng lên, thời
gian nhàn rỗi, nghỉ ngơi cũng nhiều hơn. Do đó ngành kinh tế du lịch nảy sinh
trên cơ sở nhu cầu khách quan, đó là sản phẩm và là một bộ phận trong hệ
thống phân công lao động xã hội. Phát triển ngành du lịch quốc tế sẽ phát huy
lợi thế của Việt Nam về cảnh quan thiên nhiên, về nhiều loại lao động đặc thù
mang tính dân tộc, truyền thống của Việt Nam.
- Vận tải quốc tế.
Vận tải quốc tế là hình thức chuyên chở hàng hoá và hành khách giữa
hai nước hoặc nhiều nước. Sự phát triển của vận tải quốc tế có tác dụng tăng
nguồn thu ngoại tệ thông qua vận tải và tiết kiệm chi ngoại tệ do phải thuê
vận chuyển khi nhập khẩu hàng hoá.
Vận tải quốc tế sử dụng các phương thức như: đường biển, đường sắt,
đường bộ, đường hàng không... trong các phương thức đó, vận tải đường biển
có vai trò quan trọng nhất.Việt Nam có vị trí địa lý quan trọng, lại có nhiều
hải cảng thuận tiện cho vận tải đường biển nên có thể phát huy thế mạnh của
mình thông qua việc đẩy mạnh vận tải quốc tế.
- Xuất khẩu lao động ra nước ngoài và tại chỗ.
11
Đề án môn học SV: Ngô ánh Ngọc
Việt Nam với số dân gần 80 triệu người, kinh tế chưa phát triển, là một
nước có thương mại lao động lớn. Việc xuất khẩu lao động mang lại nhiều lợi
ích trước mắt và lâu dài đó là: Thu được lượng ngoại tệ đáng kể cho người
trực tiếp lao động và cho ngân sách nhà nước; người lao động được rèn luyện
tay nghề và thói quen hoạt động công nghiệp ở các nước có nền kinh tế phát
triển. Khi hết hạn hợp đồng về nước, sẽ trở thành lực lượng lao động có chất
lượng; giải quyết việc làm, giảm được tỷ lệ thất nghiệp.
- Các hoạt động thu ngoại tệ khác.
Ngoài những hoạt động nêu trên, lĩnh vực kinh tế đối ngoại còn có
nhiều hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác như dịch vụ thu bảo hiểm, dịch vụ
thông tin bưu điện, dịch vụ kiểu hối, dịch vụ ăn uống, dịch vụ tư vấn...
Nhìn chung các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ ở nước ta mới đang ở
giai đoạn hình thành và phát triển bước đầu. Những hoạt động này có triển
vọng to lớn. Tuy nhiên muốn đưa các hoạt động này thành một lĩnh vực quan
trọng của nền kinh tế, cần phải có cách nhìn đúng đắn về vai trò của chúng,
cần đầu tư thoả đáng và có các chính sách thích hợp tích luỹ ngoại tệ, tăng thu
cho ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống của nhân
dân...
II. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
KINH TẾ ĐỐI NGOẠI Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN TỪ NAY
ĐẾN NĂM 2020.
1. Thực trạng và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta.
Nhận thức rõ sự cần thiết, tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế và xuất
phát từ mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế là phát triển kinh tế đẩy nhanh sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngay từ trước những năm 1980, Đảng
và nhà nước ta đã chủ trương tích cực tham gia hội nhập khu vực và thế giới.
Đại hội Đảng lần thứ VII 1992 và lần thứ VIII năm (1996) tiếp tục phát
triển đường lối đối ngoại, độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá các
12
Đề án môn học SV: Ngô ánh Ngọc
quan hệ theo tinh thần "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong
cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển".
Đến Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) đã khẳng định rõ chủ trương "phát
huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững". Thực hiện
đường lối chủ trương của Đảng trong những năm qua, nước ta đã từng bước
hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại:
Ngày 28/7/1995, Việt Nam gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN), đã đánh dấu một bước đột phá trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Ngay khi trở thành thành viên chính thức của ASEAN, Chính phủ đã
ban hành Nghị quyết về chương trình giảm thuế nhập khẩu của Việt Nam để
thực hiện Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của ASEAN
và Việt Nam đã ký nghị định thư cam kết thực hiện CEPT nhằm xây dựng
khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), theo Nghị định này Việt Nam cam
kết sẽ cắt giảm thuế quan nhập khẩu hàng hoá trong nội bộ ASEAN xuống
còn từ 0% - 5% trong vòng 10 năm kể từ 1996 - 2006, đồng thời dỡ bỏ hàng
rào phí thuế quan. Việc cắt giảm thuế quan của Việt Nam được ASEAN đánh
giá cao và thể hiện quyết tâm của ta trong việc đẩy nhanh tiến trình hoàn
thành AFTA.
Hội nhập vào diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
(APEC): Tháng 11/1998 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của
APEC. Việt Nam đã cam kết thực hiện 14 /15 lĩnh vực chủ yếu nhất theo quy
định cuả APEC với 3 nội dung chính: Cập nhật những thay đổi về tình hình
và cơ chế quản lý hiện tại đối với 14/15 lĩnh vực cam kết; tổng kết thực hiện
những cam kết ngắn hạn mà Việt Nam đã làm; đưa ra những hoạt động bổ
sung về các nội dung có liên quan đến mục tiêu tự do hoá Thương mại và đầu
tư trong APEC.
13
Đề án môn học SV: Ngô ánh Ngọc
Quá trình hội nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO): Tháng 6 /1994
Việt Nam được công nhận là quan sát viên của Hiệp định chung về thuế quan
về Thương mại GATT. Ngày 4/11/1995 chúng ta nộp đơn xin gia nhập WTO,
chúng ta đã đang và sẽ chuẩn bị điều kiện nhằm đáp ứng các yêu cầu của
WTO để sớm gia nhập tổ chức này trong thời gian tới như: Nộp cho WTO
bản bị vong lục về chế độ ngoại thương của Việt Nam theo hướng mẫu quy
định của tổ chức này, thành lập Đoàn đàm phán Chính phủ về việc gia nhập
WTO, trả lời được 1216 (Tính đến hết 2000 ) trong số 1376 câu hỏi của
WTO đặt ra cho Việt Nam; xây dựng một số tài liệu như bảng hiện trạng về
hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu đối với hàng nông sản, bảng hiện trạng
về doanh nghiệp Thương mại nhà nước.
1.1. Những thành tựu quan trọng.
Trong những năm qua, Việt Nam đã từng bước đẩy mạnh quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, đạt được nhiều thành tựu quan trọng:
- Mở rộng mạnh mẽ quan hệ kinh tế song phương và đa phương; phát
triển quan hệ đầu tư với gần 70 nước và lãnh thổ; bình thường hóa quan hệ
với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như IMF - quỹ tiền tệ quốc tế, ADB -
Ngân hàng phát triển Châu Á, gia nhập ASEAN; APEC, trở thành quan sát
viên của WTO, ký hiệp định khung về hợp tác kinh tế với liên minh Châu Âu
(EU) và hiệp định Thương mại song phương với hoa kỳ.
- Hội nhập kinh tế đã mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của Việt
Nam quan hệ bạn hàng được mở rộng. Tính trong phạm vi khu vực mậu dịch
tự do ASEAN (AFTA) kim ngạch xuất khẩu của ta sang các nước thành viên
cũng đã tăng lên đáng kể. Xuất khẩu sang ASEAN của ta năm 1990 đạt 38,6
triệu USD và 1777,5 triệu USD và năm 1998 đạt được 2349 triệu USD. Kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thành viên của ASEAN; APEC;
ASEM đều tăng đáng kể. Đến nay, ta đã mở rộng quan hệ thương mại với trên
150 nước và lãnh thổ trên thế giới.
14
Đề án môn học SV: Ngô ánh Ngọc
- Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước
ngoài (FDI), viện trợ phát triển chính thức (ODA), hiện nay có trên 70 nước
và lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam trong đó có nhiều công ty và tập
đoàn lớn có công nghệ tiên tiến. Điều này góp phần làm dịch chuyển cơ cấu
trong nước theo hướng công nghiệp, phát triển lực lượng sản xuất và tạo thêm
công ăn việc làm. Vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn 1991 - 1995 chiếm
25,7% và từ 1995 đến nay chiếm 30% trong vốn đầu tư xã hội. Kim ngạch
xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh. Nếu
như năm 1991 đạt 52 triệu USD thì 1996 đạt 786 triệu 1997 đạt 1790 triệu,
1999 đạt 2200 triệu USD.
- Về viện trợ phát triển ODA: Tiến hành bình thường hoá quan hệ tài
chính của Việt Nam với các nước tài trợ và các thể chế tài chính tiền tệ quốc
tế đựơc tháo gỡ từ năm 1992 đã đem lại những kết quả đáng khích lệ góp
phần quan trọng vào việc xây dựng và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng. Đến
trước năm 1999, tổng số vốn viện trợ phát triển cam kết đã đạt 13,4 tỷ USD,
trong đó vốn đã ký kết trong các hiệp định là 8,8 tỷ USD và tỷ lệ giải ngân đạt
khoảng 60%. Tại hội nghị các nhà tài trợ nước ngoài tháng 12/1999, mức vốn
viện trợ phát triển cam kết đạt hơn 2,1 tỷ USD.
- Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải quyết vấn đề nợ của
Việt Nam trong những năm qua nhờ sự phát triển tốt các mối quan hệ đối
ngoại song phương và đa phương. Các khoản nợ nước ngoài cũ của Việt Nam
đã được giải quyết thông qua các câu lạc bộ Pari, London và đàm phán song
phương. Điều đó góp phần ổn định cán cân thu chi ngân sách, tập trung nguồn
lực cho sự phát triển kinh tế xã hội trong nước.
- Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật nhất là công nghệ và thông tin
phát triển mạnh làm thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới và đã tạo điều kiện cho
Việt Nam tiếp thu những thành tựu mới này. Sự xuất hiện và đi vào hoạt động
của nhiều khu công nghiệp mới và hiện đại như Hà Nội, Tp HCM, Đồng Nai,
15
Đề án môn học SV: Ngô ánh Ngọc
Bình Dương, Hải Phòng... và những liên doanh trong ngành dầu khí đã chứng
minh điều đó.
- Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần không nhỏ vào công tác đào
tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn các cán bộ
khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý, cán bộ kinh doanh đã được đào tạo cả
trong và ngoài nước, chỉ tính trong công trình đầu tư nước ngoài đã có khoảng
30 vạn lao động trực tiếp, 6000 cán bộ quản lý và 25.000 cán bộ khoa học kỹ
thuật đã được đào tạo. Trong lĩnh vực xuất khẩu tính đến1999, Việt Nam đã
đưa trên 7 vạn người đi lao động ở nước ngoài.
Thành tựu lớn nhất sau hơn một thập niên triển khai các hoạt động hội
nhập kinh tế quốc tế là đã góp phần duy trì hoà bình ổn định, tạo dựng môi
trường thuận lợi để phát triển kinh tế nâng cao vị thế Việt Nam trên trường
quốc tế. Ban đầu Việt Nam chỉ có quan hệ chủ yếu với Liên Xô cũ và các
nước Đông Âu, nay chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 166 quốc gia
trên thế giới; xây dựng môi trường quốc tế hoà bình ổn định tạo thuận lợi cho
xây dựng và phát triển đất nước.
1.2. Những thách thức khó khăn trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại ở Việt Nam.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế cơ hội luôn đi đôi với thách
thức và khó khăn đi cùng với thực trạng kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay
vẫn còn những mặt yếu kém, bất cập:
- Do trình độ phát triển kinh tế còn thấp, hiệu quả và khả năng cạnh
tranh của nền kinh tế Việt Nam nhất là các ngành sản xuất kinh doanh và dịch
vụ còn yếu, tham gia vào hội nhập, kinh doanh quốc tế phải đương đầu với
cạnh tranh gay gắt với những đối thủ mạnh hơn nhiều lần cả trong thị trường
nội địa lẫn thế giới. Tích luỹ nội bộ và sức mua trong nước còn thấp. Cơ cấu
kinh tế chuyển dịch chậm theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, gắn sản
xuất với thị trường; cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý. Tình trạng bao cấp và
16
Đề án môn học SV: Ngô ánh Ngọc
bảo hộ còn nặng. Đầu tư của nhà nước còn thất thoát và lãng phí. Nhịp độ thu
hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm mạnh. Tăng trưởng kinh tế những
năm gần đây giảm sút.
- Chúng ta tham gia hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện cơ chế
của một nền kinh tế thị trường đang trong quá trình hình thành, quan hệ sản
xuất có mặt chưa phù hợp, hạn chế việc giải phóng và phát triển lực lượng sản
xuất. Chưa có việc chuyển biến đáng kể trong việc đổi mới và phát triển
doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế tập thể phát triển chậm, các thành phần khác
chưa phát huy hết năng lực, chưa thực sự được bình đẳng và yên tâm đầu tư
kinh doanh, chênh lệch giàu nghèo tăng nhanh. Ở nước ta hệ thống pháp luật
của ta đang trong quá trình hoàn thiện. Nhiều chính sách luật lệ liên quan đến
mở cửa thị trường và điều tiết quan hệ kinh tế đối ngoại còn thiếu hoặc chưa
phù hợp với thông lệ quốc tế. Đây là một thách thức lớn đối với nước ta.
- Kinh tế vĩ mô còn những yếu tố thiếu vững chắc. Hệ thống tài
chính, ngân hàng, kế hoạch đổi mới chậm, chất lượng hoạt động hạn chế, môi
trường đầu tư kinh doanh còn nhiều vướng mắc, chưa tạo điều kiện và hỗ trợ
tốt cho các thành phần kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh.
- Giáo dục đào tạo còn yếu về chất lượng, cơ cấu đào tạo chưa phù
hợp, có nhiều tiêu cực trong dạy, học, và thi cử... Khoa học và công nghệ
chưa thực sử trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Cơ sở vật chất của
ngành y tế, giáo dục, khoa học, văn hoá, thông tin, thể thao còn nhiều thiếu
thốn.
- Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là ở
vùng núi, vùng sâu, vùng thường bị thiên tai. Số lao động chưa có việc làm và
thiếu việc làm còn lớn. Nhiều tệ nạn xã hội chưa được đẩy lùi, nạn ma tuý,
mại dâm, lây nhiễm HIV/ADIS có chiều hướng lan rộng. Môi trường sống bị
ô nhiễm ngày càng nhiều.
17
Đề án môn học SV: Ngô ánh Ngọc
- Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới chậm hơn
nhiều nước trong khu vực và thế giới. Trong khi xu hướng nhiều nước muốn
đẩy nhanh tiến trình tự do hoá Thương mại và đầu tư với quy mô sâu rộng
hơn thì Việt Nam lại cần đủ chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước, đây là
một mâu thuẫn cần được xử lý trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Công tác hội nhập kinh tế quốc tế mới được triển khai chưa đồng bộ
và vì vậy chưa tạo được sức mạnh tổng hợp cần thiết bảo đảm cho quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế đạt hiệu quả cao.
- Chúng ta chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về
hội nhập kinh tế quốc tế, một lộ trình hợp lý thực hiện các cam kết quốc tế.
- Doanh nghiệp nước ta nói chung còn ít hiểu biết về thị trường thế
giới và luật pháp quốc tế, năng lực quản lý còn yếu, trình độ công nghệ còn
lạc hậu, hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng quả lý còn yếu kém, tư
tưởng ỷ lại trông chờ vào sự bao cấp, bảo hộ của nhà nước còn nặng.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại còn thiếu và yếu, tổ
chức chỉ đạo chưa sát và kịp thời, các cấp các ngành chưa quan tâm chỉ đạo
và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chuẩn bị tham gia hội nhập. Đây chính
là nguyên nhân sâu xa của những yếu kém, khuyết điểm trong hợp tác kinh tế
với nước ngoài.
Tóm lại, nhận thức đầy đủ về những thách thức và khó khăn trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng như vai trò và tầm quan trọng của nó trong
chiến lược phát triển kinh tế đất nước là điều có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở
chỉ đạo định hướng cho các hoạt động trong hội nhập kinh tế quốc tế, mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.Yếu tố cơ bản quyết định thành công của hội
nhập kinh tế quốc tế suy cho cùng, là nội lực của một quốc gia, là hiệu quả và
sức cạnh tranh của một nền kinh tế.
2. Phương hướng cơ bản nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh
tế đối ngoại, phát triển kinh tế đối ngoại.
18