Đề án “Sự phân hoá giàu nghèo ở nước ta hiện nay”
Thế giới đang bước vào thế kỷ mới với kỳ vọng một cuộc sống mới phồn vinh hạnh phúc. Làn sóng toàn cầu hoá đang lan nhanh là động lực thôi thúc các quuốc gia dân tộc vào một cuộc đua tranh vì sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Chính vì vậy nền kinh tế thế giới đã đạt tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, nhưng bên cạnh đó nó cũng tạo ra hố ngăn giữa các quốc gia, các tầng lớp trong xã hội ngày càng sâu .Vấn đề này có ý nghĩa đặc biệt hết...
ĐỀ ÁN
“Sự phân hoá giàu nghèo
ở nước ta hiện nay”
1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
KTTT Kinh tế thị trường
CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
PHGN Phân hoá giàu nghèo
BHNN Bảo hiểm nông nghiệp
KT Kinh tế
CNXH Chủ nghĩa xã hội
TN Thu nhập
CNTB Chủ nghĩa tư bản
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ PHÂN HOÁ GIÀU NGHÈO.
1.1 Các khái niệm về sự phân hoá giàu nghèo
1.1.1 Khái niệm "nghèo", chuẩn mực "nghèo"
1.1.2 Phân hoá giàu nghèo, khái niệm và chỉ tiêu đánh giá
1.2 Tác động của PHGN đối với nền KT-XH ở Việt Nam
hiện nay
1.2.1 Mặt tích cực
1.2.2 Mặt tiêu cực
Chương II:THỰC TRẠNG CỦA SỰ PHÂN HOÁ GIÀU NGHÈO Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY.
2.1 Thực trạng của sự PHGN ở Việt Nam hiện nay
2.2 Nguyên nhân của sự PHGN
2.2.1 Nguyên nhân chủ quan
2.2.2 Nguyên nhân khách qua
2.3 Xu hướng biến động của PHGN ở nứơc ta hiện nay
2.3.1 Khoảng cách PHGN ngày càng xa khi KTTT ngày càng phát
triển
2.3.2 Khoảng cách PHGN đang có xu hướng đẩy tới phân hoá xã hội
2.3.3 Định hướng XHCN với khả năng điều tiết sự PHGN
2.3.4 Dự báo tình trạng đói nghèo ở Việt Nam đến năm 2010
Chương III: GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ SỰ PHÂN HOÁ GIÀU NGHÈO
3.1 Những bài học kinh nghiệm trong mô hình xoá đói giảm
nghèo nhằm giảm sự PHGN ở một số nước trên thế giới
3.1.1 Chính sách hạn chế sự PHGN ở các nước nói chung và các
và các nước ở Đông Nam á nói riêng
3
3.1.2 Chính sách hạn chế sự PHGN ở Trung Quốc
3.1.3 Chính sách hạn chế sự PHGN ở Nhật Bản
3.1.4 Bài học kinh nghiệm
3.2 Quan điểm chủ yếu giải quyết vấn đề PHGN ở nước ta hiện
nay
3.2.1 Quan điểm phát triển trong việc giải quyết sự PHGN ở nước ta
3.2.2 Quan điểm công bằng trong việc giải quyết sự PHGN ở nước ta
3.2.3 Quan điểm lợi ích trong việc giải quyết sự PHGN ở nước ta
3.2.4 Quan điểm giới trong việc giải quyết sự PHGN ở nước ta
3.2.5 Quan điểm xã hội hoá trong việc giải quyết sự PHGN ở nước ta
3.3 Những giải pháp chủ yếu giải quyết vấn đề PHGN ở nước ta
hiện nay
3.3.1 Những giải pháp cơ bản, lâu dài nhằm hạn chế sự PHGN
3.3.2 Những giải pháp cấp bách nhằm hạn chế sự PHGN
KẾT LUẬN
4
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới đang bước vào thế kỷ mới với kỳ vọng một cuộc sống mới phồn vinh
hạnh phúc. Làn sóng toàn cầu hoá đang lan nhanh là động lực thôi thúc các quuốc
gia dân tộc vào một cuộc đua tranh vì sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Chính vì
vậy nền kinh tế thế giới đã đạt tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, nhưng bên cạnh đó
nó cũng tạo ra hố ngăn giữa các quốc gia, các tầng lớp trong xã hội ngày càng sâu
.Vấn đề này có ý nghĩa đặc biệt hết sức quan trọng và cấp thiết đối với Việt Nam
trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.Thực tiễn đổi mới ở nước ta 20 năm qua cho thấy, với sự chuyển đổi, xây
dựng, và phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN, cùng các chính sách
mở cửa, hội nhập, đã đem lại nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, xã hội, đời sống của
mọi tầng lớp dân cư không ngừng được nâng cao. Đồng thời quá trình này cũng kéo
theo những biến động về cơ cấu xã hội, trong đó phân hoá giàu nghèo diễn ra ngày
càng rõ nét, nổi lên như một vấn đề thời sự cấp bách. Vì nó cũng mang tính hai mặt:
bên cạnh mặt tích cực là làm người dân giàu hợp pháp...còn mặt tiêu cực là liên
quan đến bất bình đẳng XH. Nếu để quá trình bất bình đẳng diễn ra một cách tự
phát thì nó dẫn đến những bất ổn định không chỉ về kinh tế, văn hoá, xã hội mà trên
cả lĩnh vực chính trị, thậm chí dẫn đến nguy cơ chệch hướng XHCN.
Chính vì vậy chúng ta phải có một giải quyết đúng đắn để giải quyết vấn để
phân hóa giàu nghèo sao cho xây dựng đất nước công bằng dân chủ văn minh.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, trước những đòi hỏi bức bách của thực tiễn, vấn đề
về phân hoá giàu nghèo được rất nhiều nhà học giả, nhà báo...quan tâm và đã được
nhà nước, chính phủ, các cơ quan chức năng nghiên cứu. Tuy nhiên hầu hết các
hình thức nghiên cứu chỉ dừng lại ở những bài báo, những bài nghiên cứu nhưng chỉ
đề cập tới một số mặt của sự phân hoá giàu nghèo như: xoá đói giảm nghèo, giảm
5
bất bình đẳng xã hội, hoặc các giải pháp nhằm hạn chế sự PHGN...được đăng trong
báo Nhân Dân, Xã hội học...
Một số cuốn sách ngiên cứu về sự PHGN đã được xuất bản như: Phân hoá giàu
nghèo ở một quốc gia khu Châu á- Thái Bình Dương- Vũ Văn Hà, Đồng tham gia
giảm nghèo đô thị- Nguyễn Minh Hoà...
Theo hướng đó, đề tài tiếp tục khảo sát sự phân hoá giàu nghèo trong nền kinh tế
nước ta hiện nay trên những mặt lý luận, thực trạng, giải pháp dựa trên cơ sở kế
thừa và phát triển công trình của các tác giả đã nghiên cứu trước.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn,mục đích đề tài làm rõ thực trạng và
xu hướng phân hoá giàu nghèo trong quá trình chuyển đổi, xây dựng và phát triển
nền kinh tế nước ta, từ đó đề xuất ra những giải pháp, phương hướng giải quyết
phân hoá giàu nghèo nhằm đảm bảo xây dựng đất nước công bằng, dân chủ, văn
minh.
4. Giới hạn đề tài
Do thời gian có hạn và kiến thức chưa đủ sâu để nghiên cứu về toàn bộ sự phân
hóa giàu nghèo ở Việt Nam nên đề tài chỉ đề cập đến sự phân hoá giàu nghèo chủ
yếu ở nông thôn và thành thị.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mac-Lênin, quan niệm của Đảng Cộng Sản Việt Nam và nhà nước ta về vấn đề này
và dựa trên phương pháp logic, phân tích, tổng hợp, so sánh đối chiếu giữa các số
liệu có liên quan.
6. Đóng góp của đề tài
- Phân tích thực trạng và dự báo xu hướng biến động của phân hoá giàu nghèo
trong nền kinh tế nước ta hiện nay, đề xuất ra những phương án, giải pháp chủ yếu
nhằm hạn chế những tiêu cực của sự phân hoá giàu nghèo.
- Góp phần làm rõ thêm cơ sở khoa học cho việc đưa ra và thực hiện các chính
sách của Đảng và Nhà Nước nhằm giải quyết có hiệu quả vấn đề phân hoá giàu
nghèo.
6
- Làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy cho những người
quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và tài liệu tham khảo, đề án gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về sự phân hoá giàu nghèo.
Chương II:Thực trạng của sự phân hoá giàu nghèo ở nước ta hiện nay.
Chương III: Giải pháp nhằm hạn chế sự phân hoá giàu nghèo
7
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ PHÂN HOÁ GIÀU NGHÈO
1.1. CÁC KHÁI NIỆM VỀ SỰ PHÂN HOÁ GIÀU NGHÈO .
1.1.1.Khái niệm , "nghèo" và chuẩn mực "nghèo"
Trong một thời gian dài, các nhà kinh tế và nhiều nhà nghiên cứu đã điịnh nghĩa
giàu nghèo theo quan điểm định lượng, tức là đưa ra một chỉ số để đo lường chủ
yếu nhằm đơn giản hoá việc hoạch định chính sách.
Một số quan điểm về "nghèo":
Hội nghị về chống nghèo ở khu vực Châu á-Thái Bình Dương do ESCAP tổ
chức tháng 9-1993 tại Bangkok, Thái Lan đã đưa ra định nghĩa về nghèo như sau :
" Nghèo là một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ
bản của con người, mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình
độ phát triển kinh tế xã hội phong tục tập quán của địa phương.
Nhà kinh tế học Mỹ Galbraith cũng quan niệm:"Con người bị coi là nghèo khổ
khi mà thu nhập của họ, ngay dù thích đáng để họ có thể tồn tại, rơi xuống rõ rệt
dưới mức thu nhập cộng đồng. Khi đó họ không thể có những gì mà đa số trong
cộng đồng coi như cái cần thiết tối thiểu để sống một cách đúng mực."
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức năm 1995 đưa định
nghĩa về nghèo:"Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới một đô
la mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm cần
thiết để tồn tại."
Còn nhóm nghiên cứu của UNDP, UNFPA, UNICEF trong công trình "Xoá đói
giảm nghèo ở Việt Nam-1995" đã đưa ra định nghĩa:"Nghèo là tình trạng thiếu khả
năng trong việc tham gia vào đời sống quốc gia, nhất là tham gia vào lĩnh vực kinh
tế."
Vậy tiêu chí để xác định nghèo ở nước ta là:
8
Xác định giàu nghèo là một việc khó vì nó gắn với từng thời điểm, từng quốc
gia, và được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau .Ở nước ta, từ khi có chủ trương xoá
đói giảm nghèo, các cơ quan trong nước và quốc tế đã đưa ra những chuẩn mực để
xác định tình hình đói nghèo.Đó là: chuẩn mực của bộ lao động thương binh xã hội,
chuẩn mực của Tổng cục Thống Kê, chuẩn mực đánh giá của Ngân Hàng Thế Giới
để có cơ sở xây dựng chương trình xoá đói giảm nghèo phù hợp với tập quán và
mức sống ở nước ta hiện nay.
Các mức nghèo ở Việt Nam
(Nguồn : Tổng cục Thống kê 1994, 1996, UNDP 1999, Bộ lao động,
thương binh và xã hội 1999)
Phân loại Mức tối thiểu
Cơ quan Định nghĩa về mức nghèo
người nghèo ( VNĐ/tháng)
45.000 (13 kg
Đói
gạo)
Nghèo (nông 55.000 (15 kg
Mức nghèo tính bằng gạo: Mức nghèo
Lao động thôn miền núi) gạo)
được xác định là mức thu nhập để mua
thương Nghèo (nông
được 13 kg, 15 kg, 20 kg, hoặc 25 kg gạo 70.000 ( 20 kg
binh xã hội thôn đồng
mỗi tháng( theo giá năm 1995) gạo)
bằng)
Nghèo ( thành 90.000 (25 kg
thị) gạo)
66.500
(1992/1993
Ngân Hàng Mức nghèo về lương thực thực phẩm: -Ngân Hàng thế
Thế Dựa vào mức chi tiêu cần thiết để mua Nghèo về giới)
giới/Tổng lương thực( gạo và lương thực, thực lương thực, 107.000
cục thống phẩm khác) để có thể cấp 2100 klo/người thực phẩm (1997/98-
kê mỗi ngày Ngân hàng thế
giới/ Tổng cục
thống kê)
Ngân hàng Mức nghèo chung: Kết hợp mức nghèo Nghèo 97.000
9
thế giới về lương thực, thực phẩm như trên ( (1992/93)
tương đương với 70 % chỉ tiêu và phần 149.000 (
chi lương thực để có thể chi tiêu cho 1997/98)
những nhu cầu phi lương thực cơ bản
(50%)
Chỉ số nghèo về con người: Nghèo là tình
trạng thiếu thốn ở 3 khía cạnh của cuộc
sống, tuổi thọ, kiến thức và mức sống Chỉ số tổng hợp
Nghèo về con
UNDP hợp lí. Chỉ số này được hình thành bởi 3 không qui thành
người
tiêu chí: tình trạng mù chữ, tuổi thọ, trẻ tiền
em thiếu cân và mức độ sử dụng dịch vụ
y tế nước sạch
Trên cơ sở đó, bộ kế hoạch và Đầu tư đề nghị thống nhất dùng khái niệm
nghèo đói theo nghĩa hẹp, và tỷ lệ là 20% tổng số hộ của cả nứơc.
Hộ đói là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái thất học, ốm đau
không có tiền chữa trị, nhà ở rách nát (nếu theo thu nhập thì các hộ này chỉ có thu
nhập bình quân đầu người của loại hộ này quy ra gạo dưới 25 kg/tháng ở thành thị,
20 kg/tháng ở nông thôn đồng bằng và trung du, dưới 15 kg/tháng ở nông thôn miền
núi).
Xã nghèo là xã có trên 40% tổng số hộ nghèo đói, không có hoặc có rất ít
những cơ sở hạ tầng thiết yếu, trình độ dân trí theo tỉ lệ mù chữ cao.
Còn đối với thế giới, để đánh giá tương đối đúng đắn về sự phát triển, sự tiến bộ
của mỗi quốc gia, Liên Hợp Quốc đưa ra chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội(GDP) và
chỉ số phát triển con người (HDI).
1.1.2 "Phân hoá giàu nghèo" khái niệm và chỉ tiêu đánh giá:
Trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế kém phát triển sang nền kinh tế
thị trường, xu hướng biến động của cơ cấu xã hội ở nước ta hiện nay, ngày càng trở
nên rõ nét.Từ thực trạng đó, đã có một số luận điểm có quan hệ đến quan niệm sự
phân hoá giàu nghèo.
+ PHGN gắn liền với bất bình đẳng xã hội và phân công lao động
10
+ PHGN giàu nghèo là sự phân cực về kinh tế.
+ PHGN là kết quả tất yếu của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế và đến
lượt mình sự phân hoá đó lại trở thành nguyên nhân kìm hãm sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế.
+ PHGN là một hiện tượng xã hội phản ánh quá trình phân chia xã hội thành
các nhóm xã hội có điều kiện kinh tế khác biệt nhau. PHGN là phân tầng xã hội về
mặt kinh tế, thể hiện trong xã hội có nhóm giàu tầng đỉnh, nhóm nghèo tầng đáy.
Giữa nhóm giàu và nhóm nghèo là khoảng cách về thu nhập và mức sống.
Vậy PHGN là một hiện tượng xã hội phản ánh quá trình phân chia xã hội thành
các nhóm xã hội có điều kiện kinh tế và chất lượng sống khác biệt nhau; là sự phân
tầng xã hội chủ yếu về mặt kinh tế, thể hiện sự chênh lệch giữa các nhóm này về tài
sản, thu nhập, mức sống.
Vậy tiêu chí để đánh giá sự phân hoá giàu nghèo là dựa trên cơ sở nào?
Trên thế giới người ta thường dùng 2 tiêu chí hay hai phương pháp để đánh giá
sự phân hoá giàu nghèo:
. Theo công thức 1/n: trong đó n là % dân cư để so sánh. Ví dụ: nếu theo cột
dọc giữa người giàu và người nghèo ta lấy 5 % người thu nhập thấp nhất ở cột thấp
nhất so với 5% người thu nhập cao nhất thì tỷ lệ là 1/5, tức chênh lệch nhau 20
lần.Đây là độ an toàn của sự phân hoá giàu nghèo.
. Hệ số tập trung Gini là hệ số thay đổi từ 0 đến 1 cho biết mức độ công bằng
phân chia trong thu nhập thấp. Nếu hệ số này càng thấp thì mức công bằng càng
cao. Hệ số Gini cũng đã được sử dụng để đánh giá mức độ phân tầng, phân hoá,
phân cực giữa các vùng, miền hay nhóm xã hội.
Theo hệ số Gini này (hay theo nhà
kinh tế học người Mỹ Kuznet) trong
thời kỳ nền kinh tế mới đi vào tăng
trưởng: Sự bất bình đẳng sẽ tăng lên là
tất yếu. Khi nền kinh tế tăng trưởng đến
mức độ nhất định sẽ giải quyết được vấn
11
đề xã hội đó, công bằng sẽ được thực
hiện.
Từ việc phân tích những khái niệm "nghèo","sự phân hoá giàu nghèo" ta
cũng thấy được tính hai mặt của sự phân hóa giàu nghèo đối với nền kinh tế. Từ đó
cũng có thể thấy sự tác động nhất định của nó đối với kinh tế- xã hội Việt Nam.
1.2. TÁC ĐỘNG CỦA PHÂN HOÁ GIÀU NGHÈO ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY.
1.2.1 Mặt tích cực:
PHGN đã góp phần khơi dậy tính năng động xã hội trong con người ở nhiều
nhóm xã hội, kích thích họ tìm kiếm và khai thác cơ may, vận hội để phát triển vượt
lên. Kích thích sự sáng tạo của con người, nhằm tạo môi trường cạnh tranh quyết
liệt, qua đó sàng lọc và tuyển chọn những thành viên vượt trội, tạo động lực cho sự
phát triển của mỗi ngành nghề, mỗi lĩnh vực hay mỗi địa phương. Đặc biệt là số
nhóm và nhóm người xã hội giàu lên do làm ăn đúng pháp luật. Và những hộ đã
giàu hướng dẫn cách làm ăn cho người nghèo làm cho nền kinh tế phát triển với
năng suất lao động cao, tăng phúc lợi xã hội cho người dân ( y tế, giáo dục ....)
thông qua thuế thu nhập của người giàu...
1.2.2 Mặt tiêu cực :
- Sự PHGN trên thực tế dẫn đến làm trầm trọng hơn những bất bình đẵng xã
hội. Đó là:
Sự cách biệt giữa người giàu và người nghèo ngày càng rộng. Những người
giàu ngày càng có cơ hội phát triển do có những điều kiện về vốn và kỹ thuật... còn
người nghèo phải làm thuê và bị bóc lột. Họ rất ít có cơ hội tiếp cận và được đảm
bảo những điều kiện sống cơ bản ,tối thiểu. Môt mặt vì họ quá nghèo không đủ tài
chính trang bị vốn, tri thức, kĩ thuật...mặt khác trong cơ chế thị trường hoạt động
dịch vụ cơ bản có xu hướng phục vụ người giàu là chính. ở nông thôn người nghèo
thường thiếu vốn làm ăn, muốn có vốn họ phải thế chấp nhà cửa ruộng vườn nên
không có khả năng đảm bảo tài chính nếu thiên tai xảy ra, chính vì vậy họ không
dám đầu tư nên không thoát khỏi tình trạng nghèo thâm niên. Chính vì vậy trong xã
hội sự bất bình đẳng ngày càng trầm trọng.
12
- Trong các hộ gia đình nghèo phụ nữ, trẻ em, người già lại là những người thiệt
thòi nhất , đặc biệt hộ nghèo thường rơi vào những gia đình là đối tượng quan tâm
của xã hội ( gia đình liệt sĩ, thương binh, người có công với nước...) thì vấn đề này
càng trở nên phức tạp hơn.
-Với nền kinh tế thị trường như hiện nay, thì phân phối không thể công bằng:
Đối với một số người giàu, giàu lên nhanh chóng nhờ một số hoạt động siêu lợi
nhuận như kinh doanh địa ốc, bất động sản, một số loại hình hoạt động thương
mại...nhưng họ phải có vốn có tri thức...tuy nhiên bên cạnh đó có một số người làm
giàu bất hợp pháp ( buôn lậu, trốn thuế, tham nhũng...)Đặc biệt là tình trạng tham
nhũng, quan liêu và các tệ nạn xã hội làm ảnh hưởng tới sự ổn định chính trị- xã hội
và không tạo động lực cho sự phát triển kinh tế- xã hội.
- Về hành vi, lối sống:
PHGN góp phần tạo sự đa dạng trong các hình mẫu lối sống. Sự phát triển của
lối sống tiêu dùng xa hoa, lãng phí trong bộ phận dân cư khá giả có ảnh hưởng xấu
tới các nhóm dân cư khác. Đặc biệt một số bộ phận gia đình mới phất lên ( nhờ gặp
may, hoặc do kế thừa...) sử dụng tiền theo lối sống buông thả, bất chấp các chuẩn
mực giá trị, đạo đức, hoặc không quan tâm đến con cái, để chúng hư hỏng với cuộc
sống xa đoạ, đồi truỵ mà không biết. Đây là một trong những nguồn gốc của tệ nạn
ma tuý xã hội mại dâm...và tình trạng tội phạm gia tăng như hiện nay. Và chính sự
tiêu xài hoang phí này cũng làm ảnh hưởng tới những người nghèo, hoặc những
ngưòi thuộc tầng lớp trung lưu. Những người nghèo thì họ cảm thấy không còn gì
để mất vì vậy họ hành động không như xã hội mong đợi là ăn cắp, trung gian trong
những con đường buôn lậu, vận chuyển ma tuý, bán dâm... nhằm mục đích giàu lên
nhanh chóng, còn người khá giả, trung lưu dựa trên cơ sở sẵn có của mình ( của cải,
vốn,mối quan hệ...) moắc ngoặc với nhau làm ăn phi pháp.
-Ảnh hưởng của PHGN còn lệch lạc các định hướng giá trị và chuẩn mực đạo
đức, lối sống của xã hội nhất là đối với thế hệ trẻ:
PHGN gây tình trạng thiếu hụt văn hoá trong phát triển. Những thanh niên
được sinh ra trong những gia đình khá giả, có quyền lực thường có tư tưởng " con
ông cháu cha" coi thường luân lý, đạo đức xã hội, không chịu củng cố kiến thức.
13
Còn những gia đình nghèo lại không đủ điều kiện để cho con ăn học chính vì vậy nó
gây nên tình trạng thiếu hụt văn hoá trong xã hội. Nếu không sớm phát hiện và nhận
thức đầy đủ tác động tiêu cực của xu hướng này để sớm có giải pháp khắc phục thì
xã hội không thể đạt được sự phát triển bền vững.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khoảng cách chênh lệch giàu
nghèo có xu hướng ngày càng tăng lên và nó có ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đối
với xã hội. Vì vậy chúng ta phải nhận diện rõ ảnh hưởng của nó để phát huy mặt
tích cực, và giải quyết mặt tiêu cực của sự PHGN. Nếu không giải quyết được mặt
tiêu cực thì nó sẽ làm lệch hướng đường lối xây dựng đất nước theo định hướng
XHCN ở nước ta và lây nhiễm nặng dần bệnh "nan y" của CNTB.
14
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG SỰ PHÂN HOÁ GIÀU NGHÈO Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY
2.1. THỰC TRẠNG SỰ PHÂN HOÁ GIÀU NGHÈO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Bảng thu nhập bình quân đầu người một tháng năm 2001- 2002 theo giá thực tế
phân theo 5 nhóm thu nhập, phân theo thành thị, nông thôn, phân theo giới tính chủ
hộ và phân theo vùng( nghìn đồng )
Bình nhóm1 nhóm2 nhóm3 nhóm4
nhóm5
quân ( mỗi nhóm 20% số hộ)
chung
Cả nước 356,1 107,7 178,3 251,0 370,5 872,9
Phân theo thành thị
nông thôn
Thành thị 622,1 184,2 324,1 459,8 663,6 1479,2
Nông thôn 275,1 100,2 159,8 217,7 299,4 598,6
Phân theo giới tính chủ hộ
Nam 332,6 104,9 171,4 237,9 345,4 803,4
Nữ 446,2 123,3 215,8 317,0 473,9 1101, 5
Phân theo vùng
15
Đồng bằng sông Hồng 353,1 120,7 190,5 258,4 368,1 828,3
Đông Bắc 268,8 95,1 151,1 211,9 297,4 588,0
Tây Bắc 197,0 75,0 110,9 145,9 206,6 446,6
Bắc Trung Bộ 235,4 88,9 135,7 183,5 250,4 518,7
Duyên Hải Nam Trung Bộ 305,9 112,9 182,1 244,2 333,4 656,9
Tây Nguyên 244,0 85,5 140,4 185,6 262,1 546,7
Đông Nam Bộ 619,7 165,4 303,0 452,3 684,6
1493,2
Đồng Bằng sông Cửu Long 371,3 126,2 203,8 277,3 389,3 860,1
nguồn: Tổng cục thống kê- 2005
Như vậy dựa theo bảng thu nhập bình quân đầu người một tháng năm 2001-
2005 trên ta có thấy thực trạng PHGN ở nước ta hiện nay được xem xét trên nhiều
mặt:
* Xét theo mức sống và cơ cấu chi tiêu:
Theo cuốn "Kỷ yếu hội thảo vấn đề phân phối và phân hoá giàu nghèo trong điều
kiện phát triển KTTT theo định hướng XHCN ở nước ta" ta có những nhận xét sau:
Theo vùng, chi tiêu cho đời sống bình quân 1 người 1 tháng của nhóm hộ giàu
cao nhất là Đông Nam Bộ ( 910 nghìn đồng), tiếp đến là Đồng bằng sông Hồng (
554,6 nghìn ) , Duyên hải Nam Trung Bộ (459,4 nghìn),Đồng bằng sông Cửu Long
( 434,2 nghìn ), Đông Bắc (403 nghìn), Tây Nguyên (373,8 nghìn), Tây Bắc (353,8
nghìn), và thấp nhất là Bắc Trung Bộ (344,7 nghìn). Nếu coi Bắc Trung Bộ bằng
100% thì Tây Bắc bằng 102,6%, Tây Nguyên bằng 108,4%, Đông Bắc bằng
116,4%, Đồng bằng sông Cửu Long bằng 126%, Duyên hải Nam Trung bộ bằng
133,3%, Đồng bằng sông Hồng bằng 160,9%, Đông Nam bộ bằng 264%.
Cơ cấu chi tiêu của nhóm hộ giàu
Khoản chi Số tiền ( nghìn đồng Tỷ trọng (%)
I. Chi cho ăn uống, hút 271,0 49,5
1. Lương thực 40,8 7,5
2. Thực phẩm 141,9 25,9
16
3. Chất đốt 11,8 2,2
4. Ăn uống ngoài gia đình 55,1 10,1
5. Uống và hút 21,5 3,9
II. Chi không phải ăn uống, hút 276,0 50,5
1.May mặc, mũ nón, giày dép 24,9 2,5
2. Nhà ở, điện nước, vệ sinh 29,4 5,4
3. Thiết bị và đồ dùng gia đình 52,2 9,5
4. Y tế và chăm sóc sức khoẻ 28,5 5,3
5. Đi lại và bưu điện 72,6 13,3
6. Giáo dục 36,0 6,6
7. Văn hoá, thể thao, giải trí 11,4 2,1
8. Đồ dùng và dịch vụ khác 20,7 3,8
Cơ cấu chi tiêu cho đời sống của nhóm nghèo
Khoản chi Số tiền(nghìn đồng) Tỷ trọng( %)
Tổng số 112,5 100,0
I. Chi cho ăn uống, hút 85,9 70,1
1. Lương thực 37,7 30,8
2. Thực phẩm 36,5 29,8
3. Chất đốt 6,1 49,8
4. Ăn uống ngoài gia đình 2,1 1,7
5. Uống và hút 3,6 2,9
II. Chi không phải ăn uống, hút 36,6 29,9
1.May mặc, mũ nón, giày dép 6,8 5,5
2. Nhà ở, điện nước, vệ sinh 2,8 2,3
3. Thiết bị và đồ dùng gia đình 6,7 5,5
4. Y tế và chăm sóc sức khoẻ 7,1 5,8
5. Đi lại và bưu điện 4,5 3,7
6. Giáo dục 6,0 4,9
7. Văn hoá, thể thao, giải trí 0,1 0,1
17
8. Đồ dùng và dịch vụ khác 2,6 2,1
Từ hai bảng cơ cấu chi tiêu trên ta thấy có sự chênh lệch khá lớn về mức thu chi
giữa nhóm hộ giàu và hộ nghèo. Như vậy chi tiêu cho đời sống cao hay thấp phụ
thuộc không những vào thu nhập, vào mức sống, mức đắt đỏ mà còn phụ thuộc vào
tính tiết kiệm của người dân ở các vùng.
* Xét theo góc độ các vùng kinh tế:
Dựa vào bảng thu nhập bình quân hàng tháng của lao động phân theo nghành
kinh tế dưới đây ta cũng thấy sự chênh lệch đáng kể giữa các vùng kinh tế: nhóm
sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước có thu nhập cao nhất ( VD: năm 2003-
thu nhập bình quân cuả nhóm này là 2022,2 VNĐ/tháng ) còn nhóm nông lâm- ngư-
thuỷ sản thì thu nhập bao giờ cũng thấp nhất (VD: năm 2003 thu nhập bình quân
của nhóm nông nghiệp và lâm nghiệp là 795,4 VNĐ/tháng và thu nhập bình quân
của nhóm thuỷ sản là 765,7 VNĐ/tháng).Như vậy thu nhập của nhóm sản xuất và
phân phối điện, khí đốt và nước gấp 3-4 lần thu nhập của nhóm nông- lâm- thuỷ
sản, điều này chứng tỏ rằng nước ta đang chú trọng vào ngành sản xuất năng lượng
vì trong quá trình CNH, HĐH thì yếu tố năng lượng rất cần thiết và rất quan trọng,
nó đóng góp đáng kể trong công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng XHCN ở
nước ta.
Thu nhập bình quân hàng tháng của lao động trong khu vực Nhà nước theo giá
thực tế phân theo ngành kinh tế (nghìn đồng)
2000 2001 2002 2003
Tổng số 849,6 954,3 1068,8 1190,9
Nông nghiệp và lâm nghiệp 680,0 589,8 740,2 795,4
Thuỷ sản 669.3 661,2 765,1 765,7
Công nghiệp khai thác mỏ 1397,0 1745,5 1931,4 1890,8
Công nghiệp chế biến 955,0 1050,3 1172,7 1211,6
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước 1613,6 1847,5 2005,7 2022,2
18
Xây dựng 860,8 961,2 1104,0 1194,2
Thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ, môtô
xe máy, và đồ dùng cá nhân và gia đình. 884,0 961,8 1127,4 1178,8
Khách sạn và nhà hàng 856,1 965,3 1110,4 1171,3
Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc 1525,3 1667,1 1910,1 1957,7
Tài chính, tín dụng 1454,4 1804,3 1935,0 1986,8
Hoạt động khoa học và công nghệ 692,7 778,2 895,4 1217,6
Các hoạt động liên quan đến KD tài sản
và dịch vụ tư vấn 1329,3 1532,4 1838,7 1860,2
QLNN và ANQP, đảm bảo xã hội bắt buộc 584,3 681,3 713,9 917,5
Giáo dục và đào tạo 615,1 725,2 783,4 1020,6
Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội 622,5 725,4 796,5 981,9
Hoạt động văn hoá và thể thao 607,2 718,3 814,7 990,9
Các hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội 580,3 658,5 691,3 880,9
Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng 884,3 947,0 1036 1158,4
nguồn: niên giám thống kê-2005
* Xét về góc độ dân tộc:
Tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng lãnh thổ tập trung người dân tộc thiểu số trong tương
quan với tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng lãnh thổ khác
Tên vùng lãnh thổ Tỷ lệ hộ nghèo (%)
Miền núi Đông Bắc 22,35
Miền núi Tây Bắc 33,95
Tây Nguyên 24,90
Bắc Trung Bộ 35,64
Đồng Bằng Sông Hồng 9,76
Duyên Hải miền Trung 22,24
Đông Nam Bộ 8,88
Đồng Bằng sông Cửu Long 14,18
19
Cả nước 17,18
( Nguồn : Bộ Lao Động Thương Binh - Xã Hội-2001)
Kết quả điều tra mẫu tại Yên Bái tháng 11/2001 do Bộ Lao Động Thương Binh-
Xã hội cho kết quả tỷ lệ hộ nghèo: Nùng 33,55%, Dao 51,27%, dân tộc ít người
khác 35,22%.Theo Chương trình Quốc Gia xoá đói giảm nghèo và việc làm 2002
thì: tỷ lệ hộ nghèo ở các dân tộc thiểu số so với người kinh cao hơn từ 6-10%.Và
đặc biệt theo báo Nhân dân ra ngày 20-6-1996: Vào thời điểm 1995 , các dân tộc
đặc biệt khó khăn có thu nhập bình quân dưới60 USD/người/năm, thì các dân tộc
khác có thu nhập có bình quân gấp 3 lần ( 180 USD/người/năm) "Hơn 9 triệu đồng
bào các dân tộc thiểu số ở nước ta chỉ chiếm 13.1% dân số, lại sinh sống trên 2/3
diện tích lãnh thổ cả nước. Một số dân tộc biết làm lúa nước, biết làm đồ thủ công,
làm nghề rừng, song nhiều dân tộc, nhất là dân tộc vùng cao, vùng sâu, vùng xa vẫn
còn trong cảnh nghèo nàn lạc hậu. Qua điều tra trong 43 dân tộc thiểu số có 29 dân
tộc có mức thu nhập bình quân dưới 50.000 VNĐ/tháng/người, 90% số hộ có giá trị
tài sản dưới 1 triệu đồng. Rất hiếm có hộ có giá trị tài sản trên 5 triệu đồng. Có dân
tộc chỉ vẻn vẹn có vài trăm người sống bằng hái lượm, săn bắt, và có nguy cơ suy
thoái. Không ít dân tộc vẫn còn số người mù chữ đến 90% và mắc nạn dịch kinh
niên như sốt rét, thương hàn, bướu cổ...Như vậy tuy Đảng và Nhà nước ta có nhiều
chính sách nhằm hạn chế sự đói nghèo ở các dân tộc ít người và tình hình đã được
cải thiện ít nhiều nhưng chúng ta cần phải có một biện pháp cụ thể và triệt để hơn
nữa để tránh rơi vào tình trạng tái nghèo....
* Xét về góc độ giới:
Cùng có sự chêch lệch đáng kể và bộ phận không nhỏ phụ nữ nghèo phải chịu
hậu quả của sự chênh lệch này, đặc biệt là phụ nữ nghèo ở nông thôn và vùng núi
cao. Nạn thiếu việc làm của lao động nữ ở nông thôn rất nghiên trọng, 1/3 thời gian
lao động chưa được sử dụng, dẫn đến một bộ phận đáng kể lao động nữ ở nông thôn
ra thành phố kiếm sống (bán bánh mì, bán rau, giúp việc....) thậm chí họ còn làm
những nghề xã hội cấm( mại dâm, vận chuyển ma tuý...). Số ở nông thôn tuy có
việc làm, nhưng năng suất lao động và hiệu quả lao động thấp, thu nhập kém, một
bộ phận không nhỏ rơi vào tình trạng đói nghèo ( 20% chủ hộ đói là nữ). Còn một