Đề án “Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với hộ nông dân nghèo ở ngân hàng phục vụ người nghèo Việt Nam”
Đói nghèo là một hiện tượng phổ biến của nền kinh tế thị trường, nó tồn tại một cách khách quan và nó là vấn đề có tính quy luật. Đặc biệt ở nước ta trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trườngvới xuất phát điểm thấp thì tình trạng đói nghèo lại càng không thể tránh khỏi thậm trí còn trầm trọng và gay gắt hơn. Đói nghèo không phải là cá biệt mà đã trở thành hiện tượng phổ biến ở khắp các vùng trong phạm...
ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH-
TIỀN TỆ
“Giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả tín dụng ngân
hàng đối với hộ nông dân
nghèo ở ngân hàng phục vụ
người nghèo Việt Nam”
Đề án: Lý thuyết tài chính- tiền tệ
Đề tài: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với hộ nông
dân nghèo ở ngân hàng phục vụ người nghèo Việt Nam.
A- Lời mở đầu
Đói nghèo là một hiện tượng phổ biến của nền kinh tế thị trường, nó tồn tại một
cách khách quan và nó là vấn đề có tính quy luật. Đặc biệt ở nước ta trong quá trình
chuyển đổi từ một nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trườngvới xuất
phát điểm thấp thì tình trạng đói nghèo lại càng không thể tránh khỏi thậm trí còn
trầm trọng và gay gắt hơn. Đói nghèo không phải là cá biệt mà đã trở thành hiện
tượng phổ biến ở khắp các vùng trong phạm vi toàn quốc từ thành thị đến nông
thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, vùng dân tộc thiểu số...
Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng đã đưa
nền kinh tế đất nước đạt được những thành tựu đáng kể. Trước hết là sản xuất nông
nghiệp và phát triển nông thôn, năng xuất và sản lượng các sản phẩm trồng trọt và
chăn nuôi tăng khá nhanh. Từ một nước phải lo nhập khẩu lương thực, nước ta đã
trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Cơ cấu sản phẩm nông
nghiệp nói riêng và cơ cấu sản xuất nông thôn nói chung đã từng bước chuyển dịch
hướng tới phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá, đồng thời đã xuất hiện nhiều
mô hình mới trong sản xuất nông nghiệp và dịch vụ ở nông thôn như: Các làng
nghề truyền thống, các trang trại, các tổ hợp dịch vụ... Đời sống của người nông
dân dần đước cải thiện về mọi mặt.
Song cùng với sự phát triển đó sự phân hoá giữa giàu nghèo có xu hướng ngày
càng tăng, một bộ phận dân cư vươn lên làm ăn có hiệu quả trong cơ chế thị trường
-1-
thu nhập cao trở lên giàu có, bên cạnh đó không ít người do môi trường điều kiện
tự nhiên, khí hậu khắc ngiệt, địa hình phức tạp thiên tai mất mùa... và nhiều nguyên
nhân khác dẫn tới ngưỡng cửa đói nghèo.
Một trong những yêu cầu bức súc hiện nay đang là vấn đề nổi cộm lên như một
trở ngại lớn đối với hộ nông dân nghèo là thiếu vốn phục vụ cho sản xuất nhất là
vốn cho các hộ nông dân nghèo có điều kiện sản xuất nhưnh đang trong tình trạng
thiếu vốn, nghèo đói.
Để giải quyết vấn đề đó nhà nước đã co những chính sách thích đáng nhằm mục
tiêu xoá đói giảm nghèo và ngân hàng phục vụ người nghèo đã ra đời va được
thành lập theo nghị định số: 525/TTg, ngày 31 tháng 8 năm 1995 của Thủ tướng
chính phủ và quyết định số: 230/QĐ-NHg, ngày 01 tháng 9 năm 1995 của Thống
đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Tuy nhiên để ngân hàng hoạt động có hiệu quả thì phải cần có nhiều điều kiện như
vốn lớn muốn như vậy thì phải có những chính sách, những biện pháp huy động
vốn cụ thể bên cạnh những phương hướng hoạt động cụ thể, cách thức triển khai
hoạt động như thế nào cho đạt hiệu quả nhất đó.
Xuất phát từ những vấn đề đó, qua tìm hiểu và tra cứu em đã lựa chọn đè tài này:
“Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với hộ nông dân
nghèo ở ngân hàng phục vụ người nghèo Việt Nam”làm đề tài đề án môn học của
em.
Trong đề án này chủ yếu về những vấn đề lý luận của việc thực hiện các chính
sách và thể lệ cho vay đối hộ nông dân nghèo. Do còn hạn chế trong việc nghiên
cứu cho nên đề tài chỉ chuyên về lý luận, ít thực tế chủ yếu tập trung vào vấn đề
huy động vốn đầu tư tín dụng đối với hộ nông dân nghèo.
Đề tài được chia thành 3 phần:
-2-
A- Lời mở đầu
B- Nội dung
I) Hiệu quả tín dụng đối với người dân nghèo.
II) Hoạt động của ngân hàng người nghèo và hiệu quả tín dụng của ngân
hàng người nghèo đối với hộ nông dân nghèo.
III) Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng của ngân hàng người
nghèo đối với hộ nông dân nghèo.
C- Kết luận.
Do còn nhiều hạn chế trong nghiên cứu và tìm tòi cho nên bài viết còn rất nhiều
hạn chế, không tránh khỏi khuyết điểm. Do vây em rất mong được các thầy cô và
các ban bổ sung và đóng góp ý kiến để em có thể hoàn thiện đề tài này hơn nữa và
giúp em hiểu sâu hơn về vấn đề này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô đã giúp
đỡ em hoàn thành đề án này
Mục lục
Trang
A- Lời mở đâu: 2-4
B- Nội dung 6-27
I- Hiệu quả tín dụng đối với người dân nghèo. 6
1- Thực trạng của họ nông dân nghèo. 6
2- Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ nông dân nghèo.
3- Hiệu quả tín dụng. 9
II- Hoạt động của ngân hàng người nghèo và hiệu quả tín 11-16
dụng của ngân hàng người nghèo đối với ho nông dân nghèo.
1- Ngân hàng người nghèo (NHNg). 12
-3-
2- Hiệu quả tín dụng của ngân hàng người nghèo đối với hộ nông 12
dân nghèo.
III- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng của ngân 16-27
hàng người nghèo đối với hộ nông dân nghèo. 18
1- Những giải pháp về huy động vốn. 18
2- Những biện pháp về cho vay đối với hộ nông dân nghèo. 21
C- Kết luận. 28
B- NộI DUNG
I) Hiệu quả tín dụng đối với người dân nghèo:
1) Thực trạng của hộ nông dân nghèo:
- Nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư có điều kiện thoả mãn một phần
nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung
bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
- Nghèo tuyệt đối là tình trạng của một bộ phận dân cư không có khả năng thoả
mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Nhu cầu tối thiểu là những đảm
bảo ở mức độ tối thiểu những nhu cầu thiết yếu về ăn, ở, mặc, nhà ở và nhu cầu
sinh hoạt hàng ngày như văn hoá, y tế, giáo dục, đi lại giao tiếp.
- Nghèo tương đối là tình trạng của một bọ phận dân cư có mức sống trung bình
dưới mức trung bình của địa phương đang xét.
-4-
- Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức tối thiểu và
thu nhập không đủ đảm bảo cho nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là
những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ 1 đến 2 tháng thường phải vay nợ
của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả cộng đồng.
Chuẩn mực nghèo đói trên địa bàn thành thị và nông thôn (Do Bộ lao động và
thương binh xã hội quy định):
Địa bàn Thu nhập bình quân đầu người
Loại hộ Kg gạo/tháng Đồng/ tháng
Nghèo tương đối 20 60000
Nông thôn Nghèo tuyệt đối 16 48000
Đói 13 39000
Nghèo tuơng đối 25 75000
Thành thị Nghèo tuyệt đối 20 60000
Đói 15 45000
Từ những khái niệm và chuẩn mực đó chúng ta có thể nhận thấy được thực trạng
của hộ nông dân nghèo hiện nay, đó là chúng ta hiện nay có khoảng 20% hộ đói
nghèo trong đó 90% ở nông thôn. Đó một tỷ lệ không nhỏ trong khi nước ta đang
từng bước thực hiện CNH-HĐH, tưng bước đổi mới tỷ lệ người giàu ngày càng
tăng thì hộ nghèo đói vãn không giảm làm cho khoảng cách giữa các hộ giàu nghèo
chính vì vậy mà Đang và chính phủ đã và đang có những biện pháp khắc phục hiện
trạng trên.
Đói nghèo là hậu quả đan xen của nhiều nhóm các yếu tố. Một số các chuyên gia
quốc tế đã đưa ra nguyên nhân dẫn đến đói nghèo là:
- Nhóm nguyên nhân do bản thân người nghèo: Nông dan thiếu vốn sản xuất
thường rơivào vòng luẩn quẩn, sản xuất yếu kém, làm không đủ ăn, phảI đI làm
thuê, đI vay để đảm bảo cuộc sống tối thiểu hàng ngày. Vì vậy họ không đủ vốn để
táI sản xuất, muốn vay vốn ngân hàng thì không đủ tàI sản thế chấp, họ chỉ trông
chờ vào sự giúp đỡ của bà con hàng xóm, của cộng đồng. Nhưng sự giúp đỡ này
-5-
chỉ rất nhỏ bé so với nhu cầu chonên người nông dân phảI bán lúa non hoặc vay
nặng lãI hoặc ứng trước sản phẩm. thiếu vốn sản xuất là nguyên nhân chủ yếu nhất
và nó là một lực cản lớn hạn chế sự phát triển sản xuất và nâng cao đời soóng của
các hộ nông dân nghèo. Các hộ nông dân nghèo thường thiếu kinh nghiệm và kiến
thức làm ăn, lam lũ quanh năm, bán mặt cho đất bán lưng cho trời, hơn nữa phương
pháp canh tác cổ truyền đã ăn sâu vào tiềm thức của họ, họ thường bị cách ly với
thế giới bên ngoàI vì họ sống nơI hẻo lánh, giao thông đi lạI khó khăn, thiếu
phương tiện thông tin, con cáI không được học hành. Những đIều đó đã làm cho hộ
nghèo không thể nâng cao trình độ dân trí, không ứng dụng được những tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào canh tác, không có kinh nghiệm và trình độ sản xuất kinh
doanh. Người nông dân nghèo vẫn mang đậm tư tưởng ngày xưa mong có đử cả
nếp tẻ cho nên sinh đẻ nhiều, sức khoẻ yếu lại không được chăm sóc tử tế cho nên
không đử sức làm kinh tế. Hiện tại một người trong đọ tuổi lao động của hộ nghèo
phải nuôI từ 2 đến 3 con, số hộ nghèo thuộc diện chính sách tỷ lệ ít, phần lớn là
người già và trẻ em, người làm thì ít mà người ăn thì nhiều, đó là một trong những
nguyên nhân dẫn đến thu nhập thấp, đời sống gặp nhiều khó khăn, không đủ sức
làm kinh tế. Do qua túng thiếu, nợ nần dây dưa cho nên họ đã phảI bán đất canh tác
hoặc bị kê biên thu hồi, dẫn đến không có hoặc có rất ít đất đai để canh tác nên
cũng làm cho gia đình luôn túng thiếu gặp nhiều khó khăn. Do thu nhập thấp cho
nên người nghèo thường hay bi quan, không năng động trong cuộc sống, hay rơI
vào tinh trạng cờ bạc, rượu chè, nghiện hút hoặc trở thành cửu vạn làm thuê làm
mướn.
- Nhóm nguyên nhân do môi trường tự nhiên, xã hội: Điều kiện tự nhiên khắc
nghiệt đã tác động sâu sắc đến sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân. ở những
vùng có thời tiết khí hậu khắc nghiệt như thiên tai, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh, mất
mùa, đất đai cằn cỗi, địa hình phức tạp, vùng xa xôi hẻo lánh, đường giao thông đi
lại khó khăn, cơ sở hạ tầng thấp kém... là những vùng có nhiều hộ nghèo đói nhất.
-6-
Mặt khác, nông thôn nước ta còn phải gánh chịu hậu quả của chiến tranh, đây cũng
là nguyên nhân gây lên nghèo đói. Ngoài ra, ở nông thôn còn có vùng lạc hậu, điều
kiện vật chất cơ sở hạ tầng thấp kém, các thủ tục tập quán lạc hậu vừa gây tốn kém
vừa lãng phí nên đã dẫn họ đến nghèo đói.
- Nhóm nguyên nhân do cơ chế chính sách: Trung ương cũng như địa phương
chưa có chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng thích đáng, nhất là ở các vùng núi cao,
vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng, thiếu tính đồng bộ, ưu đãi khuyến khích sản
xuất, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, thiếu sự tổ chức chăm lo của cộng đồng
xã hội với người nghèo.
Các nguyên nhân dẫn đến nghèo đói nói trên nó có tác động qua lại với nhau
làm cho tình trạng đói nghèo ở từng vùng thêm trầm trọng, khiến cho các hộ nghèo
đói khó có thể vượt qua, nếu nhà nước không có chính sách, những giải pháp hữu
hiệu riêng đối với hộ nghèo, vùng nghèo.
2) Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo:
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa các ngân hàng, các tổ chức
tín dụng khác với các doanh nghiệp và cá nhân. Thực tế cho thấy tín dụng ngân
hàng kích thích sự tăng trưởng kinh tế, gia tăng tích tụ vốn để đầu tư vao quá trình
sản xuất nhằm nâng cao lơi nhuận cho toàn bộ nền kinh tế. Trong
điều kiện hiện nay, tín dụng ngân hàng giữ một vai trò quan trọng thể hiện ở các
mặt sau đây:
-Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất được
liên tục, đồng thời góp phần đầu tư phát triển nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng là
đòn bẩy thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất.
-Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và
ngành mũi nhọn đảm bảo tốt nhất yêu cầu nâng cao hiệu quả của việc sử dụng vốn.
-7-
-Tín dụng ngân hàng góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hach toán
kinh tế của các doanh ngiệp.
Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện để phát triển các quan hệ kinh tế với nước
ngoài.
Như chúng ta biết, nông ngiệp nông thôn nước ta có một vai trò và vị trí quan
trọng đặc biệt, vì vậy trông những năm gần đây, Đảng và chính phủ ta đã rất chú
trọng tập trung đầu tư trong nông nghiệp nông thôn, đẩy mạnh CNH-HĐH trong
nông thôn, nâng cao đời sống người dân đặc biệt là đối với các hộ nghèo đói (chủ
yếu ở trong khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa), muốn làm những điều này
Đảng và chính phủ ta đã có nhiều chính sách yêu đãi đối với các hộ đói nghèo, áp
dụng các chính sách như: hỗ trợ các hộ nghèo đói về vốn thông qua hoạt động của
các ngân hàng đặc biệt là ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn mà cụ
thể là ngân hàng phục vụ người nghèo. Đất nước ta đang từng ngày đổi mới, từng
bước vươn lên hoà nhập cùng thế giới nhưng tỷ lệ nghèo đói ở nước ta còn cao cho
nên vấn đề đâu tư phát triển nông nghiệp nông thôn đặc biệt là vấn đề giảm bớt tỷ
lệ các hộ nghèo đói của nước ta là một vấn đề hết sức quan trọng trong công cuộc
đổi mới đất nước ta. Chính vì vậy mà tín dụng ngân hàng có vai trò hêt sức quan
trọng trong vấn đề giảm bớt tỷ lệ các hộ nghèo đói trong cả nước. Nhận thức đầy
đủ vai trò quan trọng của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển nông nghiệp
nông thôn, tại Hội nghị lần thứ V khoá VII của Đảng đã chỉ rõ “Khai thác phát triển
các nguồn tín dụng của nhà nước và nhân dân tạo điều kiện tăng tỷ lệ hộ nông dân
được vay vốn sản xuất, ưu tiên cho các hộ nghèo, vung nghèo vay vốn để sản
xuất”.
Một nền kinh tế không thể tăng trưởng và phát triển một cách bền vững, ổn
định mỗi khi trong xã hội vẫn còn tồn tại tỷ lệ hộ nghèo đói khá cao. Do vậy phát
triển nông nghiệp nông thôn để giải quyết vấn đề đói nghèo đã và đang trở thành
một yêu cầu cấp bách không chỉ về mặt phương diện kinh tế mà còn cả về phương
-8-
diện xã hội. Đầu năm 1998 Chính phủ quyết định xoá đói giảm nghèo là một trong
7 chương trình quốc gia. Việc tăng cường huy động vốn trong và ngoài nước. Đòi
hỏi phải xây dựng và đề xuất những giải pháp hữu hiệu hơn để giải quyết giảm số
hộ nghèo đói nhanh hơn tăng số hộ giàu và làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Chính
vì vậy mà vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo là vô cùng quan trọng
trong tình hình ngày nay.
3) Hiệu quả tín dụng:
Hiệu quả tín dụng có nghĩa là phát triển việc cho vay đối với các hộ nghèo nhằm
giúp đỡ người dân nghèo cải thiện được đời sống, thoát ra cảnh đói nghèo, giảm tỷ
lệ đói nghèo xuống mức thấp nhất. Đó chính là khái niệm về hiệu quả tín dụng đối
với các ngân hàng phục vụ cho người nghèo như ngân hàng người nghèo hay ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, còn hiệu quả tín dụng đối với
từng ngân hàng khác nhau thì có những khái niệm khác nhau về vấn đề này. Trong
đề án này là nói về hiệu quả tín dụng đối với các hộ nghèo nên khái niệm về hiệu
quả tín dụng chủ yếu liên quan tới vấn đề là giúp đỡ người nghèo cải thiện cuộc
sống và hơn nữa ngân hàng người nghèo là ngân hàng chính sách nhằm giúp đỡ
người nghèo cải thiện cuộc sống theo định hướng của nhà nước.
Để đạt được hiệu quả tín dụng với mức cao nhất thường thì có nhiều yếu tố tác
động làm hiệu quả tín dụng không đạt được kết quả theo như mong muốn trong đó
có một số các nhân tố như: Đất nước ta là một nước đang phát triển, đi lên từ một
nước thuần nông nghiệp, lại phải trải qua 2 cuộc chiến tranh bị tàn phá nặng nề cho
nên về cơ bản điểm xuất phát của nước ta là rất kém, đời sống của nhân dân còn rất
kém. Đất nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu có nhiều sông ngạch, cơ sở hạ
tầng thấp kém, giao thông thuỷ bộ kém phát triển dẫn đến trong công tác tín dụng
gặp nhiều khó khăn đậưc biệt là các vùng sâu, vùng xa dân cư sống thưa thớt. Do
nước ta là mọt nước thuộc khu vực ôn đới gió mùa nên năm nào cũng có bão mạnh
-9-
đổ bọ vào gây khó khăn cho đời sống nhân dân, ảnh hưởng tới công tác tín dụng,
đồng vốn tín dụng cho dân vay trong trường hợp này có nguy cơ mất điều này cũng
ảnh hưởng tới hiêu quả tín dụng. Trình độ dân trí chưa cao khi họ nhân được vốn
tín dụng họ không biết làm sao cho có lợi đó là điều rất thiệt thòi cho chúng ta đặc
biệt là cho tín dụng ngân hàng, do thiếu hiểu biết nhiều người còn chưa biết đến tín
dụng vay vốn, khi có vốn trong tay người dân không dám mạnh dạn đầu tư kinh
doanh, không dám cầm tiền đưa vào kinh doanh chấp nhận rủi ro. Đó là những
nhân tố ảnh hưởng một cách khách quan tới hiệu quả tín dụng cón những nhân tố
chủ quan đó là những chính sách đối với tín dụng, cơ chế quản lý kém hiệu quả. Về
chính sách đối với tín dụng chưa đồng bộ còn bộc lộ nhiều sơ hở kém linh hoạt
không đáp ứng được cơ chế thị trường, cơ chế quản ký yếu kém dẫn đến trường
hợp một số cán bộ yếu kém đạo đức lợi dụng chiếm đoạt tài sản của công, quản lý
không mang lại hiệu quả, không mạnh dạn áp dụng các biện pháp chính sách trong
công việc
II) Hoạt động của ngân hàng người nghèo và hiệu quả tín dụng của ngân hàng
người nghèo đối với hộ nông dân nghèo:
1) Ngân hàng người nghèo (NHNg):
NHNg được thành lập gồm có Hội đồng quản trị đứng đầu là chủ tịch hội đồng
quản trị và các thành viên của hội đồng, người đứng ra quản lý trực tiếp là tổng
giám đốc NHNg và ban Tổng giám đốc, Tổng kiểm soát Hội đồng quản trị, NHNg
được thành lập ở tất cả các tỉnh trong cả nước, ở mỗi tỉnh lại có nhiều chi nhánh ở
các huyện, quận và người lãnh đạo ở các tỉnh là giám đốc NHNg cùng ban lãnh đạo
ngân hàng. Cùng với mô hình đặc thù, có Hội đồng quản trịvà Ban đại diện Hội
đồng quản trị các cấp, đã tập hợp được sức mạnh tổng hợp các ngành, các cấp, các
đoàn thể chính trị xã hội và đông đảo cộng đồng dân cư từ mọi miền đất nước góp
tiền, góp sức phát huy tinh thần tương thân tương ái của dân tộc ta.Tính đến nay
- 10 -
NHNg được thành lập ở hầu hết các tỉnh trong cả nước và hoạt động có nhiều hiệu
quả.
Sau gần 5 năm thành lập và hoạt động, NHNg vừa kiện toàn bộ máy hoạt động và
xây dựng cơ chế nghiệp vụ, vừa triển khai các hoạt động huy động vốn và cho vay
nhưng cũng đã đạt được những kết quả đáng kể trong việc cung cấp vốn tín dụng
tới những hộ nghèo thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Kết quả đó thể hiện:
Về nguần vốn: Tính đến ngày 31/12/2000, tổng nhuồn vốn của NHNg đạt
5.015 tỷ đồng so với nguồn vốn từ khi thành lập và chuyển giao từ Quỹ cho vay ưu
đãi hộ nghèo chuyển sang là 521 tỷ đồng thì nguồn vốn đã tăng lên 4496 tỷ đồng
với kết cấu nguồn vốn chủ yếu là nguồn vốn vay từ các Ngân hàng thương mại
quốc doanh 2.602 tỷ đồng chiếm 55,9% tổng nguồn vốn vay vốn Ngân hàng nhà
nước (chiếm 18%), vốn vay Tổ chức nước ngoài (Quỹ OPEC chiếm 1,7%), vốn
nhận dịch vụ uỷ thác (chiếm 1%), vốn từ ngân sách địa phương chuyển sang
(chiếm 6,7%) và một phần nhỏ từ vốn huy động trong cộng đồng dân cư.
Về kết quả cho vay: Với tổng nguồn vốn nêu trên, NHNg đã thực hiện cung cấp
tới phần lớn các hộ nghèo có nhu cầu vay vốn trên phạm vi toàn quốc. Tính đến
ngày 30/9/2000, đã có hơn 5,3 triệu lượt hộ nghèo nhận được vốn vay tín dụng từ
NHNg với tổng số tiền là 8.396 tỷ đồng. Nhiều hộ nghèo là dân tộc thiểu số cũng
đã được vay vốn với dư nợ là 733 tỷ đồng chủ yếu là người dân tộc Tày, Nùng,
Thái, Mường, Khơ me...
Về đối tượng phục vụ: Là những hộ gia đình nghèo có sức lao động, có khả năng
tổ chức sản xuất kinh doanh nhưng thiếu vốn. Hộ nghèo được nhận diện theo chuẩn
mực phân loại do Bộ Lao động Thương Binh và Xã hội công bố từng thời kỳ, các
đối tượng này chưa được vay vốn ở các toỏ chức tín dụng. Các hô gia đình nghèo
thuộc diện chính sách xã hội như già cả neo đơn, tàn tật, không có sức lao động,
hoặc các gia đình nghèo gặp rủi ro bệnh tật, thiên tai, thiếu ăn do Quỹ xã hội của
Ngân sách Nhà nước tài trợ. Những hộ này không thuộc đối tượng được vay vốn
- 11 -
của NHNg. Hộ nhèo vay vốn NHNg phải thực sự sản xuất kinh doanh dich vụ,
không được sử dụng vốn vay vào mục đích tiêu dùng, sinh hoạt, chữa bệnh, cứu
đói, tổ chức hội hè, chơi đề, nghiện hút...
Ưu đãi về lãi suất cho vay: Nhà nước có chính sách ưu đãi về lãi suất cho vay đối
với người nghèo, NHNg cho hộ nghèo vay vốn với lãi suất thấp hơn lãi suất cho
vay của các ngân hàng thương mại, Quỹ tín dụng nhân dân. NHNg cho vay cung 1
mức lãi suất cho các loại cho vay khác nhau(ngắn hạn, trung hạn). Lãi suất cho vay
hộ nghèo vùng 3(Theo quy định của Uỷ ban Dân tộc và miền núi) được giảm 0,1%
so với lãi suất cho vay thông thường. Lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất cho
vay ghi trên sổ vay vốn. (Thấp hơn so với lãi suất nợ quá hạn của ngân hàng
thương mại là bằng 150% lãi suất cho vay thông thường). Lãi suất cho vay được
thay đổi theo tưng thời kỳ do chính phủ quy định căn cứ sự thay đổi mặt bằng lãi
suất chung trên thị trường. Trong 5 năm qua, đã có 5 lần thây đổi theo hướng hạ lãi
suất cho vay đối với hộ nghèo từ mức lãi suất 1,2%/tháng hạ xuống 1%/tháng;
0,8%/tháng và hiện nay đang áp dụng là 0,7%/tháng, riêng đối với hộ nghèo vùng
III được vay lãi suất 0,6%/tháng và đều thấp hơn lãi suất cho vay hiện hành của các
NHTM và Hợp tác xã tín dụng.
Về quy định mức cho vay tối đa: Khi mới thành lập NHNg: mức cho vay tối đa
không quá 2,5 triệu đồng/hộ. Hiện nay, điều chỉnh nâng lên tối đa không quá 3 triệu
đồng/hộ. Riêng đối với những hộ nghèo đầu tư cho chăn nuôi đại gia súc, trông cây
ăn quả, cây công nghiệp, mua sắm công cụ, nuôi trồng đánh bắt hải sản, kinh doanh
ngành nghề, được vay vốn tối đa đến 5 triệu đông/hộ phù hợp với tăng trưởng
nguồn vốn của NHNg và quy mô sử dụng vốn đối với hộ nghèo
Về thời hạn cho vay: Việc xác định thời hạn cho vay căn cứ vào chu kỳ sản xuất
kinh doanh và trả nợ của người vay nhưng tối đa không quá 60 tháng. Hộ nghèo
được vay vốn nhiều lần cho đến khi thoát khỏi ngưỡng nghèo theo chuẩn mực phân
loại của Bộ lao động thương binh xã hội. Thời hạn cho vay trung hạn tối đa 36
- 12 -
tháng, nay được nghiên cứu áp dụng thời hạn tối đa 60 tháng. Ngoài ra, NHNg còn
áp dụng các hình thức cho vay lưu vụ, gia hạn nợ.
Về thủ tục cho vay: Thủ tục cho vay hộ nghèo đơn giản. Hộ nghèo vay vốn
không phải thế chấp tài sản. Hộ nghèo chỉ phải điền vào đơn xin vay theo mẫu đã
được ngân hàng in sẵn. Trong đơn nêu rõ mục đích vay tiền, số tiền xin vay và cam
kết của hộ vay vốn đối với ngân hàng.
Các quy định khác:
Hộ nghèo vay vốn phải có trách nhiệm trả gốc và lãi đầy đủ theo đúng thời hạn đã
cam kết với ngân hàng. Hộ nghèo vay vốn chỉ phải trả khoản lãi vay theo lãi suất
vay vốn đước NHNg công bố theo từng thời điểm cụ thể, không phải trả thêm bất
kỳ một khoản phí nào khác. Việc trả lãi có thể trả theo tháng hoặc quý tuỳ theo sự
thoả thuận của ngân hàng với người vay vốn. NHNg không tính lãi chưa trả để
nhập vào gốc. Nừu lãi chưa thu được của kỳ trước chuyển sang thu vào kỳ kế tiếp.
NHNg phát tiền vay trực tiếp cho những hộ nghèo nằm trong danh sách đã được
tổ bình nghị và được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Chính sách xử lý rủi ro: Nhà nước có chính sách xử lý rủi ro để hỗ trợ hộ nghèo
vay vốn gặp rủi ro bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn, dich bệnh... gây thiệt hại
đến tài sản của hộ vay vốn trong đó có vốn vay ngân hàng. Những trường hợp rủi
ro này dù xảy ra trên diện rộng hay trên diện hẹp, dù khoản vay đến hạn hoặc chưa
đến hạn sẽ được NHNg xử lý tuỳ theo mức độ thiệt hại. Trường hợp hộ nghèo vay
vốn chưa trả được nợ do nguyên nhân sản xuất ra chưa tiêu thụ được sản phẩm thì
NHNg cho gia hạn nợ đến khi hộ nghèo bán được sản phẩm trả nợ ngân hàng.
Nhưng tối đa không quá 60 ngày.
2) Hiệu quả tín dụng của ngân hàng người nghèo đối với các hộ thuộc diện đói
nghèo:
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng
khác với các doanh nghiệp và cá nhân.
- 13 -
NHNg được thành lập nhằm mục đích giúp các họ nghèo vượt lên khó khăn thoát
ra khỏi cảnh đói nghèo hoà nhập với cuộc sống nhưng bên cạnh đó nó cũng hoạt
động nhằm mục đích kinh doanh thu lợi nhuận nhưng với mức thấp. Chính vì vậy
mà khi nói đến hiệu quả tín dụng của NHNg chúng ta phải nói tới vấn đề sử dụng
vốn và hiệu quả của việc sử dụng vốn đó như thế nào thu được lợi nhuận cao hay
thấp. Cho đến nay sau 5 năm được thành lập NHNg có tổng số vốn ban đầu là 521
tỷ đồng và bây giờ là 5015 tỷ đồng như vây sau 5 năm được thành lập NHNg đã
đưa tổng nguồn vốn của mình tăng thêm giúp ngân hàng hoạt động có hiệu quả
hơn, tốt hơn. Thu lãi cho vay vẫn là khoản thu chính, duy nhất của NHNg nên vẫn
được NHNg các cấp tích cực khai thác nhằm giảm bớt căng thẳng về kinh phí hoạt
động cũng như tạo tiền đề cho việc sử lý một số vấn đề có liên quan đến khả năng
tài chính của NHNg, tổng số lãi thu được trong năm 2000 là 325 tỷ tăng 15,6% so
với năm 1999, tỷ lệ thu lãi bình quân toàn quốc đạt 86,6% tăng 1,6% so với năm
1999. Thu lãi từ tiền gửi đây là khoản lãi phát sinh từ số vốn tạm thời nhàn rỗi đang
trên tài khoản tiền gửi tại NHNo. Tổng thu lãi tiền gửi là 5,2 tỷ đồng năm 2000. Hệ
số sử dụng vốn trong năm 2000 bình quân cả năm là 92,6%. Nói hiệu quả tín dụng
cũng là nói đến vấn đề đã cho vay được bao nhiêu tiền trong 1 năm và nó đã có tác
dụng gì giúp các hộ nghèo đói chính vì vậy mà khi đánh giá hiệu quả tín dụng của
NHNg chúng ta thường nhìn vào kết quả này, thật kích lệ là cho đến nay sau 5 năm
thành lập nói chung là trong thời gian ngắn nhưng với sự hoạt động có gắng và có
hiệu quả NHNg hàng năm cho các đối tượng thuộc diện được vay vốn vay vốn với
số tiền hàng tỷ đông mỗi năm như năm 2000 doanh số cho vay laf 2171 tỷ đồng
trong đó doanh số cho vay quý IV là 724 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 33,4% doanh số
cho vay cả năm. Doanh số thu nợ đạt 1364 tỷ đồng, trong đó doanh số thu nợ quý
IV là 452 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 33,1% doanh số thu nợ cả năm. Đến ngày
31/12/2000, tổng dư nợ cho vay hộ nghèo đạt 4704 tỷ đồng, tăng 807 tỷ
đông(20,7%) so với năm 1999, trong đó quý IV tăng 326 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng
- 14 -
40,4% trong tổng số dư nợ cả năm và đạt 89,4% kế hoạch năm 2000. Hiện có gần
2,5 triệu hộ thuộc 208 ngàn tổ vay vốn còn dư nợ NHNg. Dư nợ bình quân một hộ
là 1880 ngàn đồng, tăng so với năm đầu tiên hoạt động (1996) là 500 ngàn đồng/hộ
và tăng so với năm 1999 là 200 ngàn đồng/ hộ. Tính đến ngày 30/9/2000, đã có hơn
5,3 triệu hộ nghèo nhận được vốn tín dụng từ NHNg với tổng số tiền là 8396 tỷ
đồng. Với số vốn vay hộ nghèo đã đầu tư vào sản xuất kinh doanh, chủ yếu là đầu
tư vào sản xuất nông nghiệp, thâm canh tăng vụ, mở rộng ngành nghề, cải thiện đời
sống và nâng cao thu nhập để trả nợ ngân hàng với doanh số thu nợ đạt 4017 tỷ
đồng. Hiện còn 2467 ngàn hộ dư nợ ngân hàng với số tiền 4379 tỷ đồng, bình quân
mỗi hộ dư nợ tới 1,7 triệu dồng. Trong doanh số cho vay nói trên, ngân hàng đã
thực hiện cung cấp tín dụng tới cả những hộ nghèo ở vùng III, dư nợ hộ nghèo ở
khu vực III là 487 tỷ đồng với 280 ngàn hộ còn dư nợ, trong đó cho vay hộ nghèo ở
các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa theo Quyết định
135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ là 324 tỷ đồng với
183 ngàn hộ dư nợ tính đến năm 2000 tỷ lệ hộ nghèo đói trong cả nước còn 11%
giảm xuống rất nhiều so với trước đây thể hiện được chính sách cho vay đối với hộ
nghèo đạt được kết quả tốt, đời sống người dân được cải thiện nhiều, giúp nhiều hộ
trở lại cuộc sông hoà nhập với cộng đồng. Thời gian qua, tín dụng NHNg đã tập
trung đầu tư cho hộ nghèo thực sự có hiệu quả, góp phần tạo việc làm, thay đổi cơ
cấu kinh tế nông thôn, chuyển dich cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ổn định cải thiện đời
sống vật chất, tinh thần cho dân nghèo. Đến nay, theo báo cáo của các chi nhánh
vốn NHNg đã góp phần giúp cho 425 ngàn hộ thoát khỏi ngưỡng nghèo đói, vươn
lên hoà mhập với cộng đồng.
III) Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng của NHNg đối với hộ
nông dân nghèo.
1) Giải pháp về huy động vốn:
- 15 -
Để NHNg có thể phát triển bền vững thì cần phải có một nguồn vốn tương đối
lớn. Muốn vậy phải tập trung mọi nguồn vốn tài trợ gắn với xoá đói giảm nghèo
mà lâu nay đang được các bộ, các ngành, các cấp, tổ chức đoàn thể quần chúng
quản lý về một đầu mối là NHNg quản lý và cho vay. Không thể tồn tại mãi tình
trạng nhiều chương trình hỗ trợ vốn cho nông nghiệp nông thôn, cho mục tiêu xoá
đói giảm nghèo mà người nghèo lại thiếu vốn sản xuất, Cho nên phải chú trọng
việc huy động vốn, bảo toàn vầ không ngừng phát triển nguồn vốn vì NHNg hoạt
động vì mục tiêu xoá đói giảm nghèo không vì mục tiêu lợi nhuận.
- Đối với nguồn vốn từ ngân sách: Để từng bước thực hiện chương trình xoá đói
giảm nghèo, Nhà nước cần phải dành một tỷ lệ nhất định trong các khoản chi ngân
sách hàng năm để lập các quỹ tài trợ cho chương trình dự án quốc gia như: Quỹ
giải quyết việc làm, quỹ bảo trợ nông nghiệp, quỹ xoá đói giảm nghèo... Thực tế
cho thấy, việc hỗ trợ vốn cho người nghèo với hình thức cấp phát của ngân sách
sẽ không mang lại hiệu quả kinh tế cao, tạo tâm lý mong chờ ỷ lại đối với người
nghèo và số vốn sẽ không được sử dụng vào mục đích sản xuất mà chỉ đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng. Để vốn tài trợ của Nhà nước sử dụng đúng mục đích, đúng đối
tuượng và phát huy được hiệu quả cần phải thực hiện thông qua kênh tín dụng. Vì
vậy, Nhà nước nên có kế hoạch và phương án chuyển số vốn tài trợ hàng năm về
phát triển nông thôn theo các chương trình dự án xoá đói giảm nghèo, giải quyết
việc làm...qua hệ thống NHNg để quản lý và cho vay với một mức lãi suất thống
nhất thì mới phát huy tốt hiệu quả các chương trình.
- Đối với nguồn vốn tài trợ của các tổ chức cá nhân, nguồn vốn đống góp quỹ
xoá đói giảm nghèo từ cán bộ công nhân viên chức, trong dân cư và cộng đồng
những người nghèo để không ngừng phát triển quỹ cho vay, tạo điều kiện cho
NHNg hoạt động chủ động hơn. Ngoài nguồn vốn đóng góp bắt buộc của các ngân
hàng thương mại, NHNg có thể huy động nguồn vốn tài trợ từ các tổ chức kinh tế
tài chính, tín dụng và cá nhân trong nước và ngoài nước,nguồn vốn này được hình
- 16 -
thành từ việc trích một phần vốn kinh doanh, nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức,
cá nhân để tài trợ theo các chương trình nhân đạo, từ thiện hoặc cho vay với lãi suất
ưu đãi vì mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Để khơi tăng nguồn vốn này NHNg cần
phải :
+ Thực hiện tốt hơn nữa việc cho vay hộ nông dân nghèo từ quỹ cho vay
ưu đãi hộ nghèo và các nguồn vốn tài trợ theo chương trình dự án của Chính phủ.
+ Phối kết hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, ban xoá đói giảm
nghèo các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể, các cơ quan hữu quan để xây dựng
các chương trình dự án xoá đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp nông thôn có
tính khả thi nhằm thu hút các nguồn vốn tài trợ cả trong và ngoài nước.
+ Cùng với các cơ quan đoàn thể, tổ chức hiệp hội tuyên truyền vận động
mọi cán bộ công nhân viên chức, mọi tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội, các
doanh nghiệp... Hãy vì người nghèo mà đóng góp vào quỹ xoá đói giảm nghèo, coi
đó là lương tâm và trách nhiệm của toàn xã hội.
- Đối với nguồn vốn huy động tiền gửi tiết kiệm của hộ nông dân: Nguồn vốn
tăng trưởng thông qua huy động từ nhiều kênh nhueng không thể đáp ứng nếu như
NHNg không huy động được tiền gửi tiết kiệm của dân, nhưng nếu huy động vốn
theo lãi suất thị trường để cho vay ưu đãi là chuyện nghịch lý.Biện pháp ở đây là
Nhà nước phải có cơ chế xử lý lãi suất thích hợp. Nhiều quan điểm cho rằng hộ
nông dân nghèo không thể giữ tiết kiệm được vì mức thu nhập của họ quá thấp lại
phải dành đa phần cho ăn uống, sinh hoạt, thuốc men... thì llàm gì còn tiền gửi tiết
kiệm nữa, nhưng cũng có quan điểm cho rằng hộ nghèo vẫn có tiền để gửi tiết kiệm
vì: Bản chất người nông dân Việt Nam là cần cù và tiết kiệm, họ vẫn thường dành
dụm tiết kiệm chút vốn chắt chiu để đề phòng lúc giáp hạt, mất mùa hoặc các nhu
cầu đột xuất khác. Sản xuất và các ngành nghề phụ ở nông thôn có tính thời vụ, thu
nhập của người nông dân lại mang tính tổng hợp, ngoài thu nhập chính họ còn thu
nhập thường xuyên các nghề phụ như tăng gia mớ rau, con gà... họ có thể tích kuỹ
- 17 -
được từ đó. Nừu coi việc giữ tiền tiết kiệm như một điều kiện bắt buộc để được vay
tiền Ngân hàng thì sẽ khuyến khích hộ nông dân để dành tiền gửi.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy hầu hết các chương trình tín dụng cấp cho người
nghèo đạt kết quả không phải do việc giảm lãi suất, mà do tạo được nhiều cơ hội
làm ăn cho người nghèo, do kiểm soát khắt khe việc sử dụng vốn, gắn việc huy
động tiết kiệm bắt buộc thông qua tổ nhóm với tín dụng để tạo ý thức tiết kiệm
trong toàn dân. Để tạo thêm nguồn vón cho vay ở khu vực nông thôn, cần phải có
cơ chế chính sách, các biện pháp cần thiết đó là:
+ Phải tập trung mọi cố gắng để phát triển thị trường tiền tệ, thị trường vốn ở
nông thôn, NHNg phải có chi nhánh hoạt động ở địa bàn nông thôn, ccàn đổi mới
phương thức hoạt động, cải tiến các hình thức huy động vốn phù hợp với điều kiện
ở nông thôn đẻ khuyến khích họ đến với ngân hàng. Có cơ chế khuuyến khích băng
vật chất thích hợp với từng chi nhánh, từng cán bộ tham gia huy động vốn và cho
vay ở tận làng, ở vùng sâu, vùng xa, phối hợp với chính quyền địa phương, các tổ
chức đoàn thể quần chúng tuyên truyền vận động nhân dân tham gia gửi tiền tiết
kiệm vào ngân hàng.
+ Thực hiện cơ chế bù lỗ thích hợp, kịp thời cho NHNg để thực hiện việc cho vay
theo mức lãi suất ưu đãi mà phải sử dụngnguồn vốn huy động.
+ Thực hiện phueoeng thức huy động vốn tiết kiệm bắt buộc và tiết kiệm tự
nguyện vì hai phương thức này là yếu tố quan trọng trong việc động viên và thu hút
nguồn vốn tích luỹ của hộ nông dân nghèo, nhằm khơi tăng nguồn vốn ưu đãi để
tiếp tục mở rộng diện cho vay và mức cho vay của NHNg.
2) Những biện pháp về cho vay đối với hộ nông dân nghèo.
Để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết trung ương Đảng, NHNg cần phải có những
chương trình hành động cụ thể đối với việc thực hiện chủ trương công nghiệp hoá-
hiện đại hoá nong nghiệp nông thôn. Hệ thống ngân hàng cânf có những nỗ lực
- 18 -
tăng cường khả năng huy động vốn tại địa bàn dưới nhiều hình thức. Đặc biệt là
NHNg phải thực hiện có hiệu quả việc huy động vốn tại địa phương với lãi suất rẻ
để có đủ vốn tgực hiện các chương trình kinh tế lớn của Đảng nhằm đẩy nhanh tiến
bộ công nghiệp hoá- hiện đại hoá, đồng thời tập trung vốn về khu vực nông thôn để
tăng cường cho các ngành nghề Nông- Lâm nghiệp và phát triển ngành nghề, dich
vụ khác phát triển. Thực hiện nhiệm vụ trên, NHNg cần phải luôn chú trọng đến
hiệu quả đầu tư, phấn đấu giảm dư nợ quá hạn ở mức thập nhất góp phần củng cố
và làm mạnh hoá hệ thống ngân hàng. Để đánh giá đúng thực trạng và hiệu quả
hoạt động của NHNg trong thời gian tới cần phải thực hiện các biện pháp về cho
vay đối với hộ nông dân nghèo sau:
2.1. Xác đinh đối tượng cho vay:
Đối tượng phục vụ của NHNg là những hộ nghèo thiếu vốn sản xuất, kinh
doanh nhưng phải có năng lực sản xuất. Hiện nay theo thông báo của Bộ lao động
thương binh- xã hội: “Về việc: Xác định chuẩn mực hộ đói nghèo cho năm 1997-
1998(chuẩn mực tối thiểu)”.
- Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người hàng tháng quy đổi ra gạo và
giá trị tương đương:
+ Dưới 25 Kg gạo (tương đương 90000 đồng) ở thành thị.
+ Dưới 20 Kg gạo (tương đương 70000 đồng) ở nông thôn, đồng bằng và
trung du.
+ Dưới 15 Kg gạo (tương đương 55000 đồng) ở nông thôn miền núi và hải
đảo.
- Hộ đói là hộ có thu nhập bình quân đầu người hàng tháng quy đổi ra gạo và giá
trị tương đương: Dưới 13 Kg gạo (tương đương 45000 đồng).
2.2. Xác đinh điều kiện cho vay:
Hộ nông dân nghèo muốn vay vốn NHNg thì phải hội đủ điều kiện sau đây:
- 19 -