Đặt tên con
Đặt tên con theo các loài hoa: Dùng hoa để đặt tên cho con, đầu tiên phải hiểu rõ tính cách, đặc điểm của các loài hoa, để từ đó có thể hiểu rõ được ý nghĩa của loài hoa mà bạn dùng để đặt tên cho con mình, và để các bạn có thể sáng tạo ra một cái tên cũng không kém phần ý nghĩa để đặt riêng cho con mình.
Contents
ĐẶT TÊN CON THEO CÁC LOẠI HOA......................................................................................1
6 THANH CỦA TIẾNG VIỆT........................................................................................................9
ÂM DƯƠNG - NGŨ HÀNH CỦA TIẾNG VIỆT.......................................................................10
TƯƠNG ỨNG CỦA SÁU THANH TIẾNG VIỆT VỚI NGŨ HÀNH......................................12
ÂM DƯƠNG CỦA THANH TRONG NGÔN NGỮ VĂN HỌC...............................................13
NGŨ HÀNH NẠP ÂM..................................................................................................................16
ĐẶT TÊN CON THEO CÁC LOẠI HOA
Dùng hoa để đặt tên cho con, đầu tiên phải hiểu rõ tính cách, đặc điểm của các loài hoa,
để từ đó có thể hiểu rõ được ý nghĩa của loài hoa mà bạn dùng để đặt tên cho con mình,
và để các bạn có thể sáng tạo ra một cái tên cũng không kém phần ý nghĩa để đặt riêng
cho con mình. Chúng tôi xin giới thiệu những loài hoa phổ biến nhất với tư cách tên
người, và cũng là những loài hoa nổi tiếng, đẹp và rất giàu ý nghĩa.
Từ xưa tới nay, các loài hoa là một trong những ứng cử viên sáng giá thường được người Việt
Nam và Trung Quốc dùng để đặt tên, đặc biệt họ thích dùng hoa để so sánh với vẻ đẹp của
người con gái, ví dụ như: Mai, Đỗ Quyên, Thủy Tiên, Mẫu Đơn…, bởi bản thân hoa có ý
nghĩa phong phú, có thể nói mỗi loài hoa mang một ý nghĩa riêng của mình. Ở một số nước
còn có “quốc hoa” của mình, như Mẫu Đơn được tôn vinh là “quốc sắc thiên hương”
tượng trưng cho sắc vẻ của đất nước Trung Quốc, Anh Đào tượng trưng cho Nhật
Bản, người Chilê lại yêu thích loài hoa Bách Hợp (chỉ mọi sự đều hòa hợp, tốt lành)…
Có thể nói rằng người nào đặt tên con theo tên các loài hoa là người rất am hiểu và yêu quý
các loài hoa.
Nếu dùng hoa để đặt tên cho con, đầu tiên phải hiểu rõ tính cách, đặc điểm của các loài hoa,
để từ đó có thể hiểu rõ được ý nghĩa của loài hoa mà bạn dùng để đặt tên cho con mình, và
để các bạn có thể sáng tạo ra một cái tên cũng không kém phần ý nghĩa để đặt riêng cho con
mình. Chúng tôi xin giới thiệu những loài hoa phổ biến nhất với tư cách tên người, và cũng là
những loài hoa nổi tiếng, đẹp và rất giàu ý nghĩa.
HOA MAI: Nhà thơ Viên Mai thời Tống (Trung Quốc) đã miêu tả về cốt cách kiên cường,
hương thơm êm dịu của hoa Mai như sau: Trong khi các loài hoa khác phải cúi đầu khuất
phục trước giá rét tê tái của mùa đông khắc nghiệt thì chỉ có hoa Mai vẫn kiên cường ngẩng
cao đầu, nở những bông sặc sỡ sắc màu. Và sắc màu thanh khiết nhưng đầy tự tin ấy choáng
ngợp không gia u tối, lạnh lẽo của đêm đông giá rét, nó như thắp sáng lên ngọn lửa ấm cho
các loài hoa khác.
Hoa Mai hay còn gọi là “Xuân Mai” là loài
hoa từ màu sắc, hương thơm đến tư thế
đều khiến các loài hoa khác phải ngưỡng
mộ. Có rất nhiều người thích hoa Mai và
cũng có rất nhiều người lấy hoa Mai để đặt
tên, ví dụ như Hiểu Mai, Đông Mai, Tú
Mai, Ngọc Mai, Nguyệt Mai, Tố Mai,
Hoàng Mai… Những cái tên này rất dễ
nghe, nhưng nếu thấy nhiều người đặt tên như thế thì bạn hoàn toàn có thể tìm hiểu thêm ý
nghĩa của loài hoa này (hoa Mai không những có cái thanh tao, trong trắng của tuyết, mà còn
có mùi hương quyến rũ, lan tỏa) để tự sáng tạo ra một cái tên thật hay và mang nét đặc trưng
nhất của loài hoa này cho con mình.
HOA MẪU ĐƠN- được tôn vinh là “quốc sắc thiên hương” tượng trưng cho sắc vẻ của đất
nước Trung Quốc
HOA ĐỖ QUYÊN: Đỗ Quyên hay còn gọi là ánh Sơn Hồng, hoa Ứng Xuân, mọc rộng rãi ở
vùng Tây Nam Trung Quốc, là một trong những loài hoa nổi tiếng, đẹp vào hiếm. Ở Việt
Nam, loài hoa này mọc rất nhiều ở vách đá của một thác nước nổi tiếng trong rừng quốc gia
Bạch Mã, thác Đỗ Quyên – dòng thác mang tên loài hoa này.
Đỗ Quyên có thể phân ra làm nhiều loài như Đỗ Quyên tuyết, Đỗ Quyên gấm vân, Đỗ Quyên
cảo nguyệt… nở vào hai mùa xuân, hạ trong năm. Hoa có hình hoa sen, hình hoa cúc, hình hoa
Tú Cầu dáng hoa mẫu đơn, dáng hoa nguyệt quý… với màu sắc hết sức phong phú như màu
hồng nhạt, hồng đậm, hồng đào, màu đỏ, trắng, vàng, màu da cam, xanh. Đỗ Quyên là một
loài cây chịu được giá rét, có thể sống được 100 năm, một cây có thể nở hơn 1000 bông hoa.
Hoa Đỗ Quyên thời kì nở rộ đẹp lộng lẫy mê hồn.
Dùng hoa Đỗ Quyên làm tên, ngoài tên gọi Đỗ Quyên, còn có thể tách ra và có thể lựa chọn
sắc thái màu sắc để kết hợp lại, ví dụ Hồng Quyên, Bạch Quyên, Hoàng Quyên… Hoặc bạn
có thể lấy cách gọi nho nhã của Đỗ Quyên để đặt tên như Thiên Hương, ví dụ Trương Thiên
Hương, Trịnh Thiên Hương.
THỦY TIÊN: Thủy Tiên cũng được liệt vào hàng Top 10 hoa đẹp nhất Trung Quốc. Cành
của Thủy Tiên thẳng và trên cành đó mọc ra 4-8 bông hoa nhỏ màu trắng, mùi thơm của hoa
tỏa ra sẽ làm ngây ngất lòng người. Đặc tính của Thủy Tiên là mùi hương không quyến rũ,
nhưng dáng hoa lại thướt tha yểu điệu như thần như tiên. Thủy Tiên, với đặc tính này của
mình, rất xứng đáng để bạn chọn làm tên cho con gái mình.
BÁCH HỢP (HUỆ TÂY): Cây hoa Bách Hợp cao khoảng 1m, hoa nở vào mùa hạ, có thể nở
từ một đến bốn bông trên cùng một cành, hoa có màu trắng sữa, mùi rất thơm.
Hai chữ “Bách Hợp” là ý chỉ mọi sự được hòa thuận, tốt lành, nên nhiều người khi tặng hoa
cho bạn bè thường chọn mua hoa Bách Hợp. Tức là hoa này có hàm ý cát tường, nên chọn loài
hoa này để đặt tên cho con là rất hợp lý, chỉ có điều hai chữ Bách Hợp nghe có vẻ giống tên
nam giới mà thôi.
HOA LÊ (LÊ HOA): Hoa Lê thuộc họ cây Tường Vi, có màu trắng, thời kì hoa nở rực rỡ
nhất thì toàn bộ cây được bao bọc bởi màu trắng xóa như tuyết, trông rất đẹp mắt.
Trong lịch sử đã không ít danh nhân miêu tả đặc tính của hoa
Lê: một loài hoa thanh khiết, trắng trong. Lấy chứ hoa Lê để
đặt tên tương đối dễ nghe, ví dụ như: Phạm Lê Hoa, Phan Lê
Hoa, Hà Lê Hoa…
HỢP LAN (HỢP HOAN, DẠ LÝ HƯƠNG): Hợp Lan cũng có thể gọi là “cây dạ hợp”. Cây
Hợp Hoan này có thân cao khoảng 16m, trên ngọn cây có hình ô, lá nhỏ và hoa chỉ nở về đêm.
Hợp Hoan là loài hoa rất đẹp, thuộc dạng khó kiếm. Khi hoa Hợp Hoan nở vào những đêm
mùa hạ, đưa hoa lên mũi ngửi bạn sẽ cảm nhận được ngay
mùi hương quyến rũ lòng người của nó.
Lấy tên Hợp Lan, hoặc Hợp Hoan để đặt tên cho con thì có
nghĩa là cầu mong cho gia đình được vui vẻ.
HOA ĐẠI LỆ: Hoa Đại Lệ cũng có thể
gọi là hoa Đỗ Quyên thiên tiếu. Đại Lệ có khoảng 3000 loài và là
loài hoa nổi tiếng trên thế giới. Hoa chia làm hai loại là hoa đơn và
hoa kép. Loài hoa này có hình dáng giống hoa Thược Dược, hình cầu,
hình tổ ong… màu sắc vô cùng phong phú: màu phấn hồng, hồng
tím, màu trắng, màu vàng.
Bạn có thể dùng hai chữ Lệ Hoa từ tên hoa này để đặt tên cho con.
CÁT TƯỜNG THẢO: Cát Tường Thảo thuộc họ cây bách hợp.
Loài hoa này có chiều cao từ 25 đến 35cm, màu xanh đậm, nhưng
đến mùa đông và hạ thường xanh nhạt. Cát Tường Thảo thường
nở hoa vào mùa hạ hoặc mùa thu, hoa có màu đỏ tía và có mùi rất
thơm, quả của cây có hình cầu sắc đỏ, điều hay của loài cây này là
nhìn lá có thể đoán được quả.
Lấy Cát Tường Thảo để đặt tên có thể giản lược thành hai từ “Cát
Thảo”, vì bản thân chữ cát đã bao hàm nghĩa là Cát Tường (may
mắn). Tên Cát Thảo có thể hơi lạ nhưng rất dễ nghe và hay nữa.
HOA NGỌC TRÂM: Nhà thơ Xuân Diệu đã tả
về hoa Ngọc Trâm như sau:
Lá biếc đơn sơ, cánh nuột nà,
Rung rinh trên nước một cành hoa.
Ngọc Trâm còn được gọi là “Ngọc xuân bồng”, thuộc họ cây Bách Hợp. Ngọc Trâm có chiều
cao từ 75cm trở lên, nở hoa màu trắng và nở vào ban đêm. Hoa có mùi thơm rất ngào ngạt.
Để con mang tên hoa Ngọc Trâm là cách
đặt tên khá phổ biến của nhiều người.
HOA TRƯỜNG XUÂN: Hoa Trường
Xuân có nguồn gốc ở châu Phi. Chiều cao
của hoa khoảng 60cm, tán hoa có màu đỏ
sẫm của hoa hồng, giống khác của loài hoa
này là Bạch hoa và Bạch hoa hồng tâm, các
giống hoa này đều vô cùng xinh đẹp nho
nhã.Hoa Trường Xuân là loài hoa cỏ thuộc
diện đẹp nhưng nhã nhặn. Nếu bạn thích
con mình xinh đẹp nho nhã bạn có thể lấy
tên của hoa Trường Xuân đặt cho con bạn.
Cách gọi khác của loài hoa này là Sơn
Phàm.
HOA TRÀ (SƠN TRÀ): Hoa Sơn Trà cũng được gọi là hoa Trà, hoa Nại đông (hoa chịu được
mùa đông giá rét). Lá hoa trà có nhiều loại: lá đơn, lá kép, lá nửa đơn nửa kép. Hoa có dáng
hoa mai, hoa sen, hoa mẫu đơn với màu sắc đa dạng không kém gì hoa Đỗ Quyên: màu hồng
đậm, hồng phớt, hồng đào, màu trắng ngọc, trắng sữa, và một số hoa có màu lốm đốm, màu
vằn trên cánh hoa. Trong số các màu của hoa thì màu hồng là quý phái trang trọng nhất gọi là
“Kim Trà”. Vào đời Kim Đường (Trung Quốc), Trà được mệnh danh là loài hoa làm ngây ngất
lòng người.
Dùng hoa Trà để đặt tên cho con, bạn có thể học tập cách tưởng tượng phong phú lãng mạn
của người Trung Quốc như: nếu họ Chu có thể đặt tên con gái là Chu Kim Trà. Hoặc có thể
dùng cách gọi khác của hoa Sơn Trà là “Hải Hồng” để đặt tên gọi như Nguyễn Hải Hồng
(hoa Trà màu hồng)…
HOA NGUYỆT QUẾ: Nguyệt Quế hay
còn gọi là hoa Trường Xuân, Hồng Nguyệt
Nguyệt là loài hoa rất nổi tiếng trên thế
giới, vì nó vừa có hương lại vừa có sắc.
Nguyệt Quế, với hơn 20.000 loài, được
xếp vào một trong 10 loài hoa nổi tiếng của
người Trung Quốc. Hoa có nhiều màu sắc
như: màu trắng, màu phấn hồng, màu hồng
đào, màu mận chín… Nguyệt Quế có khả
năng chịu giá rét cao. Thân cây cao từ 2m
trở lên. Vòng nguyệt quế, làm từ hoa
Nguyệt Quế, đã được dùng làm phần
thưởng cho người chiến thắng tại các cuộc
thi đấu Olympic của người Hy Lạp cổ đại.
Để con mình mang tên hoa Nguyệt Quế là điều rất
tuyệt vời. Nhưng căn cứ vào các loài hoa Nguyệt Quế
khác nhau (Nguyệt Quế Hòa bình, Nguyệt Quế Vân
hương, Nguyệt Quế Minh tinh siêu cấp, Chi Nguyệt
Quế, Quế Thanh…) bạn cũng có thể đặt cho con
những cái tên khác có nguồn gốc từ loài hoa này như Vân Hương, Hòa Bình…
HOA HẢI ĐƯỜNG: Theo sự tích, Hải Đường mang tên vị linh mục Kamelia, một người
châu Âu đã đến Nhật Bản truyền đạo. Hải Đường còn được gọi là Hải Đường Lê Hoa. Cây
hoa Hải Đường cao khoảng 8m, khi còn là nụ, hoa Hải Đường có màu trắng, còn khi đã nở
thành hoa thì có màu hồng. Có nhiều loại Hải đường khác nhau: Hải Đường Trắng, Hải
Đường Đỏ…
Các văn nhân Trung Quốc trước kia đã gọi Hải
Đường là “mắt xanh”, họ miêu tả loài hoa này
giống như má hồng của các thiếu nữ khi thẹn
thùng hay xấu hổ với ai đó. Hải Đường là loài
hoa vừa thuần khiết vừa quý phái nhưng màu
sắc của hoa lại không kém phần tươi mới, nên
Hải Đường rất thích hợp để đặt tên cho những
người con gái đẹp.
HOA TỬ VI: Tử Vi là loài hoa rất lâu tàn, không dễ gì bị tàn úa. Thời gian hoa nở đến khi
hoa tàn có khi kéo dài từ hai tháng đến nửa năm. Hoa Tử Vi có nhiều màu sắc: hồng, trắng,
xanh thẫm, đỏ thẫm… Loài hoa này có nhiều giống khác như Ngân Vi, Thuý Vi. Vì hoa rất
lâu tàn nên nó còn có một tên gọi nhã xưng khác là Hồng Bách Nhật. Dưới góc độ tên của hoa
thì Tử Vi là một cái tên đẹp, mĩ miều, bạn có thể lấy tên Tử Vi, hoặc Ngân Vi, Thuý Vi để
đặt tên cho con mình.
PHÙ DUNG: Trái với Tử Vi, Phù Dung là loài hoa sớm nở tối tàn.
Nhưng điều đặc biệt lý thú của loài hoa này là tự đổi màu theo
thời điểm: buổi sáng tinh mơ hoa có màu trắng phớt, đến giữa trưa
có màu đỏ đậm, còn lúc chiều tà hoa lại ngả màu đỏ sẫm, và trên
một cành cây vừa có hoa màu đỏ lại vừa có hoa màu trắng. Có
người nói rằng nếu được ngắm cây Phù Dung đương độ khoe sắc
với cảnh cả hoa trắng lẫn hoa đổ nở cùng một cành mới cảm thấy
hết được vẻ tuyệt vời mà thiên nhiên ban tặng cho con người.
Khi lấy Phù Dung để đặt tên bạn có thể dùng trực tiếp hai chữ
“Phù Dung” hoặc chỉ cần một chữ “Dung” rồi kết hợp với một
chữ khác đều được.
MỘC LAN: Mộc Lan còn có tên gọi khác là hoa Nữ nương vì gắn với câu
chuyện về nàng Mộc Lan xinh đẹp. Mộc Lan vì thương cha già yếu,
thương em trai còn nhỏ dại nên đã giả trai thay cha tòng quân đi đánh giặc.
Sau ngày chiến thắng mọi người mới biết Mộc Lan là nữ. Xúc động trước
tấm lòng cao đẹp của nàng, tên nàng đã được tạc vào lịch sử như một dấu
ấn anh hùng của người phụ nữ Trung Quốc.
Mộc Lan còn có thể gọi là “Tử Ngọc Lan”, Hồng Ngọc Lan. Cây Lan cao khoảng 5m, nụ hoa
giống như đầu cây bút viết, hoa Mộc Lan có màu trắng bên trong và màu tím ở bên ngoài. Lấy
trực tiếp hai chữ Mộc Lan đặt tên cho con không chỉ có ý nghĩa là hoa nữ nương, mà còn
mang ý nghĩa là nữ anh hùng dân tộc Trung Quốc.
HOA HỒNG VÀ
HOA TƯỜNG
VI: Hoa Hồng là
loài cây lá rụng
thuộc họ cây
Tường Vi. Hồng
cao khoảng 2m,
cành hồng
thường rất nhiều
gai, hoa Hồng có nhiều màu sắc như hồng tím, hồng trắng, hồng đỏ, hồng vàng, hồng cam,
hồng nhung. Hoa hồng có hương thơm ngào ngạt, có thể chế biến thành nước hoa. Đặc tính
của loài hoa này là thích ánh sáng mặt và chịu được giá lạnh. Người phương Tây quan niệm
hoa Hồng là loài hoa hàm chứa tình cảm nhiều nhất, nên hai người yêu nhau thường tặng
nhau hoa Hồng để bày tỏ tình cảm. Lấy hoa Hồng để đặt tên có thể mang nghĩa là: có cái tình
sâu nặng, có cái đẹp và cả mùi thơm nữa.
Tường Vi cũng thuộc loài cây lá rụng, hoa
Tường Vi có màu trắng hoặc màu phấn hồng,
hoa có nhiều loại: Tường Vi thập tỉ muội,
Tường Vi phấn đoàn… Tường Vi là loài hoa
không chịu được trong phòng ấm, mà thích dãi
dầu với mưa nắng, rèn rũa để có sức sống
mạnh mẽ. Những người thích tính cách này của
Tường Vi có thể để con mình mang tên loài hoa
này. Bạn có thể dùng chữ Tường (Tường Anh)
hoặc cả hai chữ Tường Vi để đặt tên cho con
đều được.
GIỚI THIỆU VỀ KHOA HỌC ĐẶT TÊN
Việc đặt tên có ý nghĩa vô cùng quan trọng, cái tên có vai trò ảnh hưởng rất nhiều đến vận
mệnh của cả một đời người. Cái tên của mỗi người chính là biểu tượng phản ánh toàn bộ
chủ thể bản thân con người ấy. Cái tên cũng dùng rất nhiều trong giao tiếp, trong học tập,
sinh hoạt, công việc hàng ngày. Vì lẽ đó, cái tên tạo thành một trường năng lượng có ảnh
hưởng vô cùng quan trọng đến vận mệnh mỗi con người.
Từ xa xưa cha ông ta đã lưu ý rất nhiều khi đặt tên cho con cháu mình, thời Phong Kiến,
người xưa có quan niệm rằng kỵ đặt tên phạm huý, tức là tên trùng với tên họ của vua quan
quý tộc, như thế sẽ bất lợi cho con cháu. Ngoài ra, cũng kỵ đặt những tên quá mỹ miều, sợ
quỷ thần ghen ghét làm hại nên lúc nhỏ sẽ khó nuôi. Những người có học hành, chữ nghĩa thì
đặt tên con cháu theo những ý nghĩa đặc trưng của Nho Giáo như Trung, Nghĩa, Hiếu, Thiện,
…
Ngày nay việc đặt tên có xu hướng phóng khoáng hơn xưa nhưng cái tên vẫn có một ý nghĩa
vô cùng quan trọng, không những chỉ mang yếu tố mỹ cảm mà về yếu tố Âm Dương, Ngũ
Hành cái tên còn có vai trò rất quan trọng trong việc cải tạo vận mệnh của mỗi người.
Tổng quan những lý thuyết quan trọng cho việc đặt tên bao hàm những yếu tố sau:
- Cái tên được đặt phải phù hợp với truyền thống của mỗi dòng họ. Từ xưa đến nay trong
văn hoá Việt Nam nói riêng và văn hoá Á Đông nói chung đề cao vai trò của gia đình, dòng họ.
Con cháu phải kế thừa và phát huy được những truyền thống của tổ tiên gia tộc mình. Điều
này thể hiện trong phả hệ, những người cùng một tổ, một chi thường mang một họ, đệm
giống nhau với ý nghĩa mang tính kế thừa đặc trưng của mỗi chi, mỗi họ như họ Vũ Khắc,
Nguyễn Đức,…
- Tên được đặt trên cơ sở tôn trọng cha, ông của mình, như tên kỵ đặt trùng với tên ông, bà,
chú, bác…điều này rất quan trọng trong văn hoá truyền thống uống ước nhớ nguồn của Việt
Nam ta.
- Tên phải có ý nghĩa cao đẹp, gợi lên một ý chí, một biểu tượng, một khát vọng, một tính
chất tốt đẹp trong đời sống. Như cha mẹ đặt tên con là Thành Đạt hy vọng người con sẽ làm
nên sự nghiệp. Cha mẹ đặt tên con là Trung Hiếu hy vọng người con giữ trọn đạo với gia
đình và tổ quốc.
- Bản thân tên phải có ý nghĩa tốt lành, đã được đúc kết và nghiệm lý theo thời gian như tên
Bảo, Minh thường an lành hạnh phúc. Kỵ những tên xấu như Lệ, Tài,…vì những tên này có ý
nghĩa không tốt đẹp đã được kiểm chứng trong nhiều thế hệ.
- Tên bao gồm 3 phần là phần họ, đệm và tên. 3 phần này trong tên đại diện cho Tam Tài
Thiên - Địa – Nhân tương hợp. Phần họ đại diện cho Thiên, tức yếu tố gốc rễ truyền thừa từ
dòng họ. Phần đệm đại diện cho Địa tức yếu tố hậu thiên hỗ trợ cho bản mệnh. Phần tên đại
diện cho Nhân tức là yếu tố của chính bản thân cá nhân đó. Thiên - Địa – Nhân phối hợp phải
nằm trong thế tương sinh. Mỗi phần mang một ngũ hành khác nhau, việc phối hợp phải tạo
thành thế tương sinh, kỵ tương khắc. Ví dụ như Thiên = Mộc, Địa = Hoả, Nhân = Thổ tạo
thành thế Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim là rất tốt. Nếu Thiên = Mộc, Địa =
Thổ, Nhân = Thuỷ tạo thành thế tương khắc là rất xấu. Yếu tố này cũng có thể nói gọn là tên
phải cân bằng về Ngũ Hành.
- Tên phải cân bằng về mặt Âm Dương, những vần bằng thuộc Âm, vần trắc thuộc
Dương. Trong tên phải có vần bằng, trắc cân đối, kỵ thái quá hoặc bất cập. Ví dụ như Thái
Phú Quốc quá nhiều vần trắc, Dương cường, Âm nhược nên luận là xấu. Tên Thái Phú Minh
luận là Âm Dương cân bằng nên tốt hơn.
- Yếu tố rất quan trọng của tên ngoài việc cân bằng về Âm Dương, Ngũ Hành còn phải
đảm bảo yếu tố hỗ trợ cho bản mệnh. Ví dụ, bản mệnh trong Tứ Trụ thiếu hành Thuỷ thì tên
phải thuộc Thuỷ để bổ trợ cho mệnh, vì thế tên phải đặt là Thuỷ, Hà, Sương,…
- Tên còn cần phối hợp tạo thành quẻ trong Kinh Dịch, quẻ phải tốt lành như Thái, Gia
Nhân, Càn, tránh những quẻ xấu nhiều tai hoạ rủi ro như quẻ Bĩ, Truân, Kiển,…Quẻ cũng
cần phối hợp tốt với Âm Dương Bát Quái của bản mệnh.
Ví dụ về đặt tên : nữ sinh năm Giáp Thân, trong Tứ Trụ mệnh thiếu Kim, nên dùng tên bổ trợ
hành Kim cho bản mệnh. Tên đặt Nguyễn Thái Ngọc Nhi. Sau đây phân tích những yếu tố tốt
của tên này:
1. Ngũ Hành tương sinh : Họ Nguyễn = Mộc sinh Thái = Hoả sinh Ngọc = Thổ sinh Nhi =
Kim. Ngũ Hành tạo thành vòng tương sinh hỗ trợ cho bản mệnh thiếu Kim
2. Tên này Âm Dương cân bằng vì hai vần bằng trắc cân đối ngụ ý một đời sống an lành, tốt
đẹp
3. Ý nghĩa của tên trong Hán văn có nghĩa là viên ngọc quý, hàm ý một đời sống sang trọng,
đầy đủ
4. Phối quẻ được quẻ Dự là một quẻ tốt cho nữ số.
Những người có tên không tốt hoặc vận mệnh đang gặp khó khăn trở ngại thì đổi tên là một
trong những phương pháp hiệu quả để cải tạo vận mệnh của chính mình.
Tóm lại, đặt tên tốt là một việc rất khó khăn, bao hàm rất nhiều yếu tố phối kết hợp để tạo
thành một tên đẹp theo nghĩa mỹ cảm lẫn Âm Dương, Ngũ Hành, hầu đem lại cho người
mang tên đó một sự hỗ trợ cần thiết cho cuộc sống tốt lành trong tương lai, để rạng danh
được dòng họ của mình, mang lại sự nghiệp tốt đẹp cho bản thân và xã hội.
Trân trọng cảm ơn quý vị đã tín nhiệm và tin tưởng dịch vụ của chúng tôi!
6 THANH CỦA TIẾNG VIỆT
Khi tìm lại trong vốn hiểu biết của mình, tôi nhận ra rằng: yếu tố chủ đạo của tiếng
Việt, cũng giống như tiếng nói của các dân tộc anh em trong nước, chúng đều do kết
hợp giữa Thanh và Âm mà thành.
Nhưng xem xét kỹ thêm, tôi thấy ở tiếng Việt, nhân tố tập quán, qui ước xã hội nằm ở yếu
tố ÂM chiếm phần nhiều; nhân tố bản năng tự nhiên thì ngược lại, nó nằm trọn vẹn ở trong
yếu tố THANH.Tôi đã trình bày những chứng cứ rõ rệt trong cách đặt tên cho 6 thanh tiếng
Việt của cổ nhân, gồm: Thượng thanh, Khứ thanh, Đoản bình thanh, Trường bình thanh,
Hồi thanh và Hạ thanh.
Các cụ xưa xếp thứ tự 6 thanh từ cao xuống thấp là có dụng ý, mỗi thanh dựa vào một dáng
đầu và cổ con người khi phát âm ra tiếng có thanh đó như sau:
Thượng Thanh : Khi nói, dáng đầu và cổ ngửa lên cao đến mức có thể. Đường đi của hơi
thanh ra thẳng hướng đầu và cổ.
Khứ thanh : Khi nói, dáng đầu và cổ hơi ngửa lên, tiếng phát ra bay đi rất xa. Đường đi của
hơi thanh ở phần cuối hất vọt lên, như vấp phải vật cản.
Đoản bình thanh : Khi nói, dáng đầu và cổ ngay ngắn, ngang bằng, như nhìn về đường chân
trời. Đường đi của hơi thanh ngắn.
Trường bình thanh : Khi nói, dáng đầu và cổ ngay ngắn, ngang bằng. Đường đi của hơi
thanh dài, đồng thời từ từ hạ thấp xuống một chút ít.
Hồi thanh : Khi nói, dáng đầu và cổ cúi nhanh xuống, liền theo đó, đưa dáng đầu và cổ về tư
thế ngang bằng, ngay ngắn. Đường đi của hơi thanh giống như một vật thể có tính đàn hồi,
khi rơi xuống đất liền bị nẩy vòng trở lại. Hoặc như tiếng nói hướng vào trong hang đá, có sự
vang vọng trở lại.
Hạ thanh : Khi nói, dáng đầu và cổ cúi gập xuống rất nhanh, giữ nguyên dáng đó cho tới khi
hoàn thành âm từ. Đường đi của hơi thanh như rơi thẳng xuống rất nhanh và bị giữ ngay lại ở
dưới đó.
Đầu đời nhà nguyễn, một vị linh mục nước ngoài đến truyền đạo Gia Tô ở nước ta, ngài
được chúa Nguyễn yêu mến ban cho tên là Bá Đa Lộc. Do yêu cầu của việc biên soạn sách
Giáo Lý, sách kinh thánh, ngài đã cùng các giáo đồ là sỹ phu phong kiến Việt Nam, đem mẫu
tự la - tinh ghép lại thành chữ Việt mới, thay cho cách dùng chữ Hán cổ ghép vần thành chữ
Nôm trước đó vẫn dùng . Các vị này đã theo đúng những mô tả về dáng đầu và cổ khi người
nói, theo diễn tiến đường đi của từng hơi thanh, dùng cách mô phỏng bằng nét bút vẽ lại, nay
ta gọi đó là dấu của thanh tiếng Việt. Trong 6 thanh, có một thanh không mang dấu, 5 thanh
còn lại, mỗi thanh mang một dấu riêng. Dấu của thanh như sau :
Thượng thanh : Mang dấu sắc,ghi ở phía trên các nguyên âm, như: Á,ắ, ấ, é, ế, í, ó, ố, ớ, ú,
ứ.
Khứ thanh : Mang dấu ngã, ghi ở phía trên các nguyên âm, như : A, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư.
Trường bình thanh : Mang dấu huyền, ghi ở phía trên các nguyên âm, như : À, ằ, ầ, è, ề, ì, ò,
ồ, ờ, ù, ừ.
Đoản bình thanh : Không mang theo dấu, như : A, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư.
Hồi thanh : Mang dấu hỏi, ghi ở phía trên các nguyên âm, như : Ả, ẳ, ẩ, ẻ, ể, ỉ, ỏ, ổ, ở, ủ, ử.
Hạ thanh : Mang dấu nặng, ghi ở phía dưới nguyên âm, như : Ạ, ặ. ậ, ẹ, ị, ọ, ộ, ợ, ụ, ự.
Các dấu thanh này, cùng với các nguyên âm của tiếng Việt, đã làm cho chữ Việt Nam, văn
Việt Nam trở thành công cụ truyền tải thứ ngôn ngữ giầu nhạc tính, mang đậm sắc thái rất
riêng biệt của Việt Nam.
ÂM DƯƠNG - NGŨ HÀNH CỦA TIẾNG VIỆT
Âm dương: Âm, dương là hai loại khí lớn trong vũ đại trụ.Theo học thuyết Âm –
dương, khí tĩnh thuộc âm, khí động thuộc dương. Khí âm dương trong vũ trị, tuy thuộc
tính của chũng đối nghịch, nhưng chúng luôn bám chặt lấy nhau, hỗ trợ nhau sinh
thành. Kiềm chế nhau trong khuôn khổ, giữ cho mối tổng hoà được tồn tại trọn vẹn
bền vững.
Các cụ ta xưa cũng chia 6 thanh tiếng Việt làm hai loại : Thanh bằng và thanh trắc.
Thanh bằng
Là âm thanh của tiếng nói êm ái, hiền hoà, mang tính tĩnh. Thuộc tính âm, chúng gồm có hai
thanh, đoản bình thanh và trường bình thanh.
Thanh trắc
Là âm thanh của tiếng nói ở những cung bậc cao thấp khác với thanh bằng. Âm thanh phát ra
trúc trắc, uốn lượn, cộc cằn, mang tính động cao, thuộc dương tính. Chúng gồm các thanh:
Thượng, khứ, hồi, và hạ thanh.
Qui phạm sáng tác thơ văn cổ Việt Nam, cân bằng âm dương trong từ ngữ được coi là khuôn
vàng, thước ngọc, gọi là niêm luật. Khi muốn học thơ, văn, trước hết phải học niêm luật. Xin
lấy một bài mẫu niêm luật của thể thơ thất ngôn tứ tuyệt làm ví dụ:
Bằng bằng trắc trắc trắc bằng bằng,
Trắc trắc bằng bằng trắc trắc bằng,
Bằng trắc trắc bằng bằng trắc trắc,
Trắc bằng bằng trắc trắc bằng bằng.
Trong ví dụ trên, chúng ta thấy sự đối nghịch bằng, trắc trong từng câu, giữa các cặp câu rất
rõ rệt. Nhưng tổng thể các đối nghịch đó đã được tạo dựng thành một bức tranh giai điệu của
âm thanh có bố cục chặt chẽ, đẹp đẽ, khó bề làm khác đi được.
Ngũ hành
Ngũ hành là năm loại khí hoá. Chúng là tác nhân biến hoá vạn vật.
Khí hóa ở bốn mùa là: Xuân sinh; hạ trưởng; trưởng hạ hoá; thu thâu; đông tàng.
Khí hoá thấy rõ nhất ở các loài: Xuân cây ( Mộc ); hạ lửa ( Hoả ); trưởng hạ đất ( Thổ ); thu
quặng đá kết tinh ( Kim ); đông nước đông lại thành băng ( Thuỷ ). Năm loài này được dùng
làm đại biểu khí hoá của ngũ hành: Mộc, Hoả, Thổ, Kim, Thuỷ.
Khí hoá ở bốn phương là: Phương đông hành Mộc; phương nam hành Hỏa; trung ương hành
Thổ; phương tây hành Kim; phương bắc hành Thuỷ.
Khí hoá ở vị trí cao thấp là: Mẳt trời trên cao nhất, hành Hoả; loài cây ở dưới mặt trời, nhưng
cao hơn mặt đất, hành Mộc; đất ở dưới loài cây, hành Thổ; loài quặng, đá ở dưới đất, hành
Kim; nước sinh ra từ dưới các lớp đất, đá, hành Thuỷ.
6 thanh của tiếng Việt, theo tương ứng vị trí của ngũ hành cao thấp khác nhau, phân
thành năm hành như sau:
Thượng thanh ở vị trí cao nhất, hành Hoả.
Khứ thanh, vị trí dưới thượng thanh, hành Mộc.
Đoản bình thanh và trường bình thanh, vị trí đều ở dưới khứ thanh, lại ở giữa sáu thanh, hành
Thổ.
Hồi thanh, vị trí ở dưới trường bình thanh, hành Kim.
Hạ thanh, vị trí ở dưới hồi thanh, hành Thuỷ.
TƯƠNG ỨNG CỦA SÁU THANH TIẾNG VIỆT VỚI NGŨ HÀNH
Qui luật tương ứng ngũ hành là ngũ hành tương ứng với vạn sự, vạn vật, mọi trạng
thái. Mọi hiện tượng của vạn vật trong vũ trụ luận Phương Đông. Tương ứng giữa 6
thanh tiếng Việt với sinh lý, tâm lý người Việt không ngoài quy luật chung đó.
Y học phương Đông đưa ra hệ thống tương ứng ngũ hành với tạng phủ, với sinh lý, tâm lý, ý
thức con người, cùng với các loại tương ứng khác. Những tương ứng này dùng vào chẩn
đoán, điều trị, dinh dưỡng, bảo vệ sức khoẻ con người hiệu quả, đã qua nhiều ngàn năm lịch
sử kiểm nghiệm.
Ngôn ngữ tiếng Việt là phương tiện chuyển tải nhận thức, tâm lý, tình cảm cá với nhân trong
cộng đồng. Nhưng những nhận thức, tâm lý, tình cảmcủa con người đều là sản phẩm từ hoạt
động của sinh lý con người sinh ra. Do vậy, nó không nằm ngoài quy luật tương ứng chung
của học thuyết Ngũ hành.
Tương ứng giữa âm thanh, từ ngữ tiếng Việt với tâm sinh lý người Việt như sau:
Những âm thanh từ ngữ mang dấu sắc:
Thượng thanh, hành hoả tương ứng với tạng Tâm, thần minh vui vẻ.
Những âm thanh từ ngữ mang dấu ngã:
Khứ thanh, hành mộc, tương ứng với tạng can, với quyết đoán cắu giận.
Những âm thanh từ ngữ không mang dấu và mang dấu huyền:
Đoản bình thanh và trường bình thanh, hành Thổ, tương ứng với tạng Tỳ, lo toan trìu mến.
Những âm thanh từ ngữ mang dấu hỏi:
Hồi thanh, hành Kim, tương ứng với tạng Phế, trị tiết ( chính xác, tiết kiệm ), buồn rầu.
Những âm thanh, từ ngữ mang dấu nặng:
Hành Thuỷ, tương ứng với tạng thận, dè sẻn, sợ hãi.
Một câu nói, một câu văn, gồm nhiều âm thanh, nhiều từ ngữ hợp thành. Nội dung nhận thức,
tình cảm chuyển tải trong đó, bao gồm tập hợp của số hành theo dấu thanh trong câu.
Ngoài những đề mục kể trên, còn có nhiều dẫn chứng sống động về tương ứng Âm dương –
Ngũ hành với ngôn ngữ văn học Việt Nam, với ngôn ngữ giao tiếp đời thường Việt Nam, với
ngôn ngữ các địa phương khác nhau về địa lý, nhưng chung tiếng nói Việt Nam.
ÂM DƯƠNG CỦA THANH TRONG NGÔN NGỮ VĂN HỌC
Mỗi tiểu phẩm văn học là kết cấu của ngôn ngữ, cũng là kết cấu của các thanh, nó phải
tuân theo quy luật tự nhiên. Trước hết, về nội dung, luôn luôn trong một tiểu phẩm
phải có hai vế, vế nêu vấn đề và vế làm trọn vấn đề. Nêu vấn đề là dương, làm trọn
vấn đề là âm. Đó là hai mặt âm dương của tiểu phẩm.
Một số nội dung nữa là số lượng từ ngữ trong tiểu phẩm được chia ra làm hai loại. Thanh
bằng và thanh trắc, đó là âm dương của ngôn ngữ.
Xin lấy ca dao, câu đối để phân tích các nội dung âm dương vừa nêu trên như sau:
Ca dao, câu đối có chung một hình thức hai vế, vế trước là vế nêu vấn đề, nêu câu hỏi, câu đố
là vế dương theo nghĩa phát tán; vế sau phải giải đáp vấn đề, bổ sung, đối chọi để trọn vẹn ý
nghĩa của tiểu phẩm, đó là vế âm, theo nghĩa âm thu nạp.
Để đảm bảo đúng ý nghĩa của vế, nội dung của từng vế phải hoàn toàn phụ thuộc và nội
dung âm dương của thanh, cũng như nội dung tình cảm của cả tiểu phẩm, tuỳ theo tỷ lệ giữa
hai loại thanh âm (bằng) và dương (trắc) quyết định.
Để dễ khái quát khi đánh giá một nội dung một tiểu phẩm xin quy nạp theo bảng như sau:
Dương
Nêu vấn đề
Thanh trắc ( Có số lượng thanh trắc nhiều hơn thanh bằng)
Tình cảm sôi nổi, biến động hơn
Âm
Bổ túc vấn đề
Thanh bằng ( Có số lượng thanh bằng nhiều hơn thanh trắc)
Tình cảm êm ái dịu dàng hơn
Những tiểu phẩm có số lượng thanh âm và thanh dương bằng nhau hoặc chênh nhau ít là
những tiểu phẩm có nội dung đấu tranh, phê phán mạnh mẽ.
Xin nêu mấy ví dụ để minh hoạ cho quy luật tình cảm tự nhiên của số lượng thanh âm, dương
như sau:
Về câu ca dao:
Câu 1:
Con cò bay lả bay la
Bay từ đồng ruộng bay ra phố phường
Để dễ phân tích trước hết ta đánh dấu âm dương cho các từ trong câu:
Con cò bay lả bay la
- - - + - -
Bay từ đồng ruộng bay ra phố phường
- - - + - - + -
Trong câu ca dao này, vế nêu vấn đề có nội dung tình cảm nhẹ nhàng, man mác, êm ái, cho nên
trong sáu thanh thì có một thanh dương ở từ “lả”, vế bổ túc vấn đề có nội dung tình cảm
biến điệu phong phú hơn cho nên trong 8 thanh đã có 2 thanh dương ở những từ “ruộng, phố”.
Nội dung của tiểu phẩm này có tính nhẹ nhàng êm ái cho nên trong tổng số 14 thanh thì có 3 là
dương, 11 là âm.
Câu 2:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?
Ta đánh âm dương cho các từ trong câu:
Hỡi cô tát nước bên đàng
+ - + + - -
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi ?
- - + + - - + -
Trong câu ca dao thứ hai này, vế nêu vấn đề có nội dung tình cảm gay gắt, trịnh thượng cho
nên trong 6 từ thì đã có đến 3 từ là thanh dương; ở vế thứ 2 tuy vẫn là câu hỏi, nhưng nội dung
tình cảm đã ngả sang trữ tình, có hình ảnh thơ mộng hơn cho nên trong 8 từ chỉ có 3 thanh
dương, còn lại 5 thanh âm.
Nội dung tiểu phẩm là một câu hỏi có tính chất gợi mở, bắt đầu bằng một câu chuyện tình tự
nhưng chưa có lời đáp nên tổng số từ trong tiểu phẩm có 14 từ có tới 6 thanh dương và 8 thanh
âm, tỷ lệ âm dương chênh nhau ít là sự gay cấn vướng mắc tình cảm.
Về câu đối, xin lấy 2 câu đối của Cao Bá Quát làm minh hoạ như sau:
Câu thứ nhất:
Ông nghè ra vế đối: Ngói đỏ lợp nghè, lớp trên đè lớp dưới
Ông Quát đối : Đá xanh xây cống, hòn dưới nống hòn trên.
Ta đánh dấu âm dương cho các từ trong hai vế đối:
Ngói đỏ lợp nghè, lớp trên đè lớp dưới
+ + + - + - - + -
Đá xanh xây cống, hòn dưới nống hòn trên
+ - - + - + + - -
Theo quy luật, ngoài vế đối ý, Đối nghĩa của từ (ngày xưa gọi là nghĩa bóng và nghĩa đen),
người đối còn phải đối về tính chất âm dương của từng từ theo thứ tự âm dương của câu đối.
Theo quy luật tình cảm mà xét, ta thấy vế ra đối có 9 từ, trong đó 6 thanh dương và 3 thanh
âm, tính chất dương lấn át âm, nó rất phù hợp ý của ông nghè mượn thế bề trên cả về tuổi
đời và học vị, dùng hình ảnh ngôn ngữ trấn áp như “lợp, đè”, và buộc đối phương chỉ được
phép đối lại với nội dung cho phép trong phạm vi từ ngữ có 6 thanh âm và 3 thanh dương.
Cao Bá Quát vốn có hiểu biết sâu sắc về bản chất ngôn ngữ tiếng Việt, ngoài việc dùng từ
ngữ có đối về ý, về phương của nghĩa từ như nống đối với đè, xanh đối với đỏ, dưới đối với
trên, đá đối với ngói, ông còn phá bỏ tỉ lệ bắt buộc phải có trong vế đối về âm dương là 6 - ; 3
+ thay vào đó bằng tỷ lệ 5 -; 4 +. Tỷ lệ được ông dùng 5 -, 4 + đã bộc lộ tâm trạng gay gắt của
ông, thanh được thay thế để có tỷ lệ mới này lại nằm ở từ đầu tiên của vế đối, từ được dùng
là “đá” đối với “ngói” thì rất là chỉnh. Ông nghè tuy hiểu rằng Quát rất coi thường ông nhưng
về tài văn chương của Quát thì đã tỏ ra xuất chúng nên ông nghè đành phải chấp nhận một sự
thật cay đắng chà xát vào tính cao ngạo của nghè.
Câu thứ hai:
Vua Minh Mạng ra: Nước trong leo lẻo cá đớp cá
Cao Bá Quát đối: Trời nắng chang chang người trói người.
Câu đối này được ra và đối trong điều kiện người học trò trẻ bị trói trước Thiên tử dưới chế
độ phong khiến. Cái chết, cái sống của cậu học trò vi phạm điều cấm về nghi lễ chỉ được
giải thoát bằng tài văn chương như ông vua đã hoạch định, và chỉ trong khoảnh khắc ngắn
ngủi, ông đối.
Ta cũng đem đánh dấu âm dương của từ ngữ ở cả hai vế đối như sau:
Nước trong leo lẻo cá đớp cá
+ - - + + + +
Trời nắng chang chang người trói người.
- + - - - + -
Trong câu này ta bỏ qua các vấn đề về ngữ nghĩa, chỉ xét về tài năng của ông Quát về âm
dương của từ ta thấy như sau:
Trước mặt là thiên tử, một ông vua hay chữ, Cao Bá Quát buộc mình phải tuân theo luật đối.
Trong vế ra đối có 5 +, 2 -, tất nhiên vế đối phải là 5 – và 2+, về điều này Quát phải
không được sai phạm như đối với lần gặp ông nghè, nhưng do tính chất kiêu kỳ, ương ngạch
của tài năng, tuy vẫn giữ đúng tỷ lệ âm dương, nhưng ông đã đổi vị trí của một thanh dương
về vị trí cần thiết nhất, làm cho vế đối giữ được khí phách của ông. Vế đối không hề mềm
yếu trước uy quyền, trái lại, sức tố cáo có âm vang truyền cảm thắng cả uy lực trong lòng ông
vua ham văn chương thời đó.
Bảng so sánh âm dương trong câu đối 2
Theo luật Thực tế Cao Ba Quát đã đối
Ra +- -++++ 5+, 2 - + - - + + + + 5 +, 2-
Đối -++---- 5- , 2 + - + - - - + - 5-, 2+
Ở trong câu đối này, phần cuối cùng của vế trên và vế dưới mới là nội dung chủ yếu của câu
đối, tỷ lệ theo luật, muốn đối lại với ba từ “Cá đớp cá” thì phải có ba từ đều là thanh bằng cả,
Cao Bá Quát đã khôn khéo đưa từ ở vị trí thứ 3 chuyển sang thanh bằng rồi dùng thanh trắc ở
đó chuyển xuống vị trí thứ 6 để cho ba thanh cuối có một thanh trắc là dương, làm cho nội
dung tình cảm mạnh mẽ hơn nhiều lên.
Đối với văn xuôi, nội dung của từng phần cũng như của toàn bài đều nằm trong quy luật tự
nhiên của tình cảm như trên. Tôi xin chọn một bài văn xuôi tả người trong sách giáo khoa thư
ngày xưa có bố cục ngắn gọn để dễ minh hoạ, đó là bài tả người nghiện thuốc phiện như sau:
Mở bài: Trông thầy chánh còm ai ai cũng biết là người nghiện.
Thân bài: Trước kia thầy là người béo tốt, phương phi, tinh nhanh, khôn khéo, mà bây giờ
mặt bủng da chì, so vai sụt cổ, giọng nói khàn khàn, cái môi thâm xịt, trông người lẻo khẻo
như cò hương.
Kết luận: Thầy mới ăn thuốc phiện mấy năm nay mà đã khác hẳn đi như vậy.
Phần mở đầu gồm 10 từ, trong đó 6 thanh âm và 4 thanh dương, phù hợp với tình cảm nội
dung tuy là nêu vấn đề để phê phán nhưng gay cấn chưa nhiều cho nên số thanh âm nhiều hơn
dương.
Phần thân bài có 39 từ, trong đó có 25 thanh âm và 14 thanh dương. Trong phần này nếu xét
từng đoạn ngắn chúng ta thấy có nhiều khúc biên độ chênh lệch, cao thấp của các thanh cạnh
nhau là rất nhiều, chứng tỏ sự phân tích là kỹ càng , tỷ mỷ về mọi nhẽ, nhưng nhìn chung tất
cả ta thấy tỷ lệ thanh âm nhiều hơn thanh dương cho nên tình cảm vẫn thiên về sự xót xa, tiếc
thương.
Phần kết luận có 15 từ, gồm 7 thanh âm và 8 thanh dương. Tỷ lệ xấp xỉ nhau về âm dương
trong số thanh ở phần này phù hợp với nội dung đấu tranh phê phán trong nội dung tư tưởng ,
tình cảm của tác giả.
Nhìn chung toàn bộ bài có 54 từ, trong đó 38 thanh âm, 16 thanh dương, tình cảm chung toàn
bài là có đấu tranh, phê phán nhưng vẫn còn là rất êm ái, dịu dàng, thiên về xót xa thương cảm.
NGŨ HÀNH NẠP ÂM
Thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết về vũ trụ và con người có từ lâu đời. Nền
tảng của nó về phương diện khoa học thì chưa được bàn đến một cách rốt ráo. Nhưng
những ứng dụng của nó trong cuộc sống hàng ngày thì đã trở thành quen thuộc. Bài viết này
sẽ giải thích về thuyết Âm Dương Ngũ hành và cách ứng dụng của nó trong việc lựa chọn
nhân sự, đối tác trong công việc lẫn trong cuộc sống.
Vừa qua, NgocCup có đọc một số thảo luận của các bạn ở chủ đề "Tam hợp&Tứ hành
xung", qua đó thấy nhiều bạn trẻ có những ngộ nhận về một chuyện đã được tổng kết có
nền tảng lý luận và được ứng dụng phổ biến xưa nay, nên Cup tôi viết bài này để làm rõ vấn
đề.
Trước khi nói về chuyện ứng dụng xét hợp khắc của một mối quan hệ, Cúp tôi bắt đầu bằng
giải thích sơ lược về thuyết Ngũ hành và Ngũ hành nạp âm
của bản mệnh.
Thuyết Âm Dương Ngũ hành: Đây thực ra là 2 thuyết khác
nhau, nhưng tạo thành nền tảng luận lý cho quan điểm
Phương Đông về vũ trụ, nên được gộp chung làm một. Âm
Dương là quy luật bao trùm vũ trụ, mọi thứ sinh ra đều có
thuộc tính âm hoặc dương. Ngũ hành, gồm Kim, Thuỷ, Mộc, Hoả, Thổ cũng là như thế, mỗi
thứ đều có thuộc tính ngũ hành.
Tuy nhiên, thuộc tính ngũ hành chỉ là "tượng", tức là tên gọi của "khí", không phản ánh bản
chất thật của cấu trúc duy lý của "thể". Có nghĩa là một vật thuộc ngũ hành là "thuỷ", không
có nghĩa vật ấy là nước. Cũng như bạn sinh vào năm 1982, bản mệnh là Thuỷ, thì khí chất
của bạn thuộc "Thuỷ", chứ bạn không phải là "nước".
Quan hệ giữa năm hành là quan hệ sinh khắc. Tính theo thứ tự Kim, Thuỷ, Mộc, Hoả, Thổ thì
2 hành kề nhau là tương sinh, 2 hành cách nhau là tương khắc. Quan hệ này cũng chỉ diễn ra
theo chiều thuận, tức Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh
Kim. Khắc là Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ. Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc
Kim.
Ngoài quan hệ này, khi phân Âm Dương của hành, ứng dụng lý động của Dịch, người ta còn
thấy một quan hệ nữa, gọi là "ký tế". Tức là Thuỷ khắc Hoả, nhưng Âm Hoả, khi thịnh lại
cầm giữ không cho Dương Thuỷ vượng. Chữ "ký tế" được dùng cũng là tên của quẻ thứ 63
của Dịch (nghĩa quẻ là cầm giữ, lộn xộn, chưa xong).
Ngũ hành nạp âm: Mỗi một niên giáp gồm có 2 thành tố:
thiên can và địa chi. Thiên can gồm Giáp Ất (Mộc), Bính
Đinh (Hoả), Mậu Kỷ (Thổ), Canh Tân (Kim), Nhâm Quý
(Thuỷ). Địa chi gồm Dần Mão (mộc), Thìn (Thổ), Tỵ Ngọ
(Hoả), Mùi (Thổ), Thân Dậu (Kim), Tuất (Thổ), Hợi Tý
(Thuỷ). Phối hợp của 10 can và 12 chi thành 60 hoa giáp, từ
Giáp Tý đến Quý Hợi là 60 năm.
Sự phối hợp của Thiên can và Địa chi lại ra một ngũ hành
mới, gọi là ngũ hành nạp âm. Nguyên lý của ngũ hành nạp
âm của cổ nhân vẫn có nhiều điều chưa rõ, chỉ biết là nó
được chia theo các cung của nhạc lý cổ (Cung Thương Cốc
Chuỷ Vũ), nên gọi là nạp âm. Sự phối hợp này dẫn đến
như tuổi 1972 là Nhâm (Thuỷ) Tý (Thuỷ) lại là Mộc, còn
1975 Ất (Mộc) Mão (Mộc) lại là Thuỷ.
Mỗi nạp âm còn có một "tượng" đi theo, như Mộc thì có Bình địa Mộc, Tùng bách Mộc, Tang
đố Mộc..., Thuỷ thì có Giản hạ Thuỷ, Đại hải Thuỷ, Trường lưu Thuỷ...
Ứng dụng của việc xét sinh khắc: Theo quan niệm Phương Đông, mỗi con người là một
tiểu vũ trụ, nên chịu chi phối bởi các quy luật vũ trụ, trong đó hiển nhiên là bị chi phối bởi
quy luật sinh khắc của Âm Dương Ngũ hành.
Việc xét sinh khắc có thể chia nhỏ thành 2 quy tắc như sau:
Quy tắc 1: Trong quan hệ tương sinh, hành được sinh (sinh nhập) hưởng lợi, hành bị sinh
(sinh xuất) sẽ bị hao. Trong quan hệ tương khắc, thì hành khắc (khắc xuất) sẽ vất vả, còn
hành bị khắc (khắc xuất) sẽ lao đao.
Quy tắc 2: Quan hệ ngôi thứ bên ngoài phải phản ánh đúng quan hệ sinh khắc. Đây cũng
chính là nguyên lý "chính danh" mà ta thấy từ Nho giáo. Theo quy tắc này, thì việc lựa chọn
đối tác, vợ chồng, cấp trên, cấp dưới phải đúng ngôi thứ.
Kết hợp 2 quy tắc trên, ta có thể đưa ra vài nguyên tắc chung:
1) Chọn cấp dưới: Nếu bạn muốn có một cấp dưới tuyệt đối phục tùng, thì nên chọn một
người có bổn mệnh bị khắc. Như người mệnh Kim, nên chọn cấp dưới là mệnh Mộc, người
mệnh Thuỷ nên chọn cấp dưới là người mệnh Hoả...
Nhưng nếu bạn muốn chọn một người có khả năng
suy nghĩ độc lập hơn, không bị bạn chế áp hoàn toàn,
thì nên chọn một người có bổn mạng sinh xuất cho
bạn.
2) Chọn bạn làm ăn: Việc chọn đối tác là việc cần kỹ
lưỡng. Đầu tiên là bạn phải cân nhắc về mình và lựa
chọn vai trò của mình trong quan hệ đối tác đó. Nếu bạn đủ năng lực đứng đầu, hãy làm ăn
với người sinh xuất cho bạn. Nếu bạn là người quyết đoán, nên chọn đối tác bị bạn khắc.
Còn nếu bạn thiếu khả năng quyết định, hay cần có ai đó đứng cao hơn mình, thì đừng ngại
việc chọn một người mà mệnh của bạn sinh xuất cho người đó. Dĩ nhiên, không nên chọn
người mà bổn mệnh của bạn bị khắc (lép vế đủ đường).
3) Chọn vợ chồng: Do ngôi thứ của quan hệ vợ chồng bao giờ cũng coi chồng là chính, vợ là
phụ, nên gia đạo sẽ yên ổn nếu mệnh của vợ bị mệnh của chồng khắc (bảo đảm phục tùng)
hoặc mệnh vợ sinh cho mệnh chồng (vượng phu). Nhưng nếu chồng lớn tuổi, có vai vế hơn
vợ nhiều, thì cũng không ngại nếu mệnh chồng sinh xuất cho mệnh vợ (kiểu chồng chiều
chuộng, bao bọc vợ). Tối kỵ là mệnh chồng bị mệnh vợ khắc xuất.
Một số quan niệm không đúng, hoặc không đủ nguyên lý nền tảng:
1) Tính hợp xung dựa trên chi của tuổi: Địa chi của tuổi (Tý, Sửu, Dần, Mão...) không quan
trọng. Nên tuổi trong tam hợp vẫn có thể bị xung khắc. Cũng không có lý do gì sợ các tuổi
như Thìn Tuất, Sửu Mùi, Dần Thân, Tý Ngọ... vì đó chỉ là những cặp cung xung chiếu nhau
trên đồ bàn tử vi, không liên quan đến chuyện xung hợp tuổi.
2) Tính xung hợp dựa trên can của tuổi: Tương tự như trên, thiên can không có vai trò gì trong
cách tính hợp xung cả. Thiên can, Địa chi chỉ quan trọng với từng tuổi một mà thôi. Nói thêm,
Thiên can, Địa chi và ngũ hành nạp âm có thể coi là 3 yếu tố Thiên, Địa, Nhân của mệnh, ví
như tuổi Nhâm Tý, do cả can và chi đều thuộc Thuỷ, trong khi nạp âm là Mộc, nên mệnh
được Thiên Địa nuôi dưỡng, thành ra tuổi này là tuổi Thiên Địa đồng quy. Như Canh Tý, thì
Canh thuộc Kim, Tý thuộc Thuỷ, nạp âm là Mộc nên đây là tuổi may mắn (do Kim sinh Thuỷ,
Thuỷ dưỡng Mộc), còn gọi là tuổi Bạch Mã quá giang (như con ngựa của Huyền Trang, chỉ vì
chở thầy qua sông mà may mắn thành Phật).
3) Tính xung hợp trên tượng của nạp âm: Có người lý luận Sơn đầu Hoả (lửa trên núi) làm
sao bị Đại hải Thuỷ (nước biển lớn) khắc được. Hay Kiếm phong Kim (vàng đầu lưỡi kiếm)
làm sao bị Tích lịch Hoả (lửa sấm sét) khắc được. Hay lý luận Bình địa Mộc (cây cỏ) là một
loại tiểu mộc nên không thể hưởng lợi từ Đại hải Thuỷ. Chưa có một nguyên lý nào ủng hộ
những luận điểm này, và về nguyên tắc, không thể lấy tượng (tức là hình thức bề ngoài) để
xét cho thể (là chất bên trong), nên đây là cách lý luận thiếu cơ sở.
Trên đây là những kiến thức nền tảng. Mong là các bạn cảm thấy những quan điểm, đúng sai
được tường minh rõ ràng.