Công nghệ tác tử trong quản lý mạng Internet
Callback là một tính năng của PPP rất có ích trong việc giảm thiểu chi phí truyền dữ liệu đồng thời cung cấp cơ chế bảo mật thông tin. Quá trình Callback diễn ra như sau.
Công nghệ tác tử trong quản lý mạng Internet
Nguồn : quantrimang.com
PPP Callback
Callback là một tính năng của PPP rất có ích trong việc giảm thiểu chi phí truyền dữ liệu
đồng thời cung cấp cơ chế bảo mật thông tin. Quá trình Callback diễn ra như sau.
1. Client khởi tạo cuộc gọi. Đồng thời client request dịch vụ callback cùng với các
lựa chọn thông số khác của kết nối trong pha LCP negotiation (cấu trúc trường
Callback Option Message trong PPP được định nghĩa chi tiết trong RFC 1570).
2. Callback request được acknowledgement bởi server và server sau đó sẽ kiểm tra
thông số cấu hình của nó xem việc kích hoạt dịch vụ này là có được phép hay
không.
3. Việc chứng thực người dùng diễn ra và client username được sử dụng trong dialer
map để xác định dial string sử dụng trong cuộc gọi ngược lại.
4. Nếu chứng thực thành công nhưng lựa chọn dịch vụ callback là không được phép
thì cuộc gọi vẫn tiếp tục và client sẽ là người trả tiền cho cuộc gọi, nếu chứng thực
không thành công server sẽ hủy cuộc gọi.
5. Client được gọi bởi server bằng chuỗi dial string được cấu hình cho cuộc gọi đảo
chiều.
6. Thực hiện chứng thực lần nữa.
7. Kết nối tiếp tục.
Trong trường hợp lý tưởng, để đảm bảo cơ chế bảo mật tối đa, tiến trình callback nên
được thực hiện trên một modem riêng phía server độc lập với kết nối modem nhận dữ
liệu đến. ISDN sử dụng kênh D độc lập cho việc thực hiện callback. Việc này không
những cho phép bảo mật tốt hơn mà còn tiết kiệm được chi phí vì trong cuộc gói dial up,
do dữ liệu chứng thực và LCP negotiation được truyền chung trên đường truyền dữ liệu
nên người dùng sẽ phải chịu cả phần chi phí để gửi đi các thông tin overhead đó.
Link Quality Monitoring (LQM)
Tính năng này chỉ được thực hiện trên các liên kết synchronous chuẩn. Chất lượng đường
truyền được giám sát dựa trên phần trăm thông tin được truyền và nhận thành công trong
một khoảng thời gian nhất định. Các Link Quality Reports (LQR) chứa các bộ đếm cho
phép xác định chất lượng dữ liệu inbound và outbound. Echo Requests cũng được gửi
định kỳ, nếu , sau một số echo requests nhất định, không nhận được echo replies, phiên
truyền của các NCP sẽ bị hủy.
RFC 1333 mô tả Link Quality Monitoring.
Compression
Việc nén dữ liệu có thể là nén mềm sử dụng một số tiện ích như Wellfleet Compression
Protocol (WCP) (giao thức này được sử dụng trong các router của Nortel) và cho hiệu
quả tốt nhất trên những đường truyền tốc độ chậm (128Kb/s or less).
Thuật toán Lempel-Ziv (LZS) (RFC 1974) cung cấp cơ chế nén và giải nén nhanh dữ
liệu. Thuật toán này được sử dụng trong cơ chế nén STAC trong PPP, ISDN và Frame
Relay.
Các cơ chế nén trên chỉ được áp dụng cho dữ liệu của các giao thức lớp 3 (IPCP và
IPXCP), mà không ảnh hưởng đến traffic của các giao thức LCP và NCP lớp 2. Cơ chế
nén theo giao thức WCP chỉ chạy giữa 2 router của Nortel vì WCP gán một giá trị
protocol vào trường protocol a protocol value in the protocol field that is proprietory to
Nortel Networks.
Bộ đệm dữ liệu history hoạt động ở cả 2 đầu, các chuỗi data đã truyền và nhận sẽ được
lưu ở đó. Khi thực hiện một lượt truyền mới, các chuỗi mới sẽ được so sánh với các chuỗi
đã truyền lưu trong bộ đệm, nếu trùng khớp toàn bộ hoặc một phần thì dữ liệu sẽ không
được gửi đi toàn bộ mà chỉ phần sai khác được gửi đi. Bên nhận cũng thực hiện việc so
khớp tương tự với bộ đệm history của mình để lấy ra được dữ liệu phiên trước để ghép
với dữ liệu mới tạo thành thông tin hoàn chỉnh.
Nortel cung cấp hai chế độ nén:
Continuous Packet Compression: The history buffer spans multiple packets,
•
which means more memory is used up, but produces greater compression ratio.
Packet-by-Packet Compression: The history buffer is reset with each packet,
•
which means less memory is used but the compression ratio is not as great.
Cisco, cũng có hai chế độ nén riêng:
Stacker - which examines the data and only sends each data type once and sends
•
information indicating to the other end where each type occurs within the data
stream. The other end reassembles the data into the various data types from the
data stream. Stacker tends to be more CPU intensive and less memory intensive.
Predictor – phân tích dữ liệu để kiểm tra xem nó đã được nén chưa và chỉ truyền
•
đi các thông tin đã được nén, như vậy sẽ không mất thời gian nén lại các dữ liệu đã
được nén Predictor tốn nhiều memory hơn và tốn ít CPU hơn.
Việc nén lại dữ liệu đã được nén thường thêm vào frame các overhead do đó trên thực tế,
dữ liệu về bản chất lại nở ra một chút (mặc dù ở đây thực hiện việc nén). Hơn nữa,việc
thực hiẹn nén một cách không hợp lý sẽ chiếm CPU một cách không cần thiết.
Multilink PPP Interleaving
Có một số lựa chọn cho LCP, một trong số đó là multilink với interleaving. Để multilink
PPP hoạt động, PPP packets được chia cắt và đánh số sequence numbers để các packets
lớn có thể chia được trên một số đường PPP links. Các số liệu của cơ chế này đã được
chuẩn hóa và đưa vào RFC 1717 phục vụ cho việc truyền các luồng data thời gian thực
như voice ngay cả khi PPP được sử dụng để truyền dữ liệu trên 1 link.
Một frame được chia thành nhiểu mảnh nhỏ có các trường header thu gọn và sequence
number cho riêng nó. Các gói dữ liệu Real time nhỏ thì không được chia nữa và được để
ở nguyên dạng PPP. Bên nhận sẽ phải thiết lập một hàng đợi đủ lớn để lưu, xử lý và sắp
xếp các mảnh nhỏ để tái tạo lại các frame dữ liệu lớn. Một hàng đợi riêng sẽ được thiết
lập để dành riêng cho việc xử lý các traffic dữ liệu real time. Hàng đợi này sẽ cần được
xử lý với tốc độ nhanh hơn các hàng đợi thông thường khác.
Multilink PPP (MPPP or MP)
MPPP cung cấp cơ chế phân tải trên một số giao diện thuộc các loại khác nhau như
synchronous, asychronous và ISDN.
Multilink PPP sử dụng Bandwidth Allocation Protocol (BAP & BACP) (RFC 2125) để
thay đổi động số kênh mang dữ liệu (của các loại đường truyền khác nhau) tùy thuộc vào
yêu cầu truyền. Các kênh riêng biệt này được coi như một kênh logic duy nhất hay một
bó và các PDU của lớp trên sẽ được cắt và ghép để truyền trên đường logic này.
Khung PPP có 4 byte header sequence cho PPP multilink được dùng khi cho việc chia và
đánh thứ tự cho các datagrams khi truyền trên nhiều link. Trong quá trình LCP
negotiation một peer muốn thiết lập multilink, sẽ gửi đi một Maximum Received
Reconstructed Unit (MRRU) khi thực hiện LCP negotiation, định ra kích thước của
pipe hay bundle multilink. Username sẽ được dùng để xác định bundle nào để thêm các
link vào.
Multichassis Multilink PPP là một mở rộng của Multilink PPP trong đó nhiều bearer
channels có thể đến từ nhiều thiết bị riêng biệt mà không cần thiết phải là giao diện trên
một thiết bị như multilink đơn giản.
3.1.Quản lý lỗi
Phân tích chuẩn đoán hiện trạng mạng. Các phương thức được sử dụng để mô hình hoá
mạng đều có thể được sử dụng để phân tích chẩn đoán lỗi trong mạng. Việc phát hiện
các lỗi cũng là một quá trình xây dựng một mô hình đặc biệt của mạng. Nếu các ràng
buộc cho sự tìm kiếm phát hiện mô tả các xung đột được coi là bình thường của các
thành phần mạng, thì các tác tử kiểm tra các ràng buộc đó rồi mới thực hiện chức nǎng
phát hiện lỗi. Deglet có thể được sử dụng để phản ứng lại kết quả phát hiện hoặc đưa ra
các vấn đề nghi vấn. Chúng cố gắng thu thập thêm các thông tin, thực hiện các bài kiểm
tra mở rộng hoặc thi hành các tác vụ khôi phục.
Các ràng buộc không hạn chế cho một thiết bị mạng đơn lẻ nào. Chúng có thể mã hoá
các thuật toán phức tạp với chức nǎng tìm kiếm phát hiện lỗi, và chỉ có giới hạn về kích
cỡ của netlet là liên quan trực tiếp đến khả nǎng di chuyển và khả thông của mạng. Vấn
đề đó có thể được giảm thiểu bằng cách tận dụng các ưu điểm của Java, các kĩ thuật nén
mã, và các phương thức thông minh. Các cơ sở về lý thuyết hỗ trợ kĩ thuật cho hoạt
động tác tử di động cũng đang được các tổ chức quan tâm xúc tiến nghiên cứu.
Với sự phân bố tác tử, chúng ta có một "xã hội" các tác tử có mối quan hệ với nhau mà
nhu cầu cần thiết là phối hợp để phân chia mức độ thông minh cần thiết cho việc phân
tích và phát hiện lỗi trong mạng. Một số lượng nhất định các loại tác tử tí hon được đưa
vào mạng, mỗi một loại có thể nghiên cứu giải quyết một vấn đề nào đó, và được giải
quyết bằng cách tǎng cường giả thuyết theo sự quan sát của một số lượng lớn các tác tử
cùng loại. Như vậy để có giải pháp giải quyết vấn đề trong mạng cần kết hợp các giả
thuyết được đưa ra bởi mỗi loại tác tử.
Cả hai loại tác tử netlet và deglet cùng tuân theo một cách bảo mật cung cấp trước nào
đó có thể được cho phép thực hiện các hoạt động trên các thiết bị mạng [hình 3]. Mỗi
một netlet "tích cực" có thể được sử dụng để giải quyết một vấn đề nào đó một cách tự
động theo cách khôi phục ngay tức thì khi có thể. Người quản lí mạng sẽ được thông
báo về sự kiện xảy ra hoặc được cảnh báo nếu như sự khôi phục tự động của tác tử
không thực hiện được hoặc yêu cầu sự trợ giúp từ phía người điều hành. Mức độ kĩ
thuật của mạng sẽ giảm được phần nào các lỗi xuất hiện trên mạng. Trong khi với các
deglet, mà các tác vụ được uỷ quyền khi cần thiết thông qua sự giao tiếp của tác tử với
thực thể uỷ quyền thì với netlet, chúng có thể được gán cho các tác vụ dựa theo quyền
ưu tiên do người thiết kế tự đặt hoặc được khởi động tự động như là một phần trong
mạng, kết cấu tổ chức và mật độ các netlet được điều khiển bởi các kĩ thuật bảo mật
nào đó (ví dụ, tần suất di chuyển đến các nút mạng có thể được đo và sử dụng để tái tạo
hoặc kết thúc các netlet)
Sự bảo dướng duy trì từ xa với các thành phần mạng hỗn hợp Các tác tử di động cần
phải tương tác với các nút mạng thông qua một giao diện mà tại đó cung cấp đầy đủ các
phương tiện: bảo mật, truy nhập gián tiếp đến tài nguyên của nút mạng và một số dịch
vụ đi kèm khác. Giao diện này được gọi là thành phần quản lý ảo (VMC‐Virtual Managed
Component): được thiết kế bởi nhà cung cấp thiết bị. Nó có thể nằm ngay trong thiết bị
hoặc trên proxy trong trường hợp thiết bị không có khả nǎng chấp nhận tác tử di động.
Trong thực tế, nhà cung cấp thiết bị mạng thường trang bị một phương tiên cho VMC là
khả nǎng tải được các dữ liệu về trình điều khiển thiết bị (driver), và điều này làm cho
việc quản lý các thiết bị được dễ dàng hơn. Khi thiết bị được nối mạng, nó sẽ biết được
các phương tiện có sẵn được quảng bá trong mạng. Ví dụ, một tác tử làm nhiệm vụ tìm
kiếm có thể sẽ yêu cầu một danh sách các thiết bị được hỗ trợ trong mạng, người sử
dụng dựa vào danh sách các thiết bị này để kiểm tra một thiết bị cụ thể [hình 3], nếu
như thiết bị có trong danh sách thì nó được cài đặt ngay trạm. Nó có thể thi hành trên
trình duyệt Web hoặc như một chương trình độc lập. Applet cung cấp dữ liệu và các
chức nǎng thành phần mà nhà cung cấp đã trang bị phù hợp với thiết bị: có thể đơn giản
chỉ là danh sách thiết bị đơn giản hoặc đồ hoạ của thiết bị phần cứng hoặc các dịch vụ.
Nếu thiết bị không cung cấp một applet đại diện, thì người điều hành phải điều khiển
thiết bị hoặc một thiết bị chung nhất (thường gọi là mặc định) được sử dung thay thế.
Đây cũng là giải pháp mà hiện nay các hệ thống quản lý mạng đang áp dụng trong các
tác tử. Một thiết bị không chỉ có phần đại diện được thực thi mà chúng còn phải thực thi
một giao thức truyền thông chẳng hạn như SNMP với người quản lí, để có thể nhận
được hoặc truyền đi các thông số về thiết bị. Chính điều này một lần nữa đã góp phần
làm cho việc quản lí mạng càng thêm lớn, phức tạp và bất tiện hơn. Chúng ta có thể kết
luận giải pháp các applet có thể tải về được không bị những ràng buộc trên.
Một khía cạnh hấp dấn nữa cho xu hướng trên được cung cấp bởi các kho chứa các
applet trên máy chủ, ví dụ như máy chủ của nhà cung cấp thiết bị. Và giao diện VMC
được đóng gói cùng thiết bị sẽ chứa một con trỏ trỏ đến applet trên máy chủ. Một điều
hiển nhiên là nhà cung cấp có thể duy trì kho chứa applet, cập nhật và làm cho nó thuận
tiện hơn, ví dụ bằng cách sử dụng các phần mềm. Đó cũng là một trong những xu hướng
hiện nay với các thiết bị plug‐n‐play.
Một ví dụ khác sử dụng tác tử di động để duy trì bảo dưỡng thiết bị từ xa: cung cấp dịch
vụ video theo yêu cầu. Cùng với sự phát triển của mạng trong tương lai, mà không phát
triển về việc quản lí mạng thì một điều không thể giải quyết được đó là việc phải gửi các
nhà kĩ thuật để giải quyết các lỗi về thiết bị, do có nhiều các thiết bị được cài đặt nằm rải
rác nhiều vùng địa lý‐> gây khó khǎn cho việc quản lí mạng. Để giải quyết vấn đề này
chúng ta chỉ cần gửi đi các tác tử, nó sẽ thực hiện các bài kiểm tra phù hợp và sẽ cố gắng
đưa ra các phương án giải quyết vấn đề nếu có thể, nếu không nó sẽ thông báo để con
người can thiệp. Với khả nǎng tự học thì tác tử có thể tự bồi đắp, làm giàu thêm thư
viện kiến thức của mình với các tác vụ đã thực hiện.
3.2 Quản lí cấu hình
Các dịch vụ. Việc cung cấp dịch vụ (tất nhiên ở đây ta không xét khía cạnh cấp dịch vụ
đến người sử dụng) trong mạng viễn thông cũng như mạng Internet hiện nay tương đối
phức tạp và liên quan đến nhiều thành phần. Công việc này sẽ được giảm nhẹ khi sử
dụng các tác tử di động. Ví dụ, cung cấp PVC trong mạng ATM (giả sử có mạng IPoATM).
Người điều hành sẽ mất rất nhiều thời gian với các khái niệm phức tạp của PVC để có
thể thiết lập được kết nối giữa hai tổng đài ATM, đặc biệt là hai tổng đài do hai hãng
khác nhau cung cấp. Một hệ thống tác tử (hình vẽ [4]) có thể làm nhiệm vụ này một cách
tự động: yêu cầu thiết lập PVC được gán cho deglet. Các dữ liệu cần thiết được trao đổi
giữa các EP (endpoint) deglet lấy thông tin đó qua VMC sử dụng một loại ontology xác
định trứơc. Deglet khác lại thông tin với người điều hành, các dữ liệu cần thiết được thu
gom và hoàn thành kết nối.
Các thành phần mạng. Cấu hình một thiết bị yêu cầu một số các thuộc tính trong mạng
và ở thiết bị phải được đặt tương tự như các thành phần mềm được cài đặt. Ví dụ, một
máy in cần có trình điều khiển nằm trên các trạm làm việc để các trạm này sử dụng
chúng. Hiện nay, người quản lý mạng phải thực hiện tất cả các tác vụ trên một cách thủ
công. Với sự phát triển của công nghệ tác tử thì việc sử dụng các tác tử di động sẽ đem
lại một viễn cảnh các thành phần mạng được thực thi theo xu hướng cắm và chạy (plug‐
n‐play)
Bây giờ ta phân tích kĩ hơn ví dụ nêu ở trên, cài đặt máy in trong mạng. Tác vụ này liên
quan đến mạng doanh nghiệp gồm một số các trạm làm việc với các yêu cầu khác nhau:
các trình điều khiển cần thiết cho máy in sẽ khác nhau giữa các máy tính sử dụng
Windows và OS/2, giữa các máy Maccintosh và Unix. Bây giờ ta lại giả sử rằng mạng này
lại được nối đến Internet. Để sử dụng được máy in thì các trạm làm việc cần được cung
cấp các trình điều khiển hợp lý. Nếu như máy in có đi kèm tất cả các trình điều khiển yêu
cầu hoặc hệ điều hành đã chứa các trình điều khiển đó thì công việc cài đặt máy in trên
mạng không có gì đáng nói cả, và hoán toàn có thể quản lí được. Còn trong trường hợp
không có các trình điều khiển máy in phù hợp, thì toàn bộ quá trình cài đặt sẽ gặp nhiều
khó khǎn. Sự biến đổi về topo mạng cần được quản lí ngay cả khi các máy in và các trạm
làm việc được thêm vào: các máy in phải được cho cấp phép dịch vụ, các hệ điều hành
được cập nhật.
Ta có thể mô hình hoá hệ thống quản lí cấu hình sử dụng tác tử như hình [5].
Trong đó: Execution Agent: tác tử thực thi. Monitoring Agent: tác tử giảm sát chỉ
huy.Reasoning Agent: tác tử phân tích suy luận. DBMS: hệ thống dữ liệu
Trong hình [6], chúng ta mô tả việc sử dụng các tác tử động và các tác tử tĩnh. VMC của
thiết bị mới, ở đây là máy in, bao gồm cả tác tử làm nhiệm vụ cung cấp dịch vụ. Trên kết
nối tới mạng, một số các deglet hoặc netlet được gửi đi để tìm kiếm phát hiện các thiết
bị mạng đang cần trình điều khiển máy in, sau đó nó liên hệ với trang Web của nhà cung
cấp máy in và phiên bản mới nhất của máy in sẽ được tải về. VMC của máy in có thể
chứa danh sách các thiết bị sử dụng máy in, vì vậy nó có thể kết hợp để cài đặt các trình
điều khiển mới khi cần. Máy in sẽ đǎng kí với nhà cung cấp, khi có trình điều khiển mới,
nó sẽ được tự động gửi cho tác tử cung cấp dịch vụ cho máy in. Cũng giống như các tác
tử làm nhiệm vụ phân tích lỗi, việc quản lí cấu hình cũng cần sự kết hợp của nhiều loại
tác tử đơn giản.
3.3. Quản lí hoạt động mạng
Chúng ta đều biết rằng, các khái niệm về đo kiểm đánh giá chất lượng mạng là rất khó
khǎn khi mà sử dụng một máy chủ tập trung. Trễ trên mạng là một vấn đề đối với việc
đưa ra các quyết định đo kiểm mạng. Thay vì dùng các thành phần thǎm dò từ xa, một
tác tử di động được gửi đi để thực thi sự phân tích ngay tại thành phần được đo. Các
thông tin theo cách này sẽ đúng và chính xác hơn, bởi vì chúng không chịu ảnh hưởng
của trễ trên mạng. Một kết quả tương tự có thể nhận được khi mà tiến trình điều khiển
là một phần của thành phần kiểm tra và cũng là một phần tĩnh nằm ngay trong thành
phần kiểm tra. Song giải pháp với tác tử di động là đáng quan tâm hơn cả, do nó không
đòi hỏi một tài nguyên cố định trên trạm cần đo. Và tất nhiên việc quản lí sẽ càng đơn
giản, do chúng ta hoàn toàn dễ dàng sử dụng các tác tử tiên tiến nhất mà không mất
mấy công sức, trong khi chúng ta sẽ phải rất khó khǎn để cập nhật cho các tác tử tĩnh
nằm ngay tại nơi cần đo.
Các công nghệ hot‐swapping (trao đổi thông tin nóng) cũng có thể dựa trên các đoạn mã
di động. Các bảng trao đổi đựoc áp dụng để cập nhật cho các tác tử quản lí giám sát
mạng tĩnh. Nếu các tác tử này là các ứng dụng có thể mở rộng, thì các module chứa các
đoạn mã động (extlet) được sử dụng để cập nhật mà không tạm ngưng các dịch vụ mà
ứng dụng đang cung cấp. Các module di động này không nhất thiết phải nằm ở thành
phần cập nhật, mà chỉ tải về khi cần, không giồng như việc sử dụng các applet trong các
trình duyệt Web. Một lần nữa, tác tử di động lại chứng tỏ ưu điểm: yêu cầu ít tài nguyên
hơn, thêm nữa là quá trình xử lí phân tán, cách xử lí thông minh phối hợp từ các nguồn
tài nguyên khác nhau trong quá trình đo kiểm, đánh giá.
Một ví dụ cho công nghệ trên, đó là khi server được di chuyển đến môi trường thực thi
tốt hơn, việc quyết định di chuyển sẽ yêu cầu một loạt các phân tích thông minh của
nhiều nhân tố như: yêu cầu dịch vụ, tải trên mạng, tỉ lệ lỗi, chẳng hạn người điều hành
có thể di rời dịch vụ khi nhận thấy tỉ lệ lỗi xuất hiện khi truy nhập dịch vụ của nó là
không chấp nhận được. Một trường hợp khác, server cung cấp các dịch vụ truyền thông
trong một hệ thống phân tán có thể được di chuyển nếu như các yêu cầu dịch vụ tǎng
trong một vùng nào đó. Trong tất cả các trường hợp đó, server là một tác tử di động
không có ràng buộc về kích cỡ, có thể là rất lớn.
Tuy nhiên, khi sử dụng tác tử di động trong việc quản lí hoạt động của mạng, chúng ta sẽ
gặp phải một số vấn đề. Khi sử dụng tràn lan các tác tử di động, mà không được điều
khiển, sẽ gây hiện tượng đầy tràn mạng, chiếm một tỉ lệ lớn trong tài nguyên mạng.
Chính vì thế phần nền cho các tác tử di động hoạt động cần có một số qui tắc ràng buộc
về mật độ tác tử.
3.4. Mạng plug‐n‐play
Việc sử dụng tác tử di động mở ra một hướng mới cho một mạng thống nhất: mạng
plug‐n‐play, nó có thể tự động xác định được các thiết bị, các thành phần trong mạng và
các yêu cầu của người sử dụng. Như chúng ta đã phân tích ở trên, các tác tử di động
hoàn toàn có thể can thiệp vào các quá trình cấu hình thiết bị mạng, cung cấp dịch vụ.
Nếu xet một ví dụ thực tế, các applet được sử dụng để lấy các dữ liệu trên mạng về
thông tin lưu trữ của thiết bị và của người sử dụng, và khi mạng phát triển hơn (thêm
các dịch vụ, các thiết bị), thì mạng có thể phát hiện và thay đổi dữ liệu cấu hình. Sử dụng
các tác tử di động với tác vụ uỷ quyền: cấu hình và cung cấp dịch vụ, ta hoàn toàn có thể
thực hiện được điều này. Ngoài ra mạng plug‐n‐play còn có khả nǎng phát hiện ra lỗi,
hoặc các khả nǎng xảy ra ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ hoặc vấn đề bảo mật, nó có
thể tự động sửa chữa,
4. Kết luận
Việc sử dụng công nghệ tác tử cho quản lí mạng là phù hợp và là nhu cầu tất yếu. Trong
thực tế hiện nay, các giao thức quản lí mạng như SNMP, CMIP (OSI), TNM đều đang sử
dụng công nghệ hướng đối tượng (OO‐Object Oriented) và một phần khái niệm tác tử.
Hơn thế, các tác tử thông minh một lần nữa được chứng tỏ trong việc thực thi quản lí
mạng. Tuy nhiên, do còn là một công nghệ mới, đang hoàn thiện nên công nghệ tác tử
nói chung và tác tử di động nói riêng cần được đầu tư nghiên cứu hơn nữa. Ví dụ, tác tử
di động đối mặt với vấn đề bǎng thông trong mạng client/server, với việc quản lí các tác
tử di động như thế nào cho tối ưu.
Các nhà nghiên cứu phát triển hệ thống quản lí mạng đều tin tưởng quản lí mạng dựa
trên mạng Internet sẽ mang lại kết quả hơn, và nhiều hơn khi sử dụng công nghệ tác tử.
Một xu hướng mới đang phát triển dựa trên Jini, một công nghệ tổng hợp giữa các công
nghệ remote object (điển hình là CORBA), mã di động và tác tử.