Công nghệ lai giống cây rừng
Trong những thập niên trước đây, việc trồng rừng chủ yếu là nhằm mục đích phủ xanh thì hiện nay trồng rừng sản xuất lại đòi hỏi phải có năng suất cao. Vì thế công tác giống có vai trò hết sức quan trọng...
Công nghệ lai giống cây rừng
Trong những thập niên trước đây, việc trồng rừng chủ yếu là nhằm
mục đích phủ xanh thì hiện nay trồng rừng sản xuất lại đòi hỏi phải có năng
suất cao. Vì thế công tác giống có vai trò hết sức quan trọng...
Không có giống được cải thiện và các biện pháp thâm canh thích đáng thì
không thể đưa năng suất rừng lên cao. Chính nhờ sử dụng giống lai có năng suất
cao và áp dụng các biện pháp thâm canh khác mà hiện nay diện tích đất, đồi trọc ở
nước ta đang ngày càng được thu hẹp. Năm 1997 độ che phủ chung của rừng chỉ
đạt 29% thì hết năm 2000 độ che phủ đã đạt 33,2%, có nơi như tỉnh Tuyên Quang
đã đạt 51%.
Trong hoàn cảnh như vậy, giống Keo lai (giống lai tự nhiên giữa
Keo tai tượng và Keo lá tràm đã được đánh giá qua chọn lọc và khảo nghiệm) của
Trung tâm Nghiên cứu giống cây rừng ra đời là sự đáp ứng kịp thời mong muốn
của sản xuất lâm nghiệp.
Thực tế, sự ra đời của giống Keo lai là sự mở đầu cho một phong
trào sử dụng giống có năng suất cao và nhân giống sinh dưỡng trong lâm nghiệp ở
nước ta. Tuy được phát hiện muộn hơn các nước khác, song nhờ đi đúng hướng
nên có thể nói Việt Nam là nước đầu tiên đã đưa giống Keo lai có năng suất cao và
sử dụng trong sản xuất trên quy mô lớn, trên những vùng sinh thái tốt, giống Keo
lai của ta có thể đạt năng suất 30 - 40 m3/ha/năm, nơi đất xấu giống Keo lai vẫn có
sinh trưởng gấp 1,5 - 3 lần các giống bố mẹ.
Đất trồng rừng của Việt Nam là đất trống, đồi núi trọc, nên không
thể có năng suất rừng trồng cao như ở một số nước khác. Theo TS.Chris Harwood,
chuyên gia hàng đầu của CSIRO (Ôxtrâylia), đã đánh giá cao việc gắn nghiên cứu
khoa học với sản xuất của Trung tâm Nghiên cứu giống cây rừng Việt Nam và
nhấn mạnh "không có một chiến lược có cơ sở khoa học và được thực hiện tốt thì
cả dự án có thể mất đà và bị bỏ phí vì sự phát tán của những kiểu gen cây lai thấp
kém không mong muốn".
Cùng với việc khảo nghiệm giống ở các vùng sinh thái, các nhà
khoa học Việt Nam đã nghiên cứu tiềm năng bột giấy, tính chất cơ-lý gỗ, lượng
nốt sần ở rễ và khả năng cải tạo đất của Keo lai, cũng như các phương pháp nhân
giống sinh dưỡng bằng nuôi cấy mô phân sinh và giâm hom.
Ðược sự giúp đỡ của tổ chức CSIRO, các nhà khoa học Việt Nam
đã sử dụng phương pháp phân tử đánh dấu định vị một số gen làm cơ sở cho việc
đăng ký bản quyền tác giả. Ngoài ra, Trung tâm Nghiên cứu giống cây rừng đã tổ
chức các lớp tập huấn kỹ thuật nhân giống sinh dưỡng bằng giâm hom và chuyển
giao giống gốc cho nhiều đơn vị trong cả nước, cũng như chuyển giao công nghệ
nuôi cấy mô và giống gốc cho một số đơn vị khác.
Một số cơ sở nhân giống bằng nuôi cấy mô do Trung tâm chuyển
giao như Nông lâm trường thực nghiệm Quảng Ninh đã nhân giống Keo lai hằng
năm gần một triệu cây. Nhiều cơ sở khác cũng nhân giống bằng nuôi cấy mô thành
công cho Keo lai.
Cùng với sự phát triển của giống Keo lai là phong trào nhân giống
hom và nuôi cấy mô phân sinh đang phát triển rộng rãi ở các cơ sở nghiên cứu và
sản xuất lâm nghiệp trong cả nước.
Giống Keo lai không những được sử dụng trong nước mà còn được
một số nước khác quan tâm và xin trao đổi giống, trong đó Malaixia đã nhập để
trồng trên diện rộng, Công ty Trồng rừng nguyên liệu giấy Oiji 100% vốn của
Nhật Bản cũng đang dùng giống Keo lai làm cây trồng chính ở Bình Ðịnh và
Quảng Ngãi.
Gần đây Trung tâm Nghiên cứu giống cây rừng đã chọn thêm một số giống
Keo lai tự nhiên mới, cũng như đã tiến hành lai nhân tạo thành công và đã tạo
được hàng chục tổ hợp lai khác loài giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm, từ đó đã
khảo nghiệm và chọn được một số cây tốt nhất làm cây đầu dòng tiếp tục khảo
nghiệm giống để phát triển vào sản xuất.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã coi Keo lai là một trong
những giống cây trồng chính của ngành lâm nghiệp. Theo Cục Phát triển lâm
nghiệp thì đến nay đã có 100.000 ha Keo lai được gây trồng trong cả nước, riêng
năm 2001 là 30.000 ha.
Các nhà khoa học cũng tiến hành nghiên cứu lai giống cho Bạch đàn
và đã tạo ra gần 100 tổ hợp lai khác loài cho ba loài Bạch đàn chính ở Việt Nam là
Bạch đàn urô, Bạch đàn liễu và Bạch đàn caman.
Qua khảo nghiệm, đã chọn lọc được 8 tổ hợp lai với 31 cây đầu
dòng có năng suất gấp 1,5 - 2 lần giống sản xuất tốt nhất, tương đương một số
giống tốt nhất được nhập từ Trung Quốc. Những giống này đã được Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận để khảo nghiệm khu vực hóa ở một số
vùng sinh thái chính.