Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN có đi ngược tiến trình hội nhập Quốc Tế?
Trong quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta từng bước nới lỏng các rào cản mang tính hành chính để trả về cho nền kinh tế vận hành theo đúng các quy luật vốn có của nó. Và một trong những lĩnh vực thể hiện rõ cơ chế này là chính sách điều hành lãi suất huy động vốn và cho vay của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).
CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NHNN
CÓ ĐI NGƯỢC TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ?
Ế_
Sài Gòn, ngày 23 tháng 5 năm 2008
Trong quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta từng bước nới lỏng các rào
cản mang tính hành chính để trả về cho nền kinh tế vận hành theo đúng các
quy luật vốn có của nó. Và một trong những lĩnh vực thể hiện rõ cơ chế này
là chính sách điều hành lãi suất huy động vốn và cho vay của Ngân hàng Nhà
nước (NHNN).
Đối với lãi suất huy động vốn, NHNN quy định thông qua các lần
điều chỉnh sau:
(i) Ấn định mức cố định từ ngày 01/10/1982 theo Nghị định 165/HĐBT
ngày 23/9/1982;
(ii) Khống chế chênh lệch bình quân giữa lãi suất huy động và lãi suất
cho vay là 0,35%/tháng còn mức cụ thể giao cho các NHTM tự quy
định theo Quyết định số 381/QĐ-NH1 ngày 28/12/1995;
(iii) Đến ngày 28/6/1997, lãi suất huy động vốn đã thực sự tuân theo quy
luật thị trường khi NHNN hoàn toàn trao quyền cho các NHTM
quyết định để phù hợp với thời hạn của từng loại tiền gửi, địa bàn
kinh doanh của từng tổ chức tín dụng;
(iv) Và mới đây, ngày 16/5/2008, bằng Quyết định số 16/2008/QĐ-
NHNN lãi suất huy động sẽ chính thức bị khống chế trong hạn mức
không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN quy định.
Đối với lãi suất cho vay, tính đến thời điểm này đã trải qua 06
giai đoạn chính sau:
(i) Lãi suất cho vay được ấn định mức cụ thể (Từ ngày 01/10/1982 –
01/7/1987):
- Đặt nền tản cho quy định này là Nghị định số 165/HĐBT ngày
23/9/1982. Theo đó, Nghị định xác định hai chủ thể cho vay là
Ngân hàng và Hợp tác xã (HTX) tín dụng.
Đối với Ngân hàng quy định gồm (i) cho vay vốn lưu động và
(ii) cho vay vốn cố định;
1/3
Đối với HTX Tín dụng chia mức cho vay thành mức ngắn
hạn và mức còn lại.
(ii) Áp dụng mức trần và sàn đối với lãi suất cho vay (Từ ngày
01/7/1987– 01/01/1996):
- Vào ngày 29/6/1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định
99-HĐBT quy định (i) cho vay vốn lưu động trong giới hạn 2,4%
đến 6%/tháng và (ii) cho vay vốn cố định từ 2,1% đến
5,4%/tháng.
(iii) Áp dụng mức trần lãi suất cho vay (Từ ngày 01/01/1996 –
05/8/2000):
- Với quyết định 381/QĐ-NH1 ngày 28/12/1995, NHNN chính thức
bỏ mức sàn mà chỉ áp dụng trần lãi suất cho vay.
(iv) Lãi suất cho vay được vận dụng bằng cơ chế lãi suất cơ bản cộng
với biên độ giao động trong từng thời kỳ (Từ ngày 05/8/2000 –
01/6/2002)
- Theo quyết định số 241/2000/QĐ-NHNN1 ngày 02/8/2000, lãi
suất cho vay của các NHTM không phải tuân theo mức trần.
NHNN chính thức công bố định kỳ lãi suất cơ bản và biên độ
giao động. NHTM sẽ tự mình đưa ra các mức lãi suất cho phù
hợp với tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh.
(v) Lãi suất thỏa thuận (Từ ngày 01/6/2002 – 19/5/2008):
- Theo quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002 lãi suất
cho vay được hoàn toàn thả nổi theo nguyên tắc tự do thỏa thuận
giữa bên đi vay và NHTM;
- Cũng cần nói thêm rằng, trước đó vào ngày 29/5/2001 NHNN đã
chính thức thả nổi lãi suất cho vay bằng USD cho các NHTM
theo Quyết định số 718/2001/QĐ-NHNN.
(vi) Áp dụng mức trần lãi suất cho vay (Từ ngày 19/5/2008 đến nay )
- Cũng như quy định tại quyết định 381/QĐ-NH1 ngày 28/12/1995
về mức trần cho vay nhưng tại Quyết định số 16/2008/QĐ-
NHNN ngày 16/5/2008 NHNN đưa ra cách xác định mức trần có
khác đó là lãi suất cho vay không được vượt quá 150% lãi suất
cơ bản do NHNN quy định.
Qua những lần thay đổi quy định về lãi suất huy động vốn và cho vay.
Chúng ta có thể thấy rằng, tương ứng với từng giai đoạn mở cửa và hội
nhập. Từ chỗ ấn định mức cụ thể cho đến lúc tự do thỏa thuận. NHNN đã có
2/3
những quy định phù hợp với tình hình mà cụ thể là ngày càng theo cơ chế tự
do hóa lãi suất. Song, qua những lần cải cách và cho đến khi quyết định
16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 ra đời, thực sự chúng ta đã quay lại vạch
xuất phát của hơn 20 năm trước đó.
Có nhiều nguyên nhân lý giải cho quyết định này khi đứng trên quan
điểm của Cơ quan quản lý vĩ mô chính sách tiền tệ quốc gia như NHNN.
Trong số đó, tỷ lệ lạm phát và sức tăng kỷ lục của hệ số CPI hiện nay là một
trong những yếu tố chính. Tuy vậy, khi đứng trên phương diện lập pháp có
thể nói, Quyết định 16 là cách để NHNN “sửa sai” khi tự cho mình cơ chế
riêng bất chấp quy định của Bộ luật dân sự. Tại khoản 1, điều 476, BLDS
2005 quy định « Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt
quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại
cho vay tương ứng ».
Cơ chế lãi suất tự do thỏa thuận có hiệu lực từ ngày 01/6/2002 nhưng
trước đó, BLDS 1995 tại khoản 1, điều 473 « Lãi suất vay do các bên thoả
thuận nhưng không được vượt quá 50% của lãi suất cao nhất do Ngân hàng
nhà nước quy định đối với loại cho vay tương ứng ». Để lý giải cho quyết
định trái luật này, tại thời điểm ban hành quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN,
NHNN cho rằng các tổ chức tín dụng nên áp dụng cơ chế riêng và quy định
của BLDS chỉ điều chỉnh quan hệ vay tài sản nằm ngoài phạm vi điều chỉnh
của Luật các tổ chức tín dụng 1997.
Như vậy, để thực hiện đúng chủ trương « nền kinh tế vận hành theo cơ
chế thị trường và có sự quản lý của Nhà nước », một lần nữa NHNN buộc
sự tự do thỏa thuận trong quan hệ tín dụng phải nằm trong khuôn phép và
chịu sự điều hành bởi « bàn tay hữu hình ». Thật tiếc thay, và cũng một lần
nữa chúng ta đã đi ngược tiến trình hội nhập quốc tế./.
Trần Văn Trí – 0983 789 059
Chuyên viên pháp chế - Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn
3/3