CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
(CNH,HĐH) đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là con đường tất yếu để
Việt Nam nhanh thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển trở thành một
quốc gia văn minh, hiện đại.
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ – THỰC TRẠNG
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Posted on 13/01/2009 by Civillawinfor
TS. TRẦN ANH PHƯƠNG
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
(CNH,HĐH) đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là con đường tất yếu để
Việt Nam nhanh thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển trở thành một
quốc gia văn minh, hiện đại.
Nội dung và yêu cầu cơ bản của chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CCKT) ở nước ta theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tăng nhanh tỷ trọng giá trị trong GDP của các
ngành công nghiệp, xây dựng (gọi chung là công nghiệp) và thương mại – dịch vụ (gọi
chung là dịch vụ), đồng thời giảm dần tương đối tỷ trọng giá trị trong GDP của các
ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp (gọi chung là nông nghiệp). Cùng với
quá trình chuyển dịch của cơ cấu kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến những biến đổi kinh tế
và xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cơ cấu các vùng kinh tế, các
thành phần kinh tế, các lực lượng lao động xã hội, cơ cấu kinh tế đối nội, cơ cấu kinh
tế đối ngoại…
1. Cơ cấu kinh đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Thực hiện định hướng cơ bản trên đây của Đảng và Nhà nước về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sau hơn 20 năm đổi mới, chúng ta
đã đạt được những kết quả nổi bật sau đây.
Về cơ cấu ngành kinh tế, cùng với tốc độ tăng cao liên tục và khá ổn định của GDP,
cơ cấu ngành kinh tế đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tích cực. Đó là tỷ trọng
trong GDP của ngành nông nghiệp đã giảm nhanh từ 38,1% năm 1990 xuống 27,2%
năm 1995; 24,5% năm 2000; 20,9% năm 2005, và đến năm 2008 ước còn 20,6%. Tỷ
trọng công nghiệp trong GDP đã tăng nhanh, năm 1990 là 22,7%; năm 1995 tăng lên
28,8%; năm 2000: 36,7%; năm 2005: 41% và đến năm 2008 ước tính sẽ tăng đến
41,6%. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP chưa biến động nhiều, năm 1990 là 38,6%; năm
1995: 44,0%; năm 2000: 38,7%; năm 2005: 38,1%; năm 2008 sẽ là khoảng 38,7%.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu lao động nước ta theo xu hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Số lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ
ngày càng tăng lên, trong khi số lao động ngành nông nghiệp ngày càng giảm đi.
Trong nội bộ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũng đã có sự chuyển dịch ngày
càng tích cực hơn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng giá trị sản xuất
công nghiệp khu vực nông thôn đã tăng từ 17,3% năm 2001 lên 19,3% năm 2007. Trên
cơ sở đó, đã tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội nông thôn mà
biểu hiện rõ nhất là thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu hộ nông thôn theo hướng ngày
càng tăng thêm các hộ làm công nghiệp, thương mại và dịch vụ; trong khi số hộ làm
nông nghiệp thuần tuý giảm dần. Tỷ lệ hộ nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp, ngư
nghiệp) đã giảm 9,87%; tỷ lệ hộ công nghiệp tăng lên 8,78%. Năm 2007, số hộ công
nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn có 3,6 triệu hộ, tăng 62% so với năm 2000.
Trong cơ cấu các thành phần kinh tế kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế
về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Từ
những định hướng đó, khung pháp lý ngày càng được đổi mới, tạo thuận lợi cho việc
chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh
tế thị trường, nhằm giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng các nguồn lực có
hiệu quả, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Về cơ cấu vùng kinh tế, trong những năm vừa qua cũng đạt được nhiều thành tựu
quan trọng, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế. Trên bình diện quốc gia, đã hình
thành 6 vùng kinh tế: vùng trung du miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng,
vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam bộ
và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, có 3 vùng kinh tế trọng điểm là vùng
động lực cho tăng trưởng kinh tế cả nước.
Các địa phương cũng đẩy mạnh việc phát triển sản xuất trên cơ sở xây dựng các khu
công nghiệp tập trung, hình thành các vùng chuyên canh cho sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, chế biến, nuôi trồng thuỷ sản, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá trên cơ
sở điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của từng vùng. Điều này tạo thuận lợi cho phát
triển công nghiệp chế biến, góp phần tạo nên xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tăng tỷ trọng sản xuất hàng hoá, hướng về xuất khẩu.
Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng mở cửa, hội nhập vào
kinh tế toàn cầu, thể hiện ở tỷ lệ xuất khẩu/GDP (XK/GDP) ngày càng tăng, nghĩa là
hệ số mở cửa ngày càng lớn, từ 34,7% năm 1992 lên 47% năm 2001, và đến năm 2005
là trên 50%. Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm 2001 – 2005 đã đạt 111 tỉ USD, tăng
bình quân 17,5%/năm (kế hoạch là 16%/năm), khiến cho năm 2005, bình quân kim
ngạch xuất khẩu/người đã đạt 390 USD/năm, gấp đôi năm 2000. Năm 2006, kim
ngạch xuất khẩu tiếp tục đạt mức cao – 40 tỉ USD, tăng 24% so với năm 2005; năm
2007 đạt gần 50 tỉ USD, tăng 21,5% so với năm 2006; năm 2008 tăng 29,5% so với năm
2007, đưa tỷ lệ XK/GDP đạt khoảng 70%.
Nhiều sản phẩm của Việt Nam như gạo, cao su, may mặc, giày dép, hải sản… đã có
sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như
đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) và viện trợ phát triển chính thức (ODA) cũng đều
tăng trưởng khả quan, đặc biệt là vốn FDI đã có bước phát triển tích cực, tăng mạnh
từ năm 2004 đến nay. Năm 2001, vốn FDI vào Việt Nam là 3,2 tỉ USD; tiếp theo, năm
2002: 3,0 tỉ USD; 2003: 3,2 tỉ USD; 2004: 4,5 tỉ USD; 2005: 6,8 tỉ USD; 2006: 10,2 tỉ
USD; và năm 2007 vừa qua đã là năm thứ hai nước ta liên tục nhận được các nguồn
vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) đạt con số kỷ lục: 20,3 tỉ USD, tăng gấp đôi
so với năm 2006, bằng tổng mức thu hút FDI của cả giai đoạn 5 năm 2001-2005,
chiếm 1/4 tổng vốn FDI vào Việt Nam trong suốt hơn 20 năm vừa qua.
Năm 2008 này, tuy kinh tế toàn cầu có nhiều khó khăn lớn trong xu thế suy thoái, song
đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký tại Việt Nam đạt 64,011 tỉ USD, tăng gấp đôi
năm 2007. Tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam năm 2008 diễn ra
đầu tháng 12, tại Hà Nội, tổng cam kết từ các nhà tài trợ lên tới 5,014 tỉ USD (thấp
hơn 1 chút so với năm 2007: 5,4 tỉ USD). Giải ngân vốn ODA được 2,2 tỉ USD, vượt
chỉ tiêu kế hoạch đề ra và cao hơn mức năm 2007 (2,176 tỉ USD).
Hoạt động đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài đã bước đầu được triển khai. Các
doanh nghiệp Việt Nam đã có một số dự án đầu tư ra nước ngoài như khai thác dầu ở
An-giê-ri, Xin-ga-po, Vê-nê-du-ê-la; trồng cao su ở Lào…
Kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế sau hơn 20 năm đổi mới là một trong những
nguyên nhân quan trọng và cơ bản nhất đưa đến các kết quả, thành tựu tăng trưởng
kinh tế khả quan, tạo ra những tiền đề vật chất trực tiếp để chúng ta giữ được các cân
đối vĩ mô của nền kinh tế như thu chi ngân sách, vốn tích luỹ, cán cân thanh toán quốc
tế…, góp phần bảo đảm ổn định và phát triển kinh tế – xã hội theo hướng bền vững.
Các chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, chương trình về đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội cho các vùng khó khăn, các chương trình tín
dụng cho người nghèo và chính sách hỗ trợ trực tiếp đã mang lại kết quả rõ rệt. Tỷ lệ
hộ nghèo đã giảm từ 17,2% năm 2006 xuống còn 14,7% năm 2007, và năm 2008 còn
13,1%. Chỉ số phát triển con người (HDI) đã không ngừng tăng, được lên hạng 4 bậc,
từ thứ 109 lên 105 trong tổng số 177 nước…
2. Những hạn chế, bất cập của chuyển dịch cơ cấu kinh tế
So với yêu cầu đặt ra, tốc độ chuyển dịch CCKT còn chậm và chất lượng chưa cao.
Ngành công nghiệp tuy có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng yếu tố hiện đại trong toàn
ngành chưa được quan tâm đúng mức, trình độ kỹ thuật công nghệ nhìn chung, vẫn ở
mức trung bình. Công nghiệp chế biến, đặc biệt là những ngành công nghệ cao chưa
phát triển. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP giảm liên tục trong những năm gần đây.
Những ngành dịch vụ có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng cao như dịch vụ tài
chính – tín dụng, dịch vụ tư vấn chậm phát triển. Tình trạng độc quyền, dẫn tới giá cả
dịch vụ cao, chất lượng dịch vụ thấp còn tồn tại ở nhiều ngành như điện lực, viễn
thông, đường sắt. Một số ngành có tính chất động lực như giáo dục – đào tạo, khoa
học – công nghệ, tính chất xã hội hoá còn thấp, chủ yếu dựa vào nguồn vốn của Nhà
nước.
Mới đây, tháng 9-2008, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra đánh giá tổng quan về tình
hình thực hiện kế hoạch kinh tế – xã hội trong 3 năm qua (2006-2008) và dự báo khả
năng thực hiện 52 chỉ tiêu chủ yếu đã được Đại hội X của Đảng đề ra trong kế hoạch
kinh tế – xã hội giai đoạn 2006-2010, trong đó có các chỉ tiêu liên quan đến việc thực
hiện nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ở nước ta. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra cảnh báo, mặc dù đã có sự chuyển dịch
đúng hướng, song tiến độ thực hiện còn chậm so với mục tiêu kế hoạch; trong bối
cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái hiện nay mà dự báo là sẽ còn rất nan giải, chí ít là
trong vài ba năm tới, nếu không có các giải pháp chính sách thúc đẩy mạnh mẽ hơn
nữa trong phát triển công nghiệp và dịch vụ theo hướng nâng cao sản lượng và chất
lượng tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế cùng với chuyển dịch cơ cấu
lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ… thì khó có thể thực hiện được
mục tiêu đã đề ra. Có cảnh báo đó là vì, theo ước tính, đến hết năm 2008, tỷ trọng
nông nghiệp trong GDP vẫn còn 20,6-20,7%, trong khi kế hoạch đến năm 2010 phải
giảm còn 15-16%; giá trị công nghiệp năm 2008 mới đạt 40,6-40,7% GDP, trong khi kế
hoạch đến năm 2010 phải đạt 43-44%; tỷ trọng thương mại – dịch vụ năm 2008 ước
tính có thể đạt 38,7-38,8% GDP, trong khi kế hoạch đến năm 2010 phải là 40-41%.
3. Một số giải pháp tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến năm 2010
Trong Báo cáo của Chính phủ trình bày tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội khoá XII (tháng
10-11-2008) đã nêu rõ có nhiều nguyên nhân khiến cho kinh tế nước ta lâm vào tình
trạng lạm phát và suy giảm tăng trưởng từ đầu năm 2008 đến nay, trong đó có một
nguyên nhân cơ bản là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH còn chậm.
Vì thế đẩy nhanh chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH vẫn được coi là một
trong những giải pháp quan trọng hàng đầu để phát triển bền vững. Cụ thể, để phấn
đấu đạt được mục tiêu kế hoạch chuyển dịch CCKT đến năm 2010 như Đại hội X đã
đề ra, cần thực hiện tốt hơn nữa những vấn đề sau đây:
- Tăng mạnh hơn nữa tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc
nội (GDP). Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH ở nước ta trước hết chính là
quá trình phát triển mạnh các ngành nghề phi nông nghiệp, thông qua đó giảm bớt lao
động trong lĩnh vực nông nghiệp, tăng khả năng tích luỹ cho dân cư. Đây lại chính là
điều kiện để tái đầu tư, áp dụng các phương pháp sản xuất, công nghệ tiên tiến hiện
đại vào sản xuất, trong đó có cả sản xuất nông nghiệp. Kết quả là, tất cả các ngành
kinh tế đều phát triển, nhưng ngành công nghiệp và dịch vụ cần phát triển nhanh hơn,
biểu hiện là tăng tỷ trọng của sản phẩm công nghiệp và dịch vụ trong GDP.
- Hình thành các vùng kinh tế dựa trên tiềm năng, lợi thế của vùng, gắn với nhu cầu
của thị trường. Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là quá trình chuyển biến
căn bản về phân công lao động xã hội theo lãnh thổ. Xoá bỏ tình trạng chia cắt về thị
trường giữa các vùng; xoá bỏ tình trạng tự cung tự cấp, đặc biệt là tự cung, tự cấp về
lương thực của từng vùng, từng địa phương. Mỗi địa phương cần đặt mình trong một
thị trường thống nhất, không chỉ là thị trường cả nước mà còn là thị trường quốc tế,
trên cơ sở đó xác định những khả năng, thế mạnh của mình để tập trung phát triển,
tham gia vào quá trình phân công và hợp tác lao động có hiệu quả.
- Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH gắn với quá trình hình thành các trung
tâm kinh tế thương mại, gắn liền với quá trình đô thị hoá. Mặt khác, việc quy hoạch
xây dựng các khu đô thị, trung tâm kinh tế, thương mại có ảnh hưởng trực tiếp trở lại
tới quá trình chuyển dịch CCKT.
- Giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng số lao động xã hội.
Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là quá trình phân công lao động xã hội, là
quá trình chuyển dịch lao động từ ngành nông nghiệp sang các ngành công nghiệp và
dịch vụ. Đây là giải pháp vừa cấp bách, vừa triệt để để giải quyết tình trạng thiếu
việc làm ở nông thôn hiện nay, đồng thời là hệ quả tất yếu của quá trình chuyển dịch
CCKT theo hướng CNH, HĐH.
- Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH,HĐH phải theo định hướng dẫn đến phát triển
bền vững không chỉ vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà phải vì mục tiêu
phát triển kinh tế mà bao trùm lên cả là vì mục tiêu phát triển bền vững, trong đó có
một cấu thành bộ phận rất quan trọng và không thể thiếu là bảo vệ môi trường. Từ đó
cho thấy, các nhà lãnh đạo, nhà quản lý cho đến các doanh nghiệp, các địa phương, cơ
sở… cần phải hết sức chú ý thực hiện tốt vấn đề này, tránh tình trạng vì lợi nhuận
kinh tế trước mắt dẫn đến phá huỷ nghiêm trọng môi trường sinh thái tự nhiên như
vừa qua và hiện nay công luận vẫn đang tiếp tục lên án về không ít các trường hợp
doanh nghiệp đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật bảo vệ môi trường./.
Chuyên mục PT nông thôn
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong nông nghiệp, nông thôn
tại Vĩnh Long
25/05/2009
Vĩnh Long là tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long - vùng trọng điểm nông
nghiệp và an ninh lương thực của cả nước. Vĩnh Long nằm giữa vùng ảnh hưởng của
hai trung tâm kinh tế lớn là Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ, là tỉnh có mật
độ dân số cao, với 85% sống ở nông thôn và chủ yếu làm nông nghiệp. Nông nghiệp tạo
ra hơn 1/2 GDP và chiếm gần 90% giá trị xuất khẩu, cho nên nông nghiệp luôn đóng vai
trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Thành tựu đạt
được
Thực hiện chủ trương trên, trong 3 năm qua Đảng bộ tỉnh đã triển khai thực hiện nhiều chương
trình, đề án phát triển công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp,
như: Chương trình mục tiêu xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn (điện, đường, trường, trạm,
nước sạch, nhà ở, thủy lợi), chương trình giống nông nghiệp - thủy sản, chương trình phát triển
khu, cụm, tuyến công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, chương trình đào tạo nguồn nhân lực, đề
án hỗ trợ lãi suất mua máy nông nghiệp... và đạt được những thành tựu quan trọng.
Kinh tế liên tục tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GDP)
tăng bình quân 12,35%/năm (giai đoạn 2006 - 2008), cao hơn nhiệm kỳ 2001 - 2005 là 3,76%.
Giá trị gia tăng ngành công nghiệp tăng bình quân 23,59%/năm, trong khi khu vực nông nghiệp -
thủy sản vẫn bảo đảm tốc độ tăng trưởng bình quân 3,99%/năm. GDP bình quân trên đầu người
tăng từ 7,6 triệu đồng (năm 2005) lên 14,8 triệu đồng (năm 2008), xấp xỉ đạt chỉ tiêu cả nhiệm
kỳ 2005 - 2010. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Năm 2008, tỷ trọng nông
nghiệp - thủy sản, công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ trong cơ cấu kinh tế là
53,5%, 15,2% và 31,3%. So với năm 2005, tỷ trọng nông nghiệp - thủy sản giảm 2,05%; công
nghiệp - xây dựng tăng 1,12% và thương mại - dịch vụ tăng 0,93%.
Cơ cấu ngành nông nghiệp chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng trồng trọt, tăng tỷ trọng chăn
nuôi. Cơ cấu mùa vụ, cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi chuyển dịch theo hướng đa canh, đa
dạng hóa sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh tế, gắn với thị trường tiêu thụ. Ngành trồng trọt
chuyển dịch theo hướng giảm diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cây ăn trái, rau màu.
Mặc dù, diện tích trồng lúa giảm từ 203.084 ha xuống còn 177.414 ha, nhưng nhờ tập trung đầu
tư nâng cao năng suất, nên sản lượng lúa hằng năm vẫn ổn định trên 900 ngàn tấn; chất lượng
lúa được nâng lên và hằng năm xuất khẩu khoảng 300 ngàn tấn gạo.
Cây ăn trái là thế mạnh sau cây lúa, chiếm tỷ trọng gần 50% giá trị ngành trồng trọt, với nhiều
loại cây trồng cho sản lượng, chất lượng và hiệu quả cao. Toàn tỉnh hiện có 45.874 ha vườn cây
lâu năm, tăng 5,2% so năm 2005, trong đó diện tích cây ăn trái gần 39.000 ha. Sản lượng đạt
trên 455.000 tấn/năm. Đặc biệt, tỉnh xây dựng vùng sản xuất và thương hiệu sản phẩm bưởi
Năm Roi Bình Minh, cam sành Tam Bình, chôm chôm Tích Thiện. Diện tích rau màu, cây công
nghiệp hằng năm là 28.860 ha, tăng 42,5% so với năm 2005, tốc độ tăng bình quân 8%/năm.
Vĩnh Long đã xây dựng được một số vùng rau màu chuyên canh, luân canh trên đất lúa, vùng
rau an toàn với hiệu quả kinh tế cao gấp 2 - 3 lần trồng lúa.
Chăn nuôi tuy gặp nhiều khó khăn do diễn biến phức tạp của dịch bệnh, nhưng nhìn chung vẫn
có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, nhất là chăn nuôi bò, heo. Đặc biệt, nuôi thủy
sản phát triển rất mạnh, tốc độ tăng bình quân 43,35%/năm, sản lượng trên 108 ngàn tấn (tăng
hơn 3 lần so với năm 2005), trong đó sản lượng nuôi đạt 106 ngàn tấn (tăng 3,68 lần), góp phần
đưa tỷ trọng ngành thủy sản tăng từ 4,52% lên 11,3%.
Trình độ khoa học - công nghệ trong sản xuất nông nghiệp - thủy sản từng bước được nâng cao
theo hướng sử dụng giống mới, công nghệ sinh học, phương thức canh tác tiên tiến để nâng cao
năng suất, chất lượng nông sản, thủy sản. Chương trình giống được triển khai thực hiện với
nhiều dự án: lúa, cây ăn trái chất lượng cao, Sind hóa đàn bò, nạc hóa đàn heo... đáp ứng trên
75% giống chất lượng cao, sạch bệnh cho người chăn nuôi. Nhiều khâu trong sản xuất nông
nghiệp được cơ giới hóa như: tuốt lúa 100%, làm đất 96%, thu hoạch 31% và sản lượng lúa
được sấy 24,5%. Nhờ thực hiện tốt chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, giá trị sản phẩm
trồng trọt, nuôi thủy sản bình quân trên mỗi héc-ta đất canh tác ngày càng tăng, năm 2008 đạt
75 triệu đồng/ha, tăng 71,7% so năm 2005.
Nông thôn Vĩnh Long phát triển khá nhanh, bộ mặt nông thôn không ngừng đổi mới. Hiện có
90/94 xã có đường ô-tô tới trung tâm, 72/94 xã có đường liên ấp được nhựa hóa, trên 50%
đường sá được bê tông hóa; 90% số ấp, khóm xe hai bánh lưu thông suốt 2 mùa mưa và khô.
Nhiều công trình thủy lợi đã hoàn thành và được đưa vào sử dụng, góp phần khép kín thủy lợi
cho 96.000 ha (chiếm 82,53% diện tích đất nông nghiệp), trong đó 49.997 ha chủ động tưới tiêu;
100% số xã có điện, với gần 98% số hộ dân được sử dụng điện; 83% số hộ dân sử dụng nước
sạch, 53% dân số sử dụng nước sạch theo quy định về tiêu chuẩn vệ sinh nước sạch của Bộ Y
tế; 80/107 trạm y tế đạt chuẩn quốc gia và 97/107 xã, phường có bác sĩ; xây mới, nâng cấp
nhiều chợ, khu dân cư, khu đô thị.
Quan hệ sản xuất luôn được quan tâm xây dựng, hiện có 112/361 trang trại được cấp giấy
chứng nhận, với tổng vốn đầu tư ước khoảng 171 tỉ đồng; 32 hợp tác xã nông nghiệp, 1 liên
hiệp hợp tác xã thủy sản và hơn 2 ngàn tổ hợp tác sản xuất nông nghiệp. Một số hợp tác xã có
được uy tín nhất định về chất lượng và tiêu thụ sản phẩm như Hợp tác xã rau an toàn Thành
Lợi, Hợp tác xã bưởi Năm Roi Mỹ Hòa, Hợp tác xã rau an toàn Phước Hậu, Hợp tác xã Tân
Thành... Công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, ngành nghề, làng nghề truyền thống và dịch vụ
nông thôn được phục hồi và phát triển, giải quyết nhiều việc làm cho người dân, góp phần thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện,
khoảng cách thu nhập giữa thành thị và nông thôn được thu hẹp dần, từ 1,7 lần (năm 2002)
giảm xuống còn 1,42 lần (năm 2006). Tuy nhiên, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, kinh
tế toàn cầu, giá cả tăng cao, nên trong năm 2008 khoảng cách này tăng lên 1,63 lần. Tỷ lệ hộ
nghèo giảm hằng năm, từ 12,87% (năm 2005) xuống còn 8,6%. Một số điều kiện về nhà ở, đi
lại, học tập, chữa bệnh được cải thiện tốt hơn. Nhiều ấp, khóm, xã đạt chuẩn văn hóa, trình độ
dân trí được nâng lên. Tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật trong những năm gần đây tăng
nhanh, từ 18,2% (năm 2005) lên 29,87% (năm 2008). Cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực, lao
động trong khu vực nông nghiệp - thủy sản giảm từ 67,6% xuống còn 64,39%, lao động trong
khu vực công nghiệp - xây dựng và khu vực dịch vụ tăng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp, Vĩnh Long vẫn gặp phải một số trở ngại, khó khăn nhất định: Sản xuất nông nghiệp tuy
tăng trưởng khá nhưng chưa thật sự bền vững, luôn phải đối mặt với nhiều rủi ro về thiên tai,
dịch bệnh; sản xuất còn mang tính nhỏ lẻ, phân tán, chất lượng phần lớn nông sản kém sức
cạnh tranh nên tiêu thụ còn hạn chế. Cơ cấu nông nghiệp, cơ cấu lao động chuyển dịch đúng
hướng nhưng chậm, trồng trọt còn chiếm tỷ trọng cao (trên 70%) và cây lúa đang có xu hướng
mở rộng; chăn nuôi tuy phục hồi nhưng còn nhiều khó khăn; ngành thủy sản có sự phát triển đột
phá nhưng chưa vững chắc, chưa tương xứng với tiềm năng; công nghiệp và dịch vụ nông thôn
chậm phát triển; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; các hình thức tổ chức sản xuất chậm được đổi mới; trình độ dân trí,
thu nhập và đời sống người dân ở nông thôn nhìn chung còn thấp và khó khăn; môi trường sinh
thái ở một số vùng nông thôn có biểu hiện suy giảm...
Một số giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Hướng đến một nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất
hàng hóa lớn, có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình
thức tổ chức sản xuất hợp lý, đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn không ngừng
được nâng lên..., Vĩnh Long tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của
Đảng bộ tỉnh, chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn với những giải pháp chủ yếu sau:
Một là, xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đồng thời phát triển công
nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn. Tập trung chỉ đạo làm tốt công tác quy
hoạch; tổ chức lại sản xuất phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, địa phương; bố trí cơ
cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng ổn định diện tích lúa vừa bảo đảm an ninh lượng thực vừa
phục vụ xuất khẩu; hình thành các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh lúa chất lượng cao,
vùng chuyên canh cây ăn trái, nuôi trồng thủy sản, hình thành các trang trại chăn nuôi tập trung,
an toàn dịch bệnh. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp, tiểu, thủ
công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề ở nông thôn gắn với sử dụng nguyên liệu và thu hút nhiều lao
động tại chỗ nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn.
Hai là, tiếp tục đầu tư xây dựng, hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội theo hướng phục vụ
phát triển sản xuất, vận chuyển hàng hóa, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sinh hoạt, học
tập, chăm sóc sức khỏe người dân. Trong đó, ưu tiên đầu tư kiên cố hóa hệ thống thủy lợi, thủy
lợi kết hợp với hoàn thiện hệ thống giao thông, bố trí dân cư, cung cấp nước sinh hoạt cho nông
thôn; nâng cấp, xây mới hệ thống điện phục vụ sản xuất nông nghiệp, phục vụ các cụm công
nghiệp, dịch vụ nông thôn; tiếp tục đầu tư xây dựng hệ thống y tế tuyến huyện, thị, xã, phường;
bảo đảm trang thiết bị, nguồn nhân lực theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế đối với tất cả các trạm y tế
xã, phường...
Ba là, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn. Tiếp tục thực hiện
chương trình xóa đói, giảm nghèo, phấn đấu đến năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 6%. Thực
hiện tốt chính sách an sinh xã hội, nâng cao chất lượng thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, phát triển các phong trào văn hóa, thể thao ở
nông thôn. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề cho người dân theo mục tiêu nâng
cao trình độ dân trí, hiện đại hóa ngành nông nghiệp, cung cấp lao động cho các khu công
nghiệp, làng nghề và xuất khẩu lao động.
Bốn là, đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả ở nông thôn.
Khuyến khích, tạo điều kiện cho người dân tham gia phát triển các loại hình hợp tác sản xuất
kinh doanh; xây dựng mô hình doanh nghiệp nông nghiệp thích hợp gắn với liên kết hoặc tích tụ
ruộng đất để hình thành vùng sản xuất hàng hóa lớn, tạo điều kiện đưa công nghiệp vào phục
vụ nông nghiệp. Tổ chức tốt các hoạt động dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn và tiêu thụ
nông sản; khuyến khích mở rộng các hình thức liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hóa
thông qua hợp đồng đối với các sản phẩm lúa gạo, cá tra, trái cây; tiếp tục hỗ trợ, tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế phát triển, nhất là các hợp tác xã, tổ hợp, trang trại.
Năm là, tiếp nhận, chuyển giao và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đào tạo, thu hút
nguồn nhân lực phục vụ quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn. Tiếp tục đầu tư nâng cao chất lượng công tác khuyến nông, khuyến ngư, chuyển giao và
ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất, nhất là công tác giống, kỹ thuật sản
xuất tiên tiến, ứng dụng cơ giới hóa... nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, khả năng cạnh
tranh của nông sản hàng hóa, góp phần nâng cao thu nhập của người dân. Xây dựng đội ngũ
công chức, viên chức, cán bộ làm khoa học - kỹ thuật có trình độ cao. Thu hút người có năng lực
ở trong và ngoài nước về công tác tại địa phương bằng các chính sách phù hợp. Thực hiện các
chính sách hỗ trợ nhằm giữ chân và phát huy kiến thức đối với các cán bộ khoa học - kỹ thuật,
cán bộ quản lý có trình độ, năng lực phục vụ địa phương.
Sáu là, thực hiện tốt các chính sách để khai thác các nguồn lực phát triển nhanh kinh tế - xã hội
nông thôn. Triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách của Trung ương, đồng thời xây
dựng một số chính sách của địa phương nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển và khuyến
khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Tăng
đầu tư từ ngân sách cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, cân đối nguồn thu từ xổ
số kiến thiết để hỗ trợ một phần cho đầu tư xây dựng giao thông nông thôn; chú trọng lồng ghép
các chương trình mục tiêu trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; đẩy mạnh thực
hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”.
Bảy là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của các
đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là Hội Nông dân trong thực hiện các dự án nâng
cao đời sống, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Củng cố và nâng cao năng lực bộ
máy quản lý nông nghiệp cấp huyện, xã; tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ
công chức cấp xã, phường; thực hiện tốt chế độ chính sách cho đội ngũ cán bộ và cộng tác viên
cơ sở; tiếp tục cải cách hành chính và thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở..
Trương Văn Sáu (theo Tạp chí Cộng sản)