CHƯƠNG V: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Cách mạng Việt Nam đi từ tự phát đến tự giác, có tổ chức, có
đường lối được giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin giành được thắng lợi to
lớn đó là nhờ có Đảng Cộng sản Việt Nam.
Re: Chương V
Bị khoá Trả lời Liên hệ
CHƯƠNG V
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VÀ VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
I. NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Cách mạng Việt Nam đi từ tự phát đến tự giác, có tổ chức, có
đường lối được giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin giành được thắng lợi to
lớn đó là nhờ có Đảng Cộng sản Việt Nam.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu
đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi
Vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin và kế thừa
truyền thống dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng nhưng quần chúng phải được giác ngộ, được tổ chức và
được lãnh đạo theo một đường lối đúng đắn mới trở thành lực lượng to
lớn của cách mạng – như con thuyền có người cầm lái vững vàng… thì
thuyền mới vượt qua được gió to sóng cả để đi đến bến bờ. Bác nhấn
mạnh “cách mạng trước hết phải có gì? Phải có Đảng Cách mệnh, để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị
áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành
công, cũng như người cầm lái có vững thì con thuyền mới chạy.”
Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng mạng mang bản chất của
giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiền phong của giai cấp công nhân, có
khả năng đoàn kết tập hợp các tầng lớp nhân dân khác làm cách mạng.
Đảng là đội tiền phong dũng cảm và là đội tham mưu sáng suốt. Đảng
Cộng sản Việt Nam tận tâm, tận lực phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân
dân, trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân
tộc, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân và của dân
tộc. Mục tiêu phấn đấu của Đảng là độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân
dân, hạnh phúc cho mọi người.
“Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có đảng lãnh
đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định phương châm cho đúng”.
Cách mạng là cuộc đấu tranh gian khổ. Kẻ địch rất mạnh. Muốn
thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức chặt chẽ, chí khí phải kiên quyết.
Vì vậy, phải có Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân thành một đội
quân thật mạnh, đánh kẻ địch giành chính quyền. Cách mạng thắng lợi
rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng”.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Đây chính là quy luật hình thành và phát triển Đảng Cộng sản Việt
Nam, đồng thời là sự bổ sung sáng tạo vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin. Vì sao Hồ Chí Minh lại thêm yếu tố phong trào yêu nước?
1. Phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình
phát triển của dân tộc Việt Nam.
2. Phong trào công nhân kết hợp với phong trào yêu nước vì nó đều
có mục tiêu chung. Phong trào yêu nước Việt Nam là phong trào rộng lớn
nhất có trước phong trào công nhân từ nghìn năm lịch sử. Nó cuốn hút mọi
tầng lớp nhân dân, toàn dân tộc đứng lên chống kẻ thù. Phong trào công
nhân ngay từ khi mới ra đời đã kết hợp với phong trào yêu nước. Khác với
những người cộng sản phương Tây, Hồ Chí Minh và những người cộng
sản Việt Nam đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin,
từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp.
3. Phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân ngay từ
đầu. Hơn 90% dân số là nông dân, họ là bạn đồng minh tự nhiên của giai
cấp công nhân.
4. Phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng
thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Quy luật hình thành đảng cộng sản Việt Nam trên cơ sở kết hợp
vấn đề dân tộc với giai cấp, có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình hình
thành Đảng ở một nước thuộc địa. Đảng định hướng đúng đắn và thúc
đẩy phong trào cách mạng. Hồ Chí Minh tìm cách truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin vào trong dân, vào phong trào yêu nước, phong trào công nhân.
Bác viết “không phải mọi người yêu nước đều là cộng sản, việc tiếp
nhận đường lối của Đảng cộng sản là cần thiết để xác định mục tiêu yêu
nước đúng đắn. Mỗi người cộng sản trước hết phải là một người yêu
nước tiêu biểu, phải truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong dân, lãnh
đạo công nhân và quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng”.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân,
của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam
Từ quy luật hình thành và phát triển đảng, Hồ Chí Minh đã đi đến
luận điểm Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân
đồng thời là Đảng của cả dân tộc Việt Nam. Đảng là đội tiền phong của
đạo quân vô sản, Đảng tập hợp vào hàng ngũ của mình những người “tin
theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và quốc tế cộng sản… dám
hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong
một bộ phận của Đang”.
Tháng 2/1951, Bác viết: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc là một. Chính vì
Đảng là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động cho nên nó
phải là Đảng của cả dân tộc Việt Nam”.
Năm 1961, Bác viết: “Đảng ta là đảng của giai cấp công nhân, đồng
thời là Đảng của dân tộc không thiên tư, thiên vị.”
Đảng mang bản chất giai cấp công nhân thể hiện không chỉ ở số
lượng đảng viên xuất thân từ giai cấp công nhân mà ở nền tảng tư tưởng
của Đảng là chủ nghĩa Mác Lênin. Mục tiêu và đường lối của đảng là độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vì giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người. Đảng tuân thủ theo nguyên tắc
đảng kiểu mới của Lênin. Đảng kết nạp những người ưu tú của giai cấp
công nhân, nông dân, trí thức và các thành phần khác mà họ đã được rèn
luyện, thử thách, giác ngộ về Đảng và tự nguyện chiến đấu trong hàng
ngũ của Đảng. Đảng đặc biệt chú ý giáo dục, rèn luyện đảng viên, giác
ngộ giai cấp và dân tộc, nâng cao hiểu biết chủ nghĩa Mác Lênin. Đảng ta
là sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính dân tộc, lợi ích của giai cấp gắn
với lợi ích của dân tộc. “Nhân dân và cả dân tộc thừa nhận đảng là
người lãnh đạo duy nhất, đại biểu cho quyền lợi cơ bản và thiết
thân của mình.”
Bản chất giai cấp của Đảng còn thể hiện ở định hướng xây dựng
Đảng thành Đảng gắn bó máu thịt với giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và toàn thể dân tộc trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ của cách mạng
Việt Nam.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm
cốt”
Theo Bác “... chỉ có đảng nào theo lý luận cách mạng tiền phong,
đảng cách mạng mới làm nổi trách nhiệm cách mạng tiền phong”, “Đảng
muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai
cũng phải theo chủ nghĩa ấy” “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ
nghĩa Lênin”... Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết về giải phóng giai cấp
công nhân, nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức và giải phóng con
người nói chung, đồng thời là học thuyết về sự phát triển xã hội lên một
hình thái cao hơn, xoá bỏ hoàn toàn bất công, nguồn gốc đẻ ra sự bóc lột,
áp bức. “Chủ nghĩa Mác-Lênin là lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo
đảng chúng tôi, làm cho đảng chúng tôi có thể trở thành hình thức tổ chức
cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và
lương tâm của dân tộc chúng tôi”.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm cốt có nghĩa là Đảng ta nắm
vững tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, lập trường, quan điểm và
phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời nắm vững tinh hoa văn
hoá dân tộc và trí tuệ thời đại vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể
của nước ta. Không máy móc, kinh viện, giáo điều.
Trong tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh
lưu ý những điểm sau đây:
- Học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin phải luôn
phù hợp với hoàn cảnh và từng đối tượng.
- Vận dụng phải phù hợp từng hoàn cảnh.
- Chú ý học tập, kế thừa kinh nghiệm tốt của các Đảng cộng sản
khác, tổng kết kinh nghiệm của mình để bổ sung cho chủ nghĩa Mác-
Lênin.
- Đảng tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ
nghĩa Mác-Lênin.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng theo nguyên tắc đảng
kiểu mới của giai cấp vô sản:
a. Tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc cơ bản của tổ chức Đảng. Tập trung là thống
nhất về tư tưởng, tổ chức, hành động. Thiểu số phục tùng đa số, cấp
dưới phục tùng cấp trên, đảng viên chấp hành nghị quyết của tổ chức
Đảng. “Đảng tuy nhiều người, nhưng khi tiến hành thì chỉ như một
người”.
Dân chủ là của “của quý báu của nhân dân”, là thành quả của cách
mạng. Tất cả mọi người được tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần
tìm ra chân lý. Phải phát huy dân chủ nội bộ nếu không sẽ suy yếu từ bên
trong.
b. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Tập thể lãnh đạo, nhiều người thì thấy hết mọi việc, hiểu hết mọi
mặt của vấn đề, có nhiều kiến thức, tránh tệ bao biện, quan liêu, độc
đoán, chủ quan. “Việc gì đã bàn kỹ lưỡng rồi , kế hoạch định rõ ràng rồi,
thì cần phải giao cho một người hoặc một nhóm ít người phụ trách kế
hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy”.
Cá nhân phụ trách, sau khi bàn bạc kỹ lưỡng thì phải giao cho một
người phụ trách (nếu là nhóm người thì có một người phụ trách chính) để
tránh bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ dễ hỏng việc.
c. Tự phê bình và phê bình:
Đây là nguyên tắc sinh hoạt đảng, là quy luật phát triển đảng. Tự
phê bình là mỗi đảng viên phải tự thấy rõ mình để phát huy mặt ưu điểm,
khắc phục nhược điểm. Tự phê bình mà tốt thì mới phê bình người khác
được. “muốn đoàn kết trong Đảng, phải thống nhất tư tưởng, mở rộng
dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”. Đó là vũ khí sắc bén để
rèn luyện đảng viên.
“Một đảng mà giấu diếm khuyết điểm đó là một đảng hỏng. Một
đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó vì
đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi
tìm cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một đảng tiến bộ,
mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
Thái độ, phương pháp tự phê bình và phê bình thật đúng và nghiêm
túc không phải dễ dàng. Nó là vấn đề khoa học và nghệ thuật cách mạng.
“Phải tiến hành thường xuyên như rửa mặt hàng ngày: phải trung thực,
chân thành, thẳng thắn, không nể nang, không giấu giếm và cũng không
thêm bớt khuyết điểm, phải có tình đồng chí yêu thương lẫn nhau”. Cán
bộ, đảng viên phải luôn dùng và khéo dùng. Để thực hiện tốt nguyên tắc
này mọi người cần trung thực chân thành với nhau - với chính mình và với
người khác, “phải có tình đồng chí yêu thương lẫn nhau”. Bác nhắc,
tránh lợi dụng phê bình để nói xấu nhau, bôi nhọ nhau, đả kích nhau...
d. Kỷ luật nghiêm minh và tự giác. Đây là nguyên tắc đảng kiểu
mới do Lênin đề ra, đảng thực sự là một tổ chức chiến đấu chặt chẽ để
giành thắng lợi cho sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hồ
Chí Minh coi trọng xây dựng kỷ luật nghiêm minh và tự giác trong Đảng
để tạo nên sức mạnh to lớn cho Đảng.
Nghiêm minh là thuộc về tổ chức đảng, kỷ luật đối với mọi đảng
viên không phân biệt. Mọi đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật Đảng.
Tự giác là thuộc về mỗi cá nhân cán bộ đảng viên đối với Đảng.
Kỷ luật này do lòng tự giác của họ về nhiệm vụ của họ đối với Đảng.
Yêu cầu cao nhất của kỷ luật đảng là chấp hành các chủ trương, nghị
quyết của Đảng tuân theo nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt
Đảng. “mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ luật, chẳng
những kỷ luật đảng, mà cả kỷ luật của đoàn thể nhân dân và của cơ quan
chính quyền cách mạng.”
e. Đoàn kết thống nhất trong Đảng
“Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng ta, của nhân
dân ta...phải giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng như giữ gìn con ngươi của
mắt mình.” Cơ sở để đoàn kết nhất trí trong Đảng chính là đường lối,
quan điểm của Đảng, điều lệ của Đảng. “Ngày nay, sự đoàn kết trong
đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các
cán bộ lãnh đạo”.
6. Tăng cường và củng cố mối quan hệ bền chặt giữa Đảng
với dân.
Hồ Chí Minh yêu cầu tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa đảng
với dân như sau:
(1) Đảng thường xuyên lắng nghe ý kiến của dân, khắc phục bệnh
quan liêu.
(2)Thường xuyên vận động nhân dân tham gia xây dựng đảng dưới
mọi hình thức.
(3) Đảng có trách nhiệm nâng cao dân trí.
(4) Trong quan hệ với dân, Đảng không được theo đuôi quần chúng.
7. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới làm cho
đảng thật sự trong sạch, vững mạnh
Đảng là đạo đức, là văn minh tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự và
lương tâm của dân tộc. Đảng phải thường xuyên tự đổi mới trong điều
kiện Đảng cầm quyền. Chỉnh đốn chú ý những vấn đề sau:
- Đảng luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức xứng
đáng là người lãnh đạo của nhân dân.
- Cán bộ đảng viên phải toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, phục vụ
Tổ quốc, có đức, có tài.
- Chú ý khắc phục tiêu cực, luôn giữ gìn Đảng trong sạch, vững
mạnh.
- Đảng phải vươn lên đáp ứng yêu cầu tình hình và nhiệm vụ mới.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân
và vì dân
Nếu vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính
quyền thì vấn đề cơ bản của chính quyền là ở chỗ nó thuộc về ai, phục
vụ quyền lợi cho ai. Năm 1927, trong cuốn “Đường Kách Mệnh” Bác chỉ
rõ: “Chúng ta đã hy sinh làm kách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là
làm sao kách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để
trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân
chúng mới được hạnh phúc”. Sau khi giành độc lập, Người khẳng định,
“nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao
nhiêu lợi ích đều vì dân... nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều
ở nơi dân”. Đó là điểm khác nhau giữa nhà nước ta với nhà nước
bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử.
Thế nào là nhà nước của dân?
Điều 1 Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Năm 1946)
nói: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính
trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống,
gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo.”
Điều 32, viết: “Những việc liên quan đến vận mệnh quốc gia sẽ
đưa ra nhân dân phúc quyết...” thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý,
một hình thức dân chủ đề ra khá sớm ở nước ta.
“Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín
nhiệm của nhân dân”
Nhà nước của dân thì mọi người dân là chủ, người dân có quyền
làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp
luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực, hình thành thiết chế dân
chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Những vị đại diện do dân
cử ra chỉ là thừa uỷ quyền của dân, chỉ là công bộc của dân.
Thế nào là nhà nước do dân?
Nhà nước đó do nhân dân lựa chọn bầu ra những đại biểu của
mình, nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để chi tiêu, hoạt
động; nhà nước đó lại do dân phê bình xây dựng, giúp đỡ. Do đó Bác yêu
cầu tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với
nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. “nếu chính
phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ” nghĩa là khi cơ quan
nhà nước không đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân
dân có quyền bãi miễn nó. Hồ Chí Minh khẳng định: mỗi người có trách
nhiệm “ghé vai gánh vác một phần” vì quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng
đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.
Thế nào là nhà nước vì dân?
Đó là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của
nhân dân, không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm
chính. Trong nhà nước đó, cán bộ từ chủ tịch trở xuống đều là công bộc
của dân.
“Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm,
Việc gì có hại đến dân ta phải hết sức tránh”
Hồ Chí Minh chú ý mối quan hệ giữa người chủ nhà nước là nhân
dân với cán bộ nhà nước là công bộc của dân, do dân bầu ra, được nhân
dân thừa uỷ quyền. Là người phục vụ, nhưng cán bộ nhà nước đồng thời
là người lãnh đạo , hướng dẫn nhân dân. “Nếu không có nhân dân thì
chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ thì nhân dân
không ai dẫn đường”. Cán bộ là đày tớ của nhân dân là phải trung thành,
tận tuỵ, cần kiệm liêm chính..., là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn
người, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi với dân, trọng dụng hiền
tài... Cán bộ phải vừa có đức vừa có tài.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai
cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước ta
a. Bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta:
Nhà nước ta mang bản chất giai cấp, “là nhà nước dân chủ nhân dân
dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”.
Bản chất giai cấp công nhân biểu hiện ở chỗ:
- Nhà nước ta do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đảng lãnh
đạo bằng những chủ trương, đường lối thông qua tổ chức của mình trong
quốc hội, chính phủ, các ngành, các cấp của nhà nước; được thể chế
thành pháp luật, chính sách, kế hoạch của nhà nước.
- Bản chất giai cấp còn thể hiện ở định hướng đưa nước ta đi lên
chủ nghĩa xã hội. “Bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân
theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ
thuật tiên tiến.”
- Bản chất giai cấp của nhà nước ta còn thể hiện ở nguyên tắc tổ
chức cơ bản là nguyên tắc tập trung dân chủ. “Nhà nước ta phát huy dân
chủ đến cao độ... mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa
cách mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung cao độ để thống nhất lãnh
đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội.”
Bên cạnh dân chủ, Bác cũng nhắc đến chuyên chính, “chế độ nào
cũng có chuyên chính. Vấn đề là ai chuyên chính với ai?”. “dân chủ là của
quý báu của nhân dân, chuyên chính là cái khoá, cái cửa để đề phòng kẻ
phá hoại... dân chủ cũng cần chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ.”
b. Bản chất giai cấp của nhà nước ta thống nhất với tính nhân dân
và tính dân tộc
Tính thống nhất thể hiện ở chỗ:
- Nhà nước dân chủ mới ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu
dài và gian khổ với sự hy sinh xương máu của bao thế hệ cách mạng.
- Nhà nước ta vừa mang bản chất giai cấp vừa có tính nhân dân và
tính dân tộc vì nó lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng và bảo vệ lợi ích
cho nhân dân. Trong thời gian Người lãnh đạo đất nước, nhờ sách lược
mềm dẻo, cũng như Người dung nạp nhiều nhân sĩ, trí thức, quan lại cao
cấp của chế độ cũ vào bộ máy nhà nước đã thể hiện tư tưởng nhà nước
ta là nhà nước của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Nhà nước ta vừa ra đời đã đảm nhiệm vai trò lịch sử là tổ chức
toàn dân kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây
dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế giới.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước pháp quyền có
hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
a. Xây dựng một nhà nước hợp hiến
Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ trước hết là một nhà nước
hợp hiến. Vì vậy sau khi giành chính quyền, Hồ Chí Minh đã thay mặt
chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng
bào và với thế giới khai sinh nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Chính
phủ lâm thời có địa vị hợp pháp, tổng tuyển cử bầu ra quốc hội rồi từ đó
lập chính phủ và các cơ quan nhà nước mới.
Sau đó Người bắt tay xây dựng hiến pháp dân chủ, tổ chức TỔNG
TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu, thành lập uỷ ban dự thảo
Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chủ tịch Hồ Chí Minh
được Quốc hội nhất trí bầu làm chủ tịch Chính phủ liên hiệp kháng chiến.
Đây là chính phủ hợp hiến đầu tiên do nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách
và hiệu lực trong việc giải quyết các vấn đề đối nội và đối ngoại.
b. Quản lý Nhà nước bằng pháp luật và chú trọng đưa pháp luật
vào cuộc sống
Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý là nhà nước quản lý đất
nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế.
Trong nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật luôn đi đôi với nhau, đảm
bảo cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Mọi quyền dân chủ phải được
thể chế hoá bằng hiến pháp và pháp luật. Xây dựng một nền pháp chế
XHCN đảm bảo việc thực hiện quyền lực của nhân dân là mối quan tâm
của Hồ Chí Minh. Là người sáng lập Nhà nước Việt Nam dân chủ, có
công lớn trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp: một mặt, Người chăm lo
hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật của nhà nước ta, mặt khác,
Người chăm lo đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo cơ chế đảm bảo cho
pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành của các
cơ quan nhà nước và của nhân dân. “Trăm điều phải có thần linh pháp
quyền”. Sức mạnh là do con người và vì con người, vì vậy, Hồ Chí Minh
yêu cầu mọi người phải hiểu và tuyệt đối chấp hành pháp luật, bất kể
người đó giữ cương vị nào. Công tác giáo dục luật cho mọi người, đặc
biệt là cho thế hệ trẻ cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng một nhà
nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý, đảm bảo quyền và nghĩa vụ công
dân được thực thi trong cuộc sống.
c. Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ công chức của nhà nước có đủ
đức và tài
Để tiến tới một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh mẽ, Bác
Hồ cho rằng, phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một
đội ngũ viên chức nhà nước có trình độ văn hoá, am hiểu pháp luật, thành
thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần kiệm liêm
chính chí công vô tư, một tiêu chuẩn cơ bản của người cầm cân công lý.
Yêu cầu của đội ngũ cán bộ phải có đức và tài trong đó đức là gốc, đội
ngũ này phải được tổ chức hợp lý và có hiệu quả. Cụ thể là:
(1) Tuyệt đối trung thành với cách mạng.
(2) Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ.
(3) Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
(4) Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám
quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là những tình huống khó khăn,
“thắng không kiêu, bại không nản”.
Để đảm bảo công bằng và dân chủ trong tuyển dụng cán bộ nhà
nước, Người ký sắc lệnh ban hành Quy chế công chức. Công chức theo
chế độ chức nghiệp, vì vậy phải qua thi tuyển công chức để bổ nhiệm
vào ngạch, bậc hành chính. Nội dung thi tuyển khá toàn diện bao gồm
6 môn thi: chính trị, kinh tế, pháp luật, địa lý, lịch sử và ngoại ngữ. Điều
này thể hiện tầm nhìn xa, tính chính quy hiện đại, tinh thần công bằng
dân chủ ... của tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nền móng cho
pháp quyền Việt Nam.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch,
vững mạnh, hoạt động có hiệu quả
+ Tăng cường và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của
Nhà nước.
Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Do
tập quán của kinh tế tiểu nông, muốn hình thành ngay một nhà nước pháp
quyền là chưa được, vì vậy một mặt phải nhấn mạnh vai trò của luật
pháp, đồng thời tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân
dân nhất là giáo dục đạo đức. Đạo đức và pháp luật là hai hình thái ý thức
xã hội có thể kết hợp cho nhau. Khắc phục những biểu hiện tiêu cực sau:
- Đặc quyền, đặc lợi.
- Tham ô, lãng phí quan liêu.
- “Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”.
+ Tăng cường pháp luật đi đôi với giáo dục đạo đức cách mạng.
Bên cạnh giáo dục đạo đức, Người kịp thời ban hành pháp luật.
Kiên quyết chống ba thứ “giặc nội xâm” là tham ô, lãng phí, quan
liêu. Sức mạnh và hiệu quả của luật pháp, một mặt dựa vào tính nghiêm
minh của thi hành pháp luật, mặt khác dựa vào sự gương mẫu, trong sạch
về đạo đức của người cầm quyền. Bác nói: “Tham ô, lãng phí, quan
liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân phong
kiến,... tội lỗi ấy cũng nặng như tội việt gian, mật thám”. Mác và
Ăngghen đã từng cảnh tỉnh giai cấp vô sản rằng chủ nghĩa quan liêu có
thể dẫn các đảng cộng sản cầm quyền đến chỗ “đánh mất một lần nữa
chính quyền vừa giành được”. Lênin cũng viết “... chúng ta bị khốn khổ
trước hết về tệ quan liêu. Những người cộng sản đã trở thành tên quan
liêu. Nếu có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó”.
Vì vậy không thể nói đến một nhà nước trong sạch vững mạnh,
hiệu quả nếu không kiên quyết, thường xuyên đẩy mạnh cuộc đấu tranh
để ngăn chặn tận gốc những nguyên nhân gây ra nạn tham ô, lãng phí,
quan liêu.
III. XÂY DỰNG ĐẢNG VỮNG MẠNH, XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC NGANG TẦM NHIỆM VỤ CỦA GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG
MỚI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
3.1. Chú trọng hơn nữa xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ
chức.
3.2. Xây dựng Nhà nước ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn cách
mạng mới.
- Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân.
- Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước.
- Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của đảng đối với nhà nước.
3.3. Tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với nhà nước; gắn liền
xây dựng, chỉnh đốn Đảng với cải cách bộ máy hành chính.