LỜI NÓI ĐẦU
Với sự bùng nổ Công Nghệ Thông Tin như hiện nay, Công
Nghệ Thông Tin có ứng dụng rất quan trọng trong cuộc sống
cũng như trong công việc của chúng ta hằng ngày. Mạng Internet
là mạng máy tính toàn cầu, do hàng nghìn mạng máy tính từ
khắp nơi nối lại tạo nên. Khác với cách tổ chức theo các cấp:
nội hạt, liên tỉnh, quốc tế của một mạng viễn thông như mạng
điện thoại chẳng hạn, mạng Internet tổ chức chỉ có một cấp.
Các mạng máy tính dù to, dù nhỏ khi nối vào Internet đều bình
đẳng với nhau. Do cách thức tổ chức như vậy nên trên Internet
có cấu trúc địa chỉ, cách đánh địa chỉ đặc biệt. Đối với mạng
Internet, do cách tổ chức chỉ có một cấp nên mỗi khách hàng hay
mỗi máy chủ ( host ) hoặc Router đều có một địa chỉ Internet duy
nhất được biết đến như là địa chỉ IP ( Internet Protocol) còn gọi
là Giao Thức Internet.
Để tìm hiểu một cách sâu sắc hơn về địa chỉ IP, chúng ta tìm
hiểu về Ipv4 và Ipv6. Đồng thời, chúng ta tìm hiểu về “Các thiết
bị liên kết mạng” với những nội dung chính sau:
• Ipv4 và Ipv6 là gì? Thành phần cấu tạo của Ipv4 và Ipv6?
Sự khác biệt giữa Ipv4 và Ipv6?
• Chức năng, hoạt động, ưu nhược điểm của các thiết bị
liên kết mạng?
Sau đây chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu nội dung chi tiết
1
CHƯƠNG I: IPV4
I/ Khái niệm chung:
Địa chỉ IP (IP là viết tắt của từ tiếng Anh: International Protocol -
giao thức toàn cầu) là một địa chỉ đơn nhất mà những thiết bị điện tử
hiện nay đang sử dụng để nhận diện và liên lạc với nhau trên mạng
máy tính bằng cách sử dụng tiêu chuẩn Giao thức toàn cầu(IP).
Một cách đơn giản hơn: IP là một địa chỉ của một máy tính khi tham
gia vào mạng nhằm giúp cho các máy tính có thể chuyển thông tin cho
nhau một cách chính xác, tránh thất lạc.
Hoặc: IP là một con số được định danh cho một máy tính kết nối
với Internet. Ví dụ: IP 203.162.56.73 Domain có thể dùng IP đó để đặt
website trên đó.
Địa chỉ IP hoạt động như một bộ định vị để một thiết bị IP tìm
thấy và giao tiếp với nhau. Tuy nhiên, mục đích của nó không phải
2
dùng làm bộ định danh luôn luôn xác định duy nhất một thiết bị cụ
thể. Trong thực tế hiện nay, một địa IP hầu như không làm bộ định
danh, do những công nghệ như gán địa chỉ động và biên dịch địa chỉ
mạng.
Địa chỉ IP do Tổ chức cấp phát số hiệu Internet (IANA) quản lý và
tạo ra. Mỗi địa chỉ IP là duy nhất trong cùng một cấp mạng.
IPv4 (Internet Protocol version 4), tiếng Việt gọi là Giao thức
Internet phiên bản 4, là phiên bản đầu tiên của giao thức IP đã được
triển khai rộng khắp và là cơ sở của mạng Internet.
II. Cấu trúc địa chỉ IPV4.
A/ Thành phần và hình dạng của địa chỉ Ipv4:
Địa chỉ IP đang được sử dụng hiện tại ( IPv4) có 32 bit chia thành 4
Octet ( mỗi Octet có 8 bit tương đương 1 byte), cách đếm đều từ trái qua
phải từ bit 1 cho đến bit 32. Các Octet cách biệt nhau bằng một dấu chấm
(.).
Hình 1.1: Khuôn dạng tiêu đề địa chỉ IPv4
• Địa chỉ biểu hiện ở dạng bit nhị phân:
xyxyxyxy. xyxyxyxy. xyxyxyxy. xyxyxyxy
trong đó x, y = 0 hoặc 1.
* Ví dụ:
0 0 1 0 1 1 0 0. 0 1 1 1 1 0 1 1. 0 1 1 0 1 1 1 0. 1 1 10 0 0 0
0
↑
3
Bit nhận dạng Octet 1 Octet 2 Octet 3
Octet 4
• Địa chỉ biểu hiện ở dạng thập phân: xxx.xxx.xxx.xxx
Trong đó: x là số thập phân từ 0 đến 9.
* Ví dụ: 146.123.110.224
Dạng viết đầy đủ của địa chỉ IP là 3 con số trong từng Octet.
Địa chỉ IP thường thấy trên thực tế có thể là 53.143.10.2 nhưng dạng
đầy đủ là: 053.143.010.002
* Bao gồm có 3 thành phần chính.
Bit 1…………………………………………..32
- Bit nhận dạng lớp (Class bit), để phân biệt địa chỉ ở lớp nào.
- Địa chỉ của mạng ( Net ID).
- Địa chỉ của máy chủ ( Host ID).
Ghi chú: Tên là Địa chỉ máy chủ nhưng thực tế không chỉ có máy chủ mà
tất cả các trạm làm việc, các cổng truy nhập, v..v.. đều cần có địa chỉ để
nhận dạng.
B/ Các lớp địa chỉ của Ipv4:
Một bộ định tuyến sử dụng địa chỉ IP để chuyển tiếp gói tin từ mạng
nguồn tới mạng đích. Gói tin phải chỉ ra cả địa chỉ mạng nguồn và mạng
đích. Mỗi địa chỉ Ip cũng gồm có 2 phần: nhận dạng địa chỉ mạng- chỉ ra
mạng, và nhận dạng địa chỉ host - chỉ ra host. Mỗi octet đều có thể chia
thành những nhóm địa chỉ mạng khác nhau, quá trình chia địa chỉ có thể
được thực hiện theo mô hình phân cấp.
4
Hình 1.2: Mô hình phân cấp địa chỉ
Các địa chỉ được thực hiện theo mô hình phân cấp bởi nó chứa nhiều
mức khác nhau. Một địa chỉ IP thực hiện 2 chỉ số về địa chỉ mạng và địa
chỉ host trong cùng một địa chỉ. Địa chỉ này phải là duy nhất, bởi khi thực
hiện một địa chỉ trùng lặp sẽ dẫn đến những vấn đề về định tuyến. Phần
đầu là địa chỉ mạng (hay địa chỉ của hệ thống), phần thứ 2 là địa chỉ host
trong mạng.
Địa chỉ IP được chia thành các lớp, A, B, C, D, E. Hiện tại đã dùng hết
lớp A, B và gần hết lớp C, còn lớp D và E Tổ chức Internet đang để dành
cho mục đích khác không phân, nên chúng ta chỉ nghiên cứu 3 lớp đầu.
Lớp địa chỉ Vùng địa chỉ lý thuyết Số mạng tối đa sử Số máy chủ
dụng tối đa trên
từng mạng
A 0.0.0.0 → 127.0.0.0 126 16 777 214
B 128.0.0.0 → 191.255.0.0 16 382 65 534
C 192.0.0.0 → 233.255.255.0 2 097 150 254
5
D 224.0.0.0 → 240.0.0.0 Không phân Không phân
E 241.0.0.0 → 255.0.0.0 Không phân Không phân
Và bảng sau:
Địa chỉ Vùng địa chỉ sử dụng Bit nhận dạng Số Bit dùng để
lớp phân cho mạng
A 1 → 127 0 7
B 128.1 → 191.524 10 14
C 192.0.1 → 223.255.254 110 21
D 1110 ------
E 11110 ------
6
Hình 1.3: Cấu trúc các lớp địa chỉ IP
Qua cấu trúc các lớp địa chỉ IP chúng ta có nhận xét sau:
- Bit nhận dạng là những bit đầu tiên: của lớp A là 0, của lớp B là 10,
của lớp C là 110.
- Lớp D có 4 bit đầu tiên để nhận dạng là 1110, còn lớp E có 5 bit đầu
tiên để nhận dạng là 11110.
- Địa chỉ lớp A: Địa chỉ mạng ít và địa chỉ máy chủ trên từng mạng
nhiều.
7
- Địa chỉ lớp B: Địa chỉ mạng vừa phải và địa chỉ máy chủ trên từng
mạng vừa phải.
- Địa chỉ lớp C: Địa chỉ mạng nhiều và địa chỉ máy chủ trên từng mạng ít.
Để thực hiện những mạng với quy mô khác nhau, trước hết ta phải hiểu
được cơ chế phân lớp trong mạng, địa chỉ IP được chia thành những nhóm
được gọi là những lớp. Các nhóm ban đầu được gọi là địa chỉ phân lớp
đầy đủ. Mỗi địa chỉ IP bao gồm 32 bit được chia thành 4 phần, mỗi phần
8 bit và số thứ tự của các bit sử dụng cho việc xác định địa chỉ mạng và
địa chỉ host tùy theo lớp mà nó thuộc về.
1/ Địa Chỉ Lớp A:
Thực hiện trong những mạng lớn có khả năng hỗ trợ trên 16 triệu
máy. Chỉ bao gồm octet đầu tiên được sử dụng để chỉ ra địa chỉ mạng, 3
octet còn lại sử dụng để xác định địa chỉ của host trong mạng.
Bit đầu tiên của lớp A luôn bằng 0. số thấp nhất của octet đầu tiên có
thể thể hiện là 0, và giá trị lớn nhất là 127. Tuy nhiên giá trị 0 và 127 của
octet đầu tiên không được sử dụng trong việc định địa chỉ mạng, do đó tất
cả các địa chỉ mạng của lớp A sẽ thực hiện giá trị từ 1 tới 126 của octet
đầu tiên. Địa chỉ lớp A có thể phân cho 126 mạng và mỗi mạng có 16 777
214 máy chủ. Nói cách khác địa chỉ thực tế sẽ là: từ 001.000.000.001 đến
126.255.255.254.
8
2/ Địa chỉ lớp B:
Được thiết kế để hỗ trợ những nhu cầu cho những mạng lớn. Địa
chỉ lớp B sử dụng 2 trong số 4 octet đầu tiên làm địa chỉ mạng, 2 octet còn
lại được sử dụng để chỉ ra địa chỉ host.
Hai bit đầu tiên của octet đầu tiên của một địa chỉ thuộc về lớp B luôn
là 10, 6 bit còn lại của octet đầu tiên có thể thay đổi là 0 hoặc 1. Do đó giá
trị nhỏ nhất của octet đầu tiên của một địa chỉ lớp B sẽ là 10000000 =
128, giá trị lớn nhất sẽ là 10111111 = 191. Bất cứ địa chỉ nào có giá trị của
octet đầu tiên nằm trong khoảng từ 128 – 191 đều là những địa chỉ mạng
của lớp B.
3/ Địa chỉ lớp C:
Cũng có quy luật tương tự được thực hiện, giá trị 3 bit đầu tiên của
một địa chỉ lớp C luôn là 110. Do đó giá trị nhỏ nhất của octet đầu tiên của
một địa chỉ lớp C có thể là 11000000 = 192, giá trị lớn nhất là 11011111 =
223. Nếu một địa chỉ mạng có giá trị của octet đầu tiên rơi vào trong
khoảng 191 – 223 thì đó là một địa chỉ IP thuôc lớp C. Lớp C thực hiện 3
octet là địa chỉ mạng còn 1 octet còn lại được sử dụng làm địa chỉ host. Nó
có khả năng hỗ trợ 254 địa chỉ host cho mỗi mạng thuộc về lớp C.
9
4/ Địa chỉ lớp D:
Được tạo ra để tạo khả năng về địa chỉ multicast. Một địa chỉ IP
multicast là một địa chỉ có khả năng thực hiện việc truyền thông tin tới
một nhóm các máy trạm với địa chỉ IP unicast. Do đó, một máy trạm khi
sử dụng địa chỉ multicast có khả năng truyền đồng thời một gói tin tới
nhiều người nhận.
Bốn bit đầu tiên của một địa chỉ IP của lớp D luôn là 1110. Do đó octet
đầu tiên của một địa chỉ mạng thuộc về lớp C có giá trị nhỏ nhất là:
11100000 = 224 và giá trị lớn nhất sẽ là 11101111 = 239.
5/ Địa chỉ lớp E:
Thực hiện trong phòng thí nghiệm phục vụ mục đích nghiên cứu. Bốn
bit đầu tiên của một địa chỉ của lớp E là 1111. Do đó khoảng giá trị của
octet đầu tiên của một địa chỉ lớp E sẽ là: 240 – 255.
C/ Địa chỉ mạng con, mặt nạ mạng con và một số địa chỉ đặc biệt:
1/ Một số địa chỉ đặc biệt:
- Địa chỉ mạng IP là địa chỉ IP mà tất cả các bit thuộc phần định danh máy
( host ID) = 0.
- Địa chỉ quảng bá tới tất cả các máy trong mạng LAN.
VD: 255.255.255.255
- Địa chỉ tất cả các máy của mạng X.Y.Z ở xa.
10
VD: X.Y.Z.255
- Địa chỉ Loopback có số 127 ở đầu 127.X.Y.Z
Mục đích để thử tại chỗ các phần mềm IP.
- Địa chỉ 0.0.0.0 dùng để chỉ mạng này.
Địa chỉ 0.0.0.5 dùng để chỉ máy số 5 ở mạng này (mạng đang cài
đặt).
-Địa chỉ mạng sử dụng cho mạng riêng (mạng nội bộ, không sử dụng làm
địa chỉ internet)
+ Lớp A: 10.0.0.0
+ Lớp B: 172.16.0.0 to 172.31.255.255
+ Lớp C: 192.168.0.0 to 192.168.255.255
2/ Phương pháp phân chia địa chỉ mạng con
Trước khi nghiên cứu vấn đề này chúng ta cần phải hiểu qua một số
khái niệm liên quan tới việc phân địa chỉ các mạng con.
1/ Mặt nạ mặc định: ( Default Mask) được định nghĩa trước cho từng
lớp địa chỉ A,B,C. Thực chất là giá trị thập phân cao nhất ( khi tất cả 8 bit
đều bằng 1) trong các Octet dành cho địa chỉ mạng – Net ID.
Mặt nạ mặc định: Lớp A: 255.0.0.0
Lớp B: 255.255.0.0
Lớp C: 255.255.255.0
2/ Mặt nạ mạng con: ( Subnet Mask)
Mặt nạ mạng con là kết hợp của Mặt nạ mặc định với giá trị thập phân
cao nhất của các bit lấy từ các Octet của địa chỉ máy chủ sang phần địa
chỉ mạng để tạo địa chỉ mạng con.
Mặt nạ mạng con bao giờ cũng đi kèm với địa chỉ mạng tiêu chuẩn để
cho người đọc biết địa chỉ mạng tiêu chuẩn này dùng cả cho 254 máy chủ
hay chia ra thành các mạng con. Mặt khác nó còn giúp bộ định tuyến trong
việc định tuyến cuộc gọi.
Nguyên tắc chung
11
- Lấy bớt một số bit của phần địa chỉ máy chủ để tạo địa chỉ mạng con.
- Lấy đi bao nhiêu bit phụ thuộc vào số mạng con cần thiết mà nhà khai
thác mạng quyết định sẽ tao ra.
3/ Một số hạn chế của IPV4:
Kể từ khi chính thức được đưa vào sử dụng và được định nghĩa trong
kiến nghị RFC791 năm 1981 đến nay, IPv4 đã chứng minh được khả năng
dễ triển khai, dễ phối hợp và hoạt động và tạo ra sự phát triển bùng nổ
của các mạng máy tính. Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại, chính việc phát
triển ồ ạt các ứng dụng và công nghệ cũng như các thiết bị di động khác
đã làm bộ c lộ những yếu điểm c ủa IPv4:
- Thiếu địa chỉ IP: Sự tăng quá nhanh của các host trên mạng Internet đã
dẫn đến tình trạng thiếu địa chỉ IP trầm trọng để gán cho các node. Trong
những năm 1990, CIDR được xây dựng dựa trên khái niệm mặt nạ địa chỉ
(address mask). CIDR đã tạm thời khắc phục được những vấn đề nêu
trên. Khía cạnh tổ chức mang tính thứ bậc của CIDR đã cải tiến khả năng
mở rộng của IPv4. Mặc dù có thêm nhiều công cụ khác ra đời như kỹ
thuật subnetting (1985), kỹ thuật VLSM (1987) và CIDR (1993), các kỹ
thuật trên đã không cứu vớt IPv4 ra khỏi một vấn đề đơn giản: không có
đủ địa chỉ cho các nhu cầu tương lai. Có khoảng 4 tỉ địa chỉ IPv4 nhưng
khoảng địa chỉ này là sẽ không đủ trong tương lai với những thiết bị kết
nối vào Internet và các thiết bị ứng dụng trong gia đình có thể yêu cầu địa
chỉ IP. Do đó, một vài giải pháp tạm thời, chẳng hạn như dùng RFC1918
trong đó dùng một phần không gian địa chỉ làm các địa chỉ dành riêng và
NAT là một công cụ cho phép hàng ngàn host truy cập vào Internet chỉ với
một vài IP hợp lệ để tận dụng tốt hơn không gian địa chỉ của IPv4.
- Quá nhiều các rounting entry (bản ghi định tuyến) trên các
backbone router : Với tình hình hiện tại, do không có sự phân cấp địa chỉ
IPv4 nên số lượng các rounting entry trở nên rất lớn, lên tới 110.000 bản
ghi. Việc này làm chậm quá trình xử lý của router, làm giảm tốc độ của
mạng.
- An ninh của mạng : Với IPv4, đã có nhiều giải pháp khắc phục nhược
điểm này như IPSec, DES, 3DES… nhưng các giải pháp này đều phải cài
đặt thêm và có nhiều phương thức khác nhau đối với mỗi loại sản phảm
chứ không được hỗ trợ ở mức bản thân của giao thức.
12
- Nhu cầu về các ứng dụng thời gian thực hay vấn đề đảm bảo chất
lượng dịch vụ QoS : Các thách thức mới từ việc nảy sinh các dịch vụ
viễn thông, các yêu cầu truyền thời gian thực cho các dịch vụ multimedia,
video, âm thanh qua mạng, sự phát triển của thương mại điện tử đã đặt ra
việc đảm bảo QoS cho các ứng dụng này. QoS trong IPv4 cũng được xác
định trong trường TOS và phần nhận dạng tải trọng của gói tin IP. Tuy
nhiên trường TOS này có ít tính năng.
Vậy, trong chương này, bài tiểu luận đã đề cập tới cấu trúc địa chỉ
IPv4. Địa chỉ IPv4 có hai chức năng cơ bản: địa chỉ các giao diên mạng
( cung cấp một địa chỉ duy nhất cho nhưng giao diện khi tham gia vào
mạng Internet), hỗ trợ cho định tuyến ( để truyền tải thông tin từ mạng
này sang mạng khác). Chương tiếp theo sẽ trình bầy về địa chỉ Internet
phiên bản 6 - IPv6, đây là phiên bản được thiết kế nhằm khắc phục
những hạn chế của giao thức Internet IPv4.
13
CHƯƠNG 2:IPV6
Hệ thống địa chỉ IPv4 hiện nay không có sự thay đổi về cơ bản kể từ
RFC 791 phát hành 1981. Qua thời gian sử dụng cho đến nay đã phát sinh
các yếu tố như :
- Sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống Internet dẫn đến sự cạn kiệt
về địa chỉ Ipv4
- Nhu cầu về phương thức cấu hình một cách đơn giản
- Nhu cầu về Security(tin cậy) ở IP-Level
- Nhu cầu hỗ trợ về thông tin vận chuyển dữ liệu thời gian thực
(Real time Delivery of Data) còn gọi là Quality of Service (QoS)
- …
I/ KHÁI NIỆM CHUNG:
IPv6 (Internet Protocol version 6), tiếng Việt gọi là Giao thức
Internet phiên bản 6, là giao thức lớp mạng dùng trong mạng chuyển
mạch gói, được xem như là phiên bản tiếp theo của phiên bản IPv4.
Tương phản với IPv4, địa chỉ IPv6 có chiều dài là 128bit, điều đó cho
phép có thể biểu diễn đến 3.4×10^38 địa chỉ. Bên cạnh tăng độ dài địa chỉ
IP, IPv6 còn được thiết kế để cung ứng khả năng quản lý di động.
II/ SO SÁNH IPV4 VÀ IPV6:
Để có thể hiểu rõ hơn về IPV6 và những lợi ích cũng như ưu nhược
điểm mà IPV6 mang lại chúng ta nên so sánh với IPV4. Bởi lẽ, từ đó
chúng ta se hiểu được tính cấp thiết phải đưa IPV6 vào sử dụng trong
tương lai.
** Giống nhau: đều là một địa chỉ đơn nhất mà những thiết bị điện tử
hiện nay đang sử dụng để nhận diện và liên lạc với nhau trên mạng máy
tính bằng cách sử dụng tiêu chuẩn Giao thức toàn cầu(IP).
** Khác nhau:
14
Ipv4
Địa chỉ ipv4 có 32 bit với 4 Octet, Địa chỉ ipv6 có 128 bit gồm 8 block,
mỗi Octet có 8 bit. mỗi block 16 bit.
Không gian địa chỉ là 2^32 = 4 294 Không gian địa chỉ là 3.4*10^38 địa chỉ.
967 296 địa chỉ.
Ngoài ra, hệ thống Ipv6 còn được xây dựng với những đặc điểm chính sau:
- Định dạng phần Header của các gói tin theo dạng mới
Các gói tin sử dụng Ipv6 (Ipv6 Packet) có cấu trúc phần Header thay đổi nhằm
tăng cường tính hiệu quả sử dụng thông qua việc dời các vùng (field) thông tin
không cần thiết (non-essensial) và tùy chọn (Optional) vào vùng mở rộng
(Extension Header Field)
- Cung cấp giải pháp định tuyến (Routing) và định vị địa chỉ (Addressing) hiệu
quả hơn.
-Phương thức cấu hình Host đơn giản và tự động ngay cả khi có hoặc không có
DHCP Server
(stateful / stateless Host Configuration)(trạng thái cấu hình của máy trạm).
- Cung cấp sẵn thành phần Security(ổn định) (Built-in Security)(ổn định khi gắn
vào máy tính ).
- Hỗ trợ giải pháp Chuyển giao Ưu tiên (Prioritized Delivery) trong Routing.
- Cung cấp Protocol(giao thức) mới trong việc tương tác giữa các Điểm kết nối
(Nodes ).
- Có khả năng mở rộng dễ dàng thông qua việc cho phép tạo thêm Header ngay
sau Ipv6 Packet Header.
Chúng ta có thể tham khảo 1 Bảng so sánh giữa IPv6 Packet và IPv4 packet
sau :
15
Ipv4 Ipv6
IPSec là tùy chọn IPSec là bắt buộc
Phân mảnh có thể diễn ra ở bên gửi Phân mảnh không diễn ra tại router
tin hoặc là tại router
Header bao gồm cả checksum Header không bao gồm checksum
Header có thêm trường option Trường option được chuyển qua phần
mở rộng(Extension header) của
Header
Giao thức phân giải địa chỉ (ARP) gửi "Broadcast ARP Request" được thay
"Broadcast ARP request" để tìm xem thế bở i "multicast Neighbor
ứng với địa chỉ IPv4 này có địa chỉ
MAC nào Solicitasion messages"
Internet Group Management IGMP được thay thế bởi "Multicast
protocol(IGMP) là giao thức dùng để Listener Discovery(MLD) messages".
quản lý nhóm
Nếu trong một mạng có nhiều ICMP Router Discovery được thay thế
Gateway thì "ICMP Router Discovery" bởi "ICMPv6 Router Solicitasion and
được dùng để tìm địa chỉ của Gateway
tốt nhất Router Advertisement messages"
Địa chỉ broadcast dùng để gửi thông Không có địa Broadcast.Thay vào đó là
tin tới tất cả các Nodes trong mạng dùng địa chỉ Multicast nhưng cho tất
cả các nodes
Thiết lập thông số cho card mạng Không yêu cầu cấu hình bằng tay
bằng tay hoặc thông qua DHCP hoặc thông qua DHCP mà có thể dùng
"Address Autoconfiguration"
Dùng bản ghi a để ánh xajteen miền Còn ở IPv6 dùng bản ghi AAAA
sang địa chỉ IP
Kích cỡ gói tin là 576bye và có thể Kích cỡ gói tin là 1280 byte và không
chia nhỏ bị chia nhỏ
• So sánh khuôn dạng giữa IPV4 và IPV6 p:
16
Khuôn dạng gói tin IPv4/ IPv6
IPv4 IPv6
Version Cùng trường nhưng với các số phiên bản
khác nhau.
Tiêu đề Length Được loại bỏ trong IPv6. IPv6 không chứa
trường Tiêu đề Length bởi vì tiêu đề của
IPv6 luôn luôn cố định là 40 byte. Mỗi tiêu
đề mở rộng có kích thước cố định hoặc có
địa chỉ của riêng nó.
Type of Service Được thay thế bằng trường Traffic Class
Total Length Được thay thế bằng trường Payload Length
chỉ kích thước của trọng tải.
Identification, Fragmentation, Được loại bỏ trong IPv6. Thông tin phân
Fragment Offset mảnh không có trong tiêu đề của IPv6. Nó
được chứa trong tiêu đề mở rộng phân
mảnh.
Time to live Được thay thế bằng trường Hop Limit.
Protocol Được thay thế bằng trường Next Header.
17
Tiêu đề Checksum Được loại bỏ trong IPv6. Trong IPv6 việc
phát hiện lỗi cấp độ bit cho cả gói IPv6
được thực hiện bởi lớp liên kết.
Source Address Trường này giống nhau chỉ khác là địa chỉ
IPv6 có 128 bit.
Destination Address Trường này giống nhau chỉ khác là địa chỉ
IPv6 có 128 bit.
Options Được loại bỏ trong IPv6. IPv4 options được
thay thế bởi IPv6 extension header.
So Sánh khuôn dạng gói tin IPv4/ IPv6
III/ CẤU TRÚC ĐỊA CHỈ IPV6:
A/ THÀNH PHẦN VÀ HÌNH DẠNG CỦA IPV6:
Địa chỉ IPv6 (IPv6 Adddress) với 128 bits với số địa chỉ là 2^128 địa
chỉ, sấp xỉ 3.4*10^38 địa chỉ.
IPv6 Address gồm 8 block, mỗi block có 16 bits được biểu diển
dạng số Thập lục phân (Hexa-Decimal).
Vd_1: 2001:0DB8:0000:2F3B:02AA:00FF:FE28:9C5A
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8)
Có thể đơn giản hóa với quy tắc sau :
+ Cho phép bỏ các số không (0) nằm phía trước trong mỗi nhóm
+ Thay bằng 1 số 0 cho nhóm có giá trị bằng 0
+ Thay bằng :: cho các nhóm liên tiếp có giá trị bằng không.
Như vậy địa chỉ ở Vd-1 có thể viết lại như sau :
2001:DB8:0:2F3B:2AA:FF:FE28:9C5A.
B/ PHÂN LOẠI ĐỊA CHỈ IPV6:
Một số khái niệm chung:
• Link-Local : khái niệm chỉ về các Host kết nối cùng hệ thống
thiết bị vật lý (tạm hiểu Hub, Switch)
18
• Site-Local : khái niệm chỉ về các Host kết nối cùng Site
• Node : điểm kết nối vào mạng (tạm hiểu là Network Adapter).
Mỗi Node sẽ có nhiều IPv6 Address cần thiết (Interface Address)
dùng cho các phạm vi (Scope), trạng thái (State), vận chuyển
(Tunnel) khác nhau thay vì chỉ có 1 địa chỉ cần thiết như IPv4
• Do vậy khi cài đặt IPv6 Protocol trên một Host, mỗi Network
Adapter sẽ có nhiều IPv6 Address gán cho các Interface khác nhau.
1/ UNICAST ADRESS:
Unicast Address dùng để định vị một Interface trong phạm vi các
Unicast Address. Gói tin (Packet) có đích đến là Unicast Address sẽ thông
qua Routing để chuyển đến 1 Interface duy nhất.
IPv6 Unicast Address gồm các loại :
• Global unicast addresses
• Link-local addresses
• Site-local addresses
• Unique local IPv6 unicast addresses
• Special addresses
a-Global unicast addresses (GUA):
GUA là địa chỉ IPv6 Internet (tương tự Public IPv4 Address). Phạm vi định
vị của GUA là tòan bộ hệ thống IPv6 Internet (RFC 3587)
19
001 : 3 bits đầu luôn có giá trị = 001 nhị phân (Binary – bin) (Prefix = 001
/3)
Global Routing Prefix : gồm 45 bits. Là địa chỉ được cấp cho một tổ chức,
Công ty / Cơ quan ..(Organization) khi đăng ký IPv6 Internet Address
(Public IP)
Subnet ID : gồm 16 bits. Là địa chỉ tự cấp trong tổ chức để tạo các
Subnets
Interface ID : gồm 64 bits. Là địa chỉ của Interface trong Subnet.
Có thể đơn giản hóa thành dạng như sau (Global Routing Prefix = 48 bits)
Các địa chỉ Unicast trong nội bộ (Local Use Unicast Address) : gồm 2
loại :
Link-Local Addresses : gồm các địa chỉ dùng cho các Host trong cùng Link
và Neighbor Discovery Process (quy trình xác định các Nodes trong cùng
Link)
Site-Local Addresses : gồm các địa chỉ dùng để các Nodes trong cùng Site
liên lạc với nhau.
b-Link-local addresses (LLA):
20