logo

Chương 9: Các ứng dụng trong môi trường


Chương 9 Các ứng dụng trong môi trường I. Mở đầu Như chúng ta biết, môi trường sống hiện đang bị ô nhiễm trầm trọng, giải quyết nạn chất thải vẫn là vấn đề hết sức nan giải, đặc biệt là chất thải công nghiệp ảnh hưởng rất lớn đến môi sinh. Ngoài ra, một khối lượng lớn chất thải dân dụng, rác thành phố, phế phẩm nông nghiệp... cũng đã và đang gây ô nhiễm nặng nề môi trường sống. Dân số của thế giới lại không ngừng tăng, nhu cầu tiêu thụ hàng hóa càng lớn, khối lượng hàng hóa phải sản xuất ra ngày càng nhiều, vì thế lượng rác do sản xuất và tiêu thụ thải vào môi trường là không nhỏ. Cùng với sự phát triển của khoa học-kỹ thuật, loài người đang phải bắt đầu tìm cách giải quyết vấn đề bảo vệ môi trường bằng nhiều biện pháp khác nhau. Trong đó, các biện pháp công nghệ sinh học ngày càng tỏ ra ưu việt hơn so với các biện pháp khác. Nói chung, hiện nay vấn đề bảo vệ môi trường được giải quyết theo ba hướng sau: 1) Phân hủy các độc chất vô cơ và hữu cơ; 2) Phục hồi các chu trình trao đổi chất của C, N, P và S trong tự nhiên; 3) Thu nhận các sản phẩm có giá trị ở dạng nhiên liệu hoặc các hợp chất hữu cơ. Hiện tại có hai vấn đề cơ bản được đặt ra: 1) Giải quyết tiêu hủy một khối lượng khổng lồ các loại chất thải ngày càng nhiều mà không ảnh hưởng đến môi trường. 2) Vô hiệu hóa các loại chất độc sinh ra trong quá trình phân hủy các loại chất thải công nghiệp, đã gây ô nhiễm nghiêm trọng đất, nước, không khí, và gây nguy hiểm đến sức khỏe con người và động vật. Với sự phát triển của công nghệ sinh học nói chung và công nghệ DNA tái tổ hợp nói riêng, việc nghiên cứu và ứng dụng thành tựu công nghệ sinh học để giải quyết vấn đề môi trường được đặt ra cấp bách và thực sự đang được ứng dụng ngày càng rộng rãi. II. Xử lý nước thải Cho đến nay, các chất thải trong hoạt động sống của con người đều được xử lý một cách tự nhiên nhờ vi sinh vật. Nhìn chung, quá trình này bao Nhập môn Công nghệ sinh học 302 gồm một số giai đoạn sau: 1) Loại bỏ phần rắn, tủa và cặn. 2) Phân hủy các chất hữu cơ tan trong nước nhờ vi khuẩn hiếu khí để tạo ra bùn non (còn gọi là bùn hoạt tính), bùn non sau đó bị loại bỏ hoặc được đưa vào bể phản ứng để tái sử dụng. 3) Tạo tủa và tách P và N (giai đoạn này có khi không cần thiết). 4) Xử lý bùn tạo ra ở giai đoạn 1 và 2 bằng phân hủy yếm khí. Quá trình này làm giảm thể tích cặn, số lượng vi sinh vật gây bệnh, làm mất mùi hôi và tạo ra nhiên liệu sinh học chứa khí methane, còn gọi là biogas. 1. Xử lý hiếu khí bằng hệ thống bùn hoạt tính Công nghệ xử lý chất thải bằng bùn hoạt tính có công suất lớn hơn nhiều so với xử lý bằng bộ lọc thấm. Tuy nhiên, nó cũng có một số nhược điểm sau: do cường độ sử dụng lớn hơn, nên mức tiêu thụ năng lượng để khuấy trộn không khí cũng như số lượng sinh khối được tạo ra lớn hơn (Bảng 9.1). Công nghệ này thích hợp để xử lý nước thải cho các điểm dân cư đông đúc, vì nó chiếm ít diện ích hơn so với hệ thống xử lý theo công nghệ lọc thấm. Bảng 9.1. So sánh các quá trình xử lý nước thải khác nhau Xử lý hiếu khí Xử lý yếm khí Bùn hoạt tính MBR UASB BOD còn lại Thấp Rất thấp Cao N và P còn lại Thấp Thấp Cao Sản xuất bùn Cao Rất thấp Rất thấp Năng lượng Cao Cao Thấp Diện tích đáy Lớn Rất nhỏ Rất nhỏ Độ tin cậy Phần lớn là bùn Thô Nổi hạt nhỏ Chú thích: MBR: bể phản ứng sinh học màng (membrane bioreactor) UASB: bể phản ứng kiểu lớp phủ bùn thải yếm khí chảy lên (upflow anaerobic sludge blanket reactor). Nhập môn Công nghệ sinh học 303 Thực tế có khá nhiều hệ thống xử lý theo công nghệ này. Thiết kế của chúng khác nhau tùy thuộc vào hệ số thông khí và cách thức cung cấp khí (Hình 9.1). Bùn non trong hệ thống xử lý này chứa nhiều nước hơn so với bùn non trong bộ lọc thấm, vì vậy chứa ít chủng loại vi sinh vật hơn. Để quá trình xử lý đạt kết quả, việc xác định thành phần và nồng độ các chất trong nước thải là vấn đề quan trọng bậc nhất nhằm tạo điều kiện cho nhiều nhóm vi sinh vật tham gia quá trình xử lý. Các vi sinh vật quan trọng nhất là nhóm vi khuẩn tự dưỡng chất hữu cơ như: Achromobacter, Flavobacterium, Pseudomonas và Moraxella. Trường hợp nước thải có hàm lượng chất vô cơ cao, thì cần sự có mặt các loại vi khuẩn như: Thiobacillus, Nitrosomonas, Nitrobacter và Ferrobacillus, chịu trách nhiệm oxy hóa S, NH3 và Fe. Bể thiếu oxygen Bể hiếu khí Bể lắng Nước thải Chất lỏng Không khí Thu hồi nitrate Bùn thải Thu hồi bùn Hình 9.1. Sơ đồ dòng chảy của bùn hoạt tính với sự loại bỏ N sinh học 2. Xử lý yếm khí Trong quá trình xử lý yếm khí chất thải (lên men tạo khí methane) có ba nhóm vi khuẩn tham gia: 1) Nhóm vi khuẩn chịu trách nhiệm thủy phân và lên men. 2) Nhóm vi khuẩn tạo H2 và acetic acid. 3) Nhóm vi khuẩn tạo khí methane tự dưỡng sử dụng H2. Để nâng cao hiệu suất của quá trình lên men, hiện nay người ta vẫn tiếp tục hoàn thiện các loại giống, chủng vi khuẩn lên men yếm khí bằng biện pháp chọn lọc tự nhiên hoặc nhờ phương pháp công nghệ DNA tái tổ hợp. Đặc biệt, về mặt công nghệ người ta cần phải chú ý khắc phục các yếu tố giới hạn tốc độ phân hủy cơ chất có mặt trong chất thải như cellulose, tinh bột... và tốc độ tạo khí methane. Cần lưu ý Nhập môn Công nghệ sinh học 304 một số sản phẩm cuối của quá trình lên men như H2, CO2 và H2S thường có tác động ức chế ngược làm giảm hoạt động của vi khuẩn tạo khí methane. Trong thực tế có rất nhiều kiểu thiết bị lên men yếm khí. Từ những dạng cấu tạo đơn giản hoàn toàn thủ công, cho đến các hệ thống xử lý có cấu tạo khá phức tạp hiện đang hoạt động ở một số nước phát triển. Dưới đây là kiểu thiết bị lên men yếm khí tương đối điển hình và đang được sử dụng khá rộng rãi (Hình 9.2). Biogas Chất lỏng chảy ra Lớp bùn yếm khí (vùng phân cắt) Chất lỏng chảy vào Hình 9.2. Sơ đồ của bể phản ứng UASB 3. Thu hồi nước (water recycling) Hiện nay, trên thế giới vấn đề thiếu nước ngày càng trở nên trầm trọng, do đó việc sử dụng lại nước thải sau khi được xử lý sẽ là một hướng ưu tiên trong các thập kỷ tới. Ở các nước thuộc thế giới ba việc sử dụng nước thải thô của chăn nuôi để tưới trực tiếp cho cây trồng lương thực khá phổ biến. Một hệ thống vòng khép kín như thế có khả năng gây nhiễm bẩn rất lớn các cây trồng lương thực với các virus gây bệnh hoặc prion. Đây cũng là một thách thức lớn trong việc thực hiện các công trình có giá trị kinh tế nhằm sản xuất nước tưới an toàn vệ sinh mà không loại bỏ các chất có thể sử dụng làm phân bón Nhập môn Công nghệ sinh học 305 như là N và P. Trong trường hợp này, sự phân hủy yếm khí là rất có triển vọng. Một hoạt động sử dụng nước rất nhiều nữa là sản xuất công nghiệp, chẳng hạn công nghiệp thực phẩm, kim loại, dệt và giấy. Hiện nay, các hoạt động sản xuất này đang phát triển các hệ thống xử lý mới cho phép thu hồi nước thải của họ trong một hệ thống vòng kép kín. Đặc trưng, là một hệ thống các quy trình sản xuất nước chất lượng cao từ nước thải của quá trình sản xuất. Quy trình này thường phối hợp các xử lý sinh học ở giai đoạn đầu và các xử lý hóa-lý ở bước cuối cùng. Ví dụ: nhà máy sản xuất chip khoai tây sử dụng một chuỗi các quá trình bao gồm xử lý hiếu khí và yếm khí, lọc, khử trùng bằng khí ozone và thẩm thấu ngược. Một hệ thống xử lý phức tạp như thế cần thiết được thực hiện để loại bỏ hoàn toàn các carbohydrate, thuốc diệt cỏ và vi sinh vật. Thực tế cho thấy, để sản xuất một tấn thép người ta cần 280 tấn nước. Trong trường hợp này, những cố gắng thu hồi nước từ các lò luyện than cốc thông qua xử lý bùn hoạt tính đã bị đe dọa bởi sự nhiễm độc bùn thải nhanh khi hơn 50% nước xử lý đã được tái sử dụng. Nguyên nhân do sự tích lũy các hợp chất hữu cơ độc tính cao, vì vậy nó cũng chỉ ra sự cần thiết phải nghiên cứu cẩn thận về các hợp chất hữu cơ còn thừa và thậm chí các sản phẩm vi sinh vật đã làm tăng quá trình chuyển hóa không hoàn toàn. Nhiều thiết bị xử lý ướt nguyên liệu dệt hiện nay đang nâng cấp các hệ thống xử lý nước thải của nó để thu hồi nước. Do thành phần hóa học của các chất thải lỏng thay đổi rất lớn (tùy thuộc vào loại vải và thuốc nhuộm đang được xử lý), cho nên ít có hai nhà máy dệt cùng áp dụng một phương thức để xử lý nước thải của họ (Hình 9.3). III. Phân hủy bùn hữu cơ Sản xuất các loại bùn hữu cơ, chẳng hạn như bùn thải hoặc phân động vật, đang tăng lên ở nhiều nơi trên thế giới và chúng thường được sử dụng một cách tùy tiện, ví dụ như các ứng dụng của chúng lên đất nông nghiệp. Vì thế, hiện nay số lượng các nước có lệnh cấm sử dụng tùy tiện đang tăng lên do sự ô nhiễm của nước ngầm. Các quá trình xử lý thân thiện với môi trường hơn cho các loại bùn hữu cơ lại có giá thành cao và/hoặc hiệu quả kém. Nhập môn Công nghệ sinh học 306 Nước thải Bùn hoạt tính Làm đông/kết bông Lọc cát Hệ lọc sinh học bằng carbon hoạt tính dạng hạt Nước xử lý sạch Hình 9.3. Sơ đồ dòng chảy xử lý trong công nghiệp dệt. Nước sau khi xử lý được dùng để rửa, tẩy sạch, tẩy trắng, nhuộm và in. Xử lý sinh học kết hợp với xử lý hóa-lý để đạt được sự tinh sạch cần thiết. Quá trình xử lý cho hiệu quả tốt đối với các bùn thải và phân động vật là sự phân hủy yếm khí trong các bể phản ứng được trộn đều (completely- mixed reactor). Trong suốt quá trình này, khoảng 50% chất rắn được biến đổi thành biogas, trong khi phần còn lại hầu như được ổn định. Sản lượng biogas của các chất phân hủy yếm khí có thể được tăng lên bằng cách đồng phân hủy (co-digesting) phân động vật hoặc bùn thải với 10-20% các chất thải rắn từ công nghiệp thực phẩm và nông nghiệp, ví dụ: chất thải của lò mổ gia súc, dược phẩm, nhà bếp, chất thải lên men hoặc chất thải đô thị. Nhập môn Công nghệ sinh học 307 Các bể phản ứng được trộn đều để xử lý các bùn thải hữu cơ có tốc độ nạp thấp, khoảng từ 2-5 kg chất hữu cơ/m3 bể phản ứng trong một ngày, do các chất hữu cơ dạng hạt phải được hòa tan trước khi chúng có thể thực hiện biến đổi yếm khí (Bảng 9.2). Tốc độ hòa tan các chất thải hữu cơ có thể khá thấp, chẳng hạn cần phải mất 15 ngày mới thủy phân được 90%. Vì thế, cần duy trì thời gian ít nhất là 20 ngày, có khi lên tới 60 ngày hoặc lâu hơn. Bảng 9.2. Các thông số thiết kế cho các loại bể phản ứng yếm khí Bể phản Bể phản Bể phản ứng ứng được ứng trạng UASB trộn đều thái rắn Chất lỏng được xử lý Nước thải Bùn hữu Các chất cơ thải rắn Nồng độ chất rắn trong bể phản ứng < 50 50-100 200-400 (g/L) Tốc độ nạp (kg chất hữu cơ/m3 ngày) 10-30 2-5 20-40 Thời gian giữ nước (ngày) 0,3-1 20-40 10-20 Thời gian giữ chất rắn (ngày) >20 20-40 10-20 Thực hiện sự phân hủy ở các mức nhiệt độ cao cũng có thể cải thiện được hiệu suất do tốc độ thủy phân của các chất dạng hạt tăng lên cùng với việc tăng nhiệt độ. Nhờ hiểu biết đầy đủ về quá trình phân hủy ưa nhiệt người ta đã xây dựng được một số hệ phân hủy ưa nhiệt quy mô lớn để xử lý phân bón đồng ruộng. Khi thực hiện ở nhiệt độ cao, các bể phản ứng này cho phép thu được chất lỏng không có tác nhân gây bệnh, không giống như trường hợp phân hủy ưa nhiệt trung bình, thường thất bại do còn lại các tác nhân gây bệnh có nguồn gốc từ phân. Trước đây, một số hạn chế đã làm cho sự phân hủy ưa nhiệt khó trở thành thông dụng, ví dụ các khó khăn của sự khởi động và độ nhạy đối với một vài nhân tố stress nào đó như NH3 và H2S. Đất sét bentonite có thể được dùng để loại bỏ sự Nhập môn Công nghệ sinh học 308 ức chế NH3. Mặt khác, H 2S có thể bị phá hủy bằng cách đưa vào các chất nhận điện tử, ví dụ oxygen hoặc nitrate trong bể phản ứng. Phương pháp kết tủa thông qua điều chỉnh pH bằng vôi là giải pháp hữu hiệu vì độ pH cao cũng có thể giúp loại bỏ ammonium. Phương pháp này cũng có thể được phối hợp với việc bổ sung muối nhôm hoặc muối sắt, tốt nhất là từ một nguồn rẻ tiền như loại nước thải giàu nhôm/sắt từ các thiết bị sản xuất nước uống. Vẫn còn một phương pháp nữa để tối ưu các điều kiện kết tủa MgNH4PO4 đó là thông qua làm lạnh và tách CO2. Các công nghệ hiện nay như ổn định yếm khí hoặc hiếu khí, nghiền đất (land disposal) và đốt các bùn thải hữu cơ cung cấp các phương thức làm mất nước (làm khô) bùn thải từ 2-5% tới 25-40% chất khô có thể được phát triển rẻ tiền và hiệu quả hơn. Thách thức chính đối với công nghệ sinh học môi trường là phát triển các enzyme, các sản phẩm và phương thức xử lý cho phép làm mất nước của sinh khối vi sinh vật (bùn dư) tới mức thích hợp. Các phát triển mới đang được ứng dụng thương mại dựa vào sự sinh nhiệt trong quá trình hậu xử lý hiếu khí để bốc hơi lượng nước thừa. Quá trình “làm khô sinh học này” đòi hỏi ít năng lượng hơn các kỹ thuật làm khô bằng nhiệt. Tuy nhiên, còn một khó khăn rất nhạy cảm đó là sự sinh ra mùi thối đã làm ngừng hoạt động của một số nhà máy. IV. Xử lý chất thải rắn Các phương pháp xử lý chất thải rắn thường được sử dụng là chôn trong đất (landfilling) hoặc đốt. Hiện nay, phương pháp chôn trong đất ngày càng ít được lựa chọn do chúng ngăn cản sự thu hồi các sản phẩm có thể dùng lại được (plastic, giấy, các vật liệu xây dựng...) và chúng không hiệu quả lắm trong việc thu hồi năng lượng (biogas). Hơn nữa, chôn trong đất ngâm có thể gây ra sự bốc mùi của khí gây ô nhiễm môi trường. Tương tự như thế, các lò đốt không cho phép thu hồi nguyên liệu mặc dù chúng có thể được thiết kế để thu hồi năng lượng từ chất thải. Các lò đốt có nhiều hạn chế như giá thành cao và ngoài ra hệ thống khí của ống khói cần được thiết kế tinh vi để tránh ô nhiễm môi trường. Hiện nay, một phương thức xử lý chất thải rắn công nghiệp và đô thị khác đang được thực hiện nhờ vào thiết bị phân tách và sản xuất phân ủ. Đây là những thiết bị rất lớn và phức tạp, có năng suất cao (100.000 tới Nhập môn Công nghệ sinh học 309 300.000 tấn chất thải/năm), được thiết kế một hệ phân tách vật lý để thu hồi các vật liệu khác nhau từ các vật bỏ đi, như: - Cát và sỏi bán lại như vật liệu xây dựng. - Sắt bán lại cho công nghiệp luyện kim. - Nhôm và các kim loại không chứa sắt khác có giá trị bán lại cao. - Giấy và giấy cartoon bán cho công nghiệp giấy. - Các plastic cứng và mềm được dùng lại hoặc đốt. - Các chất hữu cơ có thể phân hủy sinh học được biến đổi thành phân ủ và biogas. Phân đoạn hữu cơ của chất thải rắn đô thị được dùng làm phân bằng phương pháp hiếu khí hoặc yếm khí. Trong khi sản xuất phân hiếu khí là một công nghệ được ứng dụng từ lâu, thì những phát triển gần đây trong sản xuất phân yếm khí cũng đã có một vài tiến bộ (Bảng 9.3). Bảng 9.3. So sánh các loại phân hiếu khí và yếm khí Phân hiếu khí Phân yếm khí Chi phí 60 bảng Anh/tấn (ẩm) 75 bảng Anh/tấn (ẩm) Diện tích đáy Lớn Nhỏ Cân bằng năng lượng Tiêu thụ năng lượng Sản sinh năng lượng Mùi thối Có vấn đề Không có vấn đề Chất lượng phân Hàm lượng phân Cao (độc) Thấp Các tác nhân gây bệnh Có Không Các công ty môi trường khác nhau đã thiết kế các hệ phân hủy yếm khí khác nhau cho chất thải rắn như: - Nồng độ chất rắn trong bể phản ứng: 50-400 g/L. - Nhiệt độ thích hợp từ nhiệt độ trung bình (35oC) tới nhiệt độ cao (55oC). Nhập môn Công nghệ sinh học 310 - Số giai đoạn lên men (một hoặc hai). Một thiết kế như thế đã được thực hiện đó là quá trình DRANCO (dry anaerobic composting) dùng nhiệt độ cao (55oC) ở nồng độ chất rắn lớn (200-400 g/L) trong lên men một giai đoạn. Thực tế, đây là một quá trình tương tự với quá trình phân hủy tự nhiên chất thải chôn trong đất, chỉ khác ở chỗ nó được tiến hành trong bể phản ứng kín được điều chỉnh tốt và ở tốc độ phản ứng lớn hơn nhiều. Các tốc độ phản ứng rất cao có thể đạt tới giúp cho nó có khả năng hoàn thành quá trình phân hủy trong hai tuần (Bảng 9.2) thay cho 20 năm ở trong đất. Vấn đề cốt lõi của quá trình này là nhiệt độ cao và cường lực phối trộn thông qua sự tuần hoàn khép kín cho phép tốc độ phản ứng cao hơn nhiều và cung cấp chất rắn trực tiếp vào trong bể phản ứng không cần bổ sung nước pha loãng. Do khuấy cơ học không đủ khả năng làm khô, nên sản phẩm của bể phản ứng được thu hồi vài lần, với việc bổ sung nguyên liệu sạch cung cấp ở mỗi lần (passage) (Hình 9.4). Vòng thu hồi đảm bảo phối trộn đầy đủ và cho phép đưa nguyên liệu cung cấp vào. Sản phẩm cuối cùng là đất mùn được dùng làm phân ủ hiếu khí rất tốt trong trồng trọt. Nguyên nhân để các phân ủ hiếu khí có thể gây độc đối với cây trồng là do hàm lượng muối cao của chúng, trong khi đó các phân ủ yếm khí hầu như như ít muối do thực tế là khoảng một nửa trong số chúng bị đào thải bằng nước trong máy nén lọc (Hình 9.4). Hơn nữa, các phân ủ yếm khí chứa ít hạt cỏ dại và các tác nhân gây bệnh vi sinh vật hơn so với phân ủ hiếu khí. Tuy nhiên, giá trị thị trường của các phân ủ khá thấp và hậu xử lý đặc trưng sẽ phải được tìm kiếm cho các ứng dụng khác nhau. Vấn đề sau có thể được thực hiện bằng cách bổ sung các vi sinh vật hữu ích như là cố định nitrogen và các vi khuẩn kích thích sinh trưởng thực vật, mycorrhizae hoặc các vi sinh vật điều khiển sinh học (biocontrol). Sự phục hồi các đất bị ô nhiễm cũng có thể hữu ích nhờ bổ sung phân ủ vì chúng có thể giúp phân hủy các hợp chất xenobiotic trong các vùng đất này. V. Xử lý khí thải 1. Loại bỏ các hợp chất vô cơ dễ bay hơi (volatile organic compounds- VOCs) Các phương pháp xử lý hóa-lý truyền thống cho các khí thải công nghiệp gây ô nhiễm, như là đốt hoặc dùng các bộ lọc than hoạt tính, có khuynh hướng thải nhiều năng lượng và tạo ra sự ô nhiễm thứ cấp. Để đốt Nhập môn Công nghệ sinh học 311 cháy các khí này (với nồng độ gây ô nhiễm là 100 mL/m3) trong các lò đốt, ít nhất cần 50 L methane được bổ sung/m3 để đảm bảo để phá vỡ hoàn toàn cấu trúc. Trong hầu hết trường hợp, một bể phản ứng sinh học có thể thực hiện oxy hóa các VOCs bằng cách cho tiếp xúc khép kín với các vi sinh vật phân hủy, O2, H2O và các chất dinh dưỡng. Biogas Lửa Khí trong đất Hệ thủy phân Dranco Dự trữ Máy nổ + Điện khí Máy phát điện 2450 m3 Đệm Nhiệt thải Tiền xử lý chất thải sinh học Đơn vị Máy lọc Hoàn thiện liều lượng Bơm Humotex ép hiếu khí Hơi nước Nước ép Hệ lọc Khí sạch sinh học Ly tâm Cô Khí ô nhiễm Đệm chất Hơi nước Máy lọc Hơi nước Máy cô tới bơm lỏng hơi đốt Hơi nước Ngưng hơi Máy tạo hơi nước Nhiệt thải Hình 9.4. Sơ đồ dòng chảy của hệ sản xuất phân trộn yếm khí Các chất gây ô nhiễm có tốc độ phân hủy sinh học khác nhau: - Phân hủy sinh học nhanh: alcohols, ketones, aldehydes, các acid hữu cơ, N hữu cơ. Nhập môn Công nghệ sinh học 312 - Phân hủy sinh học chậm: phenols, hydrocarbons, các dung môi (ví dụ: chloroethene). - Phân hủy sinh học rất chậm: các hydrocarbon đa halogen và đa nhân thơm. Các thiết kế bể phản ứng khác nhau được sử dụng để xử lý khí bằng phương pháp sinh học (Hình 9.5A). Trong các hệ lọc sinh học, không khí nhiễm bẩn chảy chậm qua một môi trường xốp ẩm (phân ủ, than bùn, vỏ dăm bào) làm giá thể (vật đỡ) cho quần thể vi sinh vật phân hủy sống trong màng nước mỏng bọc vật liệu giá thể rắn. Dòng chảy của lớp không khí bề mặt khác nhau từ 1-15 cm/s. Tốc độ này cho hiệu suất thời gian tiếp xúc (với một đệm nhồi đặc trưng cao từ 1-3 cm) từ 10-100 s. Đối với các hợp chất phân hủy sinh học bình thường, có thể đạt được hiệu suất loại bỏ tới 90% với tốc độ nạp từ 0,1-0,25 kg các chất hữu cơ/m3 bể phản ứng trong một ngày. Các ưu điểm của hệ lọc sinh học là: - Thiết kế đơn giản và rẻ tiền (vật liệu giá thể được thay thế sau 2-4 năm). - Diện tích mặt trong cao làm cho hệ lọc sinh học thích hợp một cách lý tưởng để loại bỏ các chất ô nhiễm kém hòa tan, chẳng hạn các hydrocarbon. - Có khả năng đưa vào các vi khuẩn thích nghi đặc biệt để phá vỡ các hợp chất xenobiotic, chẳng hạn chloromethane. Vấn đề khó khăn nhất là kiểm soát pH trong các hệ lọc sinh học vì H2S sẽ bị oxy hóa thành H2SO4, NH3 thành HNO3, và các chất hữu cơ chứa chloro thành HCl. Nhược điểm lớn nhất của hệ lọc sinh học là: - Cần một không gian nền lớn. - Không có khả năng điều chỉnh các điều kiện của quá trình, chẳng hạn như pH. - Các vật liệu giá thể như phân ủ tự chúng sản sinh ra các mùi. Các nhược điểm này của hệ lọc sinh học có thể khắc phục được trong máy lọc hơi đốt sinh học (bioscrubber) (Hình 9.5B). Một máy lọc hơi đốt truyền thống chuyển một chất hiện diện trong dòng khí tới dòng chất lỏng bằng cách phun chất lỏng trong buồng qua bộ phận mà khí được chuyển qua. Trong máy lọc hơi đốt sinh học, các chất lỏng được phun là dịch huyền phù của các vi sinh vật quay vòng ngược và hướng tới trước giữa buồng Nhập môn Công nghệ sinh học 313 phun và một hệ xử lý nước thải bằng phân hủy sinh học. Các thông số của quá trình như cung cấp chất dinh dưỡng thích hợp và pH được điều chỉnh dễ dàng hơn nhiều (trong chất lỏng tuần hoàn) so với hệ lọc sinh học, dẫn tới các tốc độ phản ứng nhanh. Trong khi các hệ lọc sinh học đòi hỏi một diện tích đáy lớn vì chiều cao của chúng không được vượt quá 1 m để tránh cồng kềnh, thì các máy lọc hơi đốt sinh học đòi hỏi một không gian ít hơn nhiều bởi vì bể phân hủy sinh học có thể cao một vài mét. A. Hệ lọc sinh học Nước Khí sạch Vật liệu giá thể Khí thải Máy giữ độ ẩm Hệ lọc sinh học B. Máy lọc hơi đốt sinh học Điều chỉnh pH và chất dinh dưỡng Khí sạch Bùn hoạt tính Không khí Khí thải Buồng phun Hệ xử lý (máy lọc hơi đốt) nước thải đặc Hình 9.5. Hệ lọc sinh học và máy lọc hơi đốt sinh học được dùng để loại bỏ VOCs khỏi khí thải Nhập môn Công nghệ sinh học 314 Máy lọc hơi đốt sinh học là loại thích hợp nhất cho các dòng chảy khí lớn do áp suất ngược thấp và kích thước nhỏ của chúng. Tuy nhiên, chúng có thể chỉ được dùng để loại bỏ các khí hòa tan hoàn toàn vì tốc độ chuyển khối trong buồng phun của chúng kém hơn trong hệ lọc sinh học. Trường hợp nồng độ các chất nhiễm bẩn thu được ở trong khí thải là quá cao, thì một máy lọc hơi đốt sinh học thứ hai được đưa vào có bổ sung các vi sinh vật có khả năng phân hủy nồng độ chất nhiễm bẩn thấp hơn. Hiện nay, các nghiên cứu đang tập trung thiết kế một hệ thống có thể phối hợp sự hấp thụ khí trên bề mặt rắn (ví dụ: than hoạt tính) và phân hủy sinh học các hợp chất sorbic. Các màng lọc sinh học loại dòng chảy nhỏ giọt (bio-trickle filters) là các tấm plastic hoặc môi trường giá thể cho các vi sinh vật khác được treo trong dòng chảy không khí bị nhiễm bẩn. Các tấm này được thấm ướt liên tục bằng dòng chảy hồi lưu của nước chứa các chất dinh dưỡng cho vi sinh vật. Các màng lọc sinh học nhỏ giọt có ưu điểm là tiết kiệm được không gian. 2. Loại bỏ các hợp chất sulphur và nitrogen từ khí ống khói bằng phương pháp sinh học Các nitrogen oxide (NOx) và sulphur oxide (SO2) là các chất ô nhiễm không khí chính được tạo thành trong lúc đốt than đá và dầu giải phóng trong các loại khí ống khói. Có thể phát triển các phương pháp công nghệ sinh học có giá trị kinh tế và hiệu quả để loại bỏ đồng thời các chất gây ô nhiễm không khí này, vì các kỹ thuật hóa-lý truyền thống hoặc là rất đắt hoặc là không hiệu quả. Một hệ thống mới được đề xuất đó là khí ống khói được dẫn qua một máy lọc hơi đốt mà trong đó >95% SO2 và >80% NOx hòa tan trong dung dịch NaHCO3 và Fe(II)-EDTA (hợp chất sau có thể tăng khả năng hòa tan NOx). Dung dịch đầy N và S được sinh ra trong ba giai đoạn sinh học tuần tự (Hình 9.6). Giai đoạn đầu tiên bao gồm bể phản ứng thiếu oxygen trong đó NO được biến đổi thành khí N2 trơ thông qua quá trình khử nitrogen sinh học. 2FeII(EDTA) (NO) + chất cho điện tử 2FeII(EDTA) + N2 + CO2 + H2O Một chất cho điện tử, chẳng hạn methanol hoặc ethanol, cần được bổ sung để duy trì phản ứng. Trong hai giai đoạn tiếp theo, H2SO3 được khử Nhập môn Công nghệ sinh học 315 sinh học tuần tự thành H2S và cuối cùng oxy hóa lại từng phần thành lưu huỳnh nguyên tố dạng rắn: H2SO3 + 3H2 H2S + 3H2O H2S + 1/2O2 So + H2O Khí đi vào Máy lọc hơi đốt Khí đi ra H2SO3, NO Bể khử nitrogen Chất cho điện tử không có oxygen N2 UASB H2 Lò phản ứng sinh Không khí học có oxygen Lưu huỳnh nguyên Lọc tố dạng rắn Hình 9.6. Một quá trình sinh học mới được phát triển để đồng thời khử sulphur hóa (desulphurisation) và loại bỏ NO khỏi các khí ống khói được sản xuất trong các thiết bị nhiệt Phản ứng khử H2SO3 xảy ra trong bể phản ứng UASB (Hình 9.2) đã được kết hạt với các vi khuẩn khử sulphate. Các polymer gây kết bông đã được bổ sung, cùng với các chất dinh dưỡng cần thiết và các đương lượng Nhập môn Công nghệ sinh học 316 khử (ethanol hoặc H2), để điều chỉnh tỷ lệ phân tử BOD/H2SO3 ở một giá trị không đổi. Trong bể phản ứng sinh học thứ ba các vi khuẩn hiếu khí oxy hóa sulphide thành lưu huỳnh nguyên tố (So) dạng rắn (sản phẩm cuối). Sự oxy hóa thêm So thành H2SO3 và H2SO4 bị ngăn cản bởi một lượng giới hạn O2. Toàn bộ quá trình là tự động hoàn toàn với khoảng 120 thông số được phân tích liên tục, đa số trong chúng là trực tuyến. Nước cũng được thu hồi liên tục. VI. Phân hủy chất rắn (solid remediation) 1. Kích thích sinh học (biostimulation) và tăng sinh học (bioaugenzymetation) Các vi sinh vật có khả năng phân hủy sinh học các chất gây ô nhiễm thường hiện diện sẵn trong các đất nhiễm bẩn hoặc nước ngầm. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, sự phân hủy sinh học chất rắn hoặc nước ngầm được thực hiện bằng cách kích thích sinh học các vi sinh vật, nơi có chất dinh dưỡng hoặc các nhân tố sinh trưởng cần thiết khác của chúng. Các chất hoạt động bề mặt cũng có thể được bổ sung để thuận tiện cho việc chuyển khối các hydrocarbon hòa tan kém vào trong pha nước nơi mà các vi sinh vật sống. Ví dụ của kích thích sinh học là đưa methane vào trong tầng ngậm nước bị ô nhiễm các dung môi được khử trùng bằng chloro hoặc đưa benzoic acid vào trong tầng ngậm nước bị ô nhiễm bởi polychlorobiphenyls (PCBs). Các nguồn carbon được đưa vào như methane và benzoic acid đã kích thích sinh trưởng của các vi sinh vật đặc hiệu sản xuất các enzyme làm đứt gãy cơ chất được đưa vào và chất gây ô nhiễm đang hiện diện. Giải pháp thích hợp là có thể đưa các quần thể vi sinh vật đặc hiệu (tăng sinh học) vào trong các vị trí bị ô nhiễm nhất định khi chất gây ô nhiễm là một phân tử phức tạp chỉ có thể bị phá vỡ bởi một tổ hợp đặc biệt của các vi sinh vật rất đặc hiệu (được gọi là consortium). Các chất gây ô nhiễm như thế thường là polyaromatic hydrocarbons (PAHs), các hợp chất hữu cơ được halogen hóa, các thuốc trừ sâu nhất định, thuốc nổ TNT, polychlorobiphenyls (PCBs)... Các điều kiện và các chủng vi sinh vật thích hợp cho thấy chúng có ảnh hưởng đến sự phân hủy sinh học của các hợp chất này khi nghiên cứu ở quy mô phòng thí nghiệm. Ví dụ: sự phân hủy của các chất thơm được khử trùng đơn giản bằng chloro ở trong đất và các thiết bị xử lý nước thải có thể phát huy hiệu quả hơn bằng cách đưa vào nuôi Nhập môn Công nghệ sinh học 317 cấy thuần khiết các vi sinh vật được chọn lọc trong phòng thí nghiệm. Các chất ô nhiễm phức tạp hơn, ví dụ PCB, có thể đòi hỏi hoạt động phối hợp của một số chủng vi sinh vật. Trong trường hợp đặc biệt này, việc khử chloro nhờ các consortium phát triển từ các trầm tích bị nhiễm bẩn đã được thực hiện bằng cách nuôi cấy sinh khối trong dạng hạt ở các bể phản ứng UASB sinh methane. Các hạt này đã cho thấy chúng giúp tăng nhanh hơn sự phân hủy sinh học của PCB in situ trong đất và các trầm tích. Đối với những ứng dụng đặc biệt, sự tăng sinh học có thể được tiến hành nhờ các kỹ thuật biến đổi di truyền vi sinh vật thông qua công nghệ DNA tái tổ hợp. Biến đổi di truyền vi sinh vật có thể giúp ngăn cản sự tạo thành các sản phẩm trung gian độc gây mất ổn định quần thể và ức chế các quá trình phân hủy sinh học. Thách thức lớn nhất trong kỹ thuật biến đổi di truyền vi sinh vật là tăng khả năng sống sót của các chủng gây nhiễm. Theo hướng được mong đợi này, các cơ hội sống sót thường lớn hơn khi chủng xâm nhiễm được phân lập từ vị trí được tăng sinh học. 2. Các kỹ thuật phân hủy chất rắn Có nhiều kỹ thuật khác nhau của công nghệ sinh học để xử lý chất rắn bị ô nhiễm. Dưới đây là một số kỹ thuật phổ biến nhất: 2.1. Phân hủy sinh học tại chỗ (in situ bioremediation) Đây là kỹ thuật sử dụng vi sinh vật và các chất dinh dưỡng để giải quyết các chất thải nguy hiểm, chẳng hạn như đất và các địa điểm sản xuất bị ô nhiễm. Phân hủy sinh học có nhiều lợi ích quan trọng so với các phương pháp khử bỏ chất thải truyền thống; nó có thể được thực hiện tại chỗ, tránh phải vận chuyển và cất giữ các chất thải nguy hiểm và độc hại. Có nhiều vi sinh vật khác nhau có khả năng phân hủy các chất ô nhiễm công nghiệp đặc trưng bao gồm các hydrocarbon mạch thẳng, các hydrocarbon nhiều gốc thơm, các phenol chloro hóa và các phân tử hữu cơ phức tạp khác. 2.2. Landfarming Có thể loại bỏ các vết dầu loang bằng kỹ thuật landfarming. Kỹ thuật này được thiết lập trên cơ sở phân hủy vi sinh vật (Hình 9.7) và có thể được nâng cấp một ít bằng cách trộn đất với các gốc hữu cơ mới (phân ủ). Nhiệt Nhập môn Công nghệ sinh học 318 độ cao, hoạt tính và sự đa dạng của vi sinh vật đã tăng tốc độ phản ứng. Hơn nữa, các chất đồng tác dụng đặc biệt đã giúp cho sự đồng chuyển hóa xảy ra dễ dàng hơn. Các hệ thống landfarming cũng có thể được nâng cấp bằng cách tiền xử lý yếm khí, ví dụ các đường hầm yếm khí được sử dụng để khử các hợp chất như trinitrotoluene, bằng cách bổ sung các chất dinh dưỡng và các chất đồng tác dụng cho các vi khuẩn tại chỗ. Ở giai đoạn thứ hai hiếu khí, các chất chuyển hóa hoặc được khoáng hóa hoàn toàn hoặc polymer hóa và bất động trong khuôn rắn. Phương thức này cũng được ứng dụng thành công để khử sự nhiễm bẩn các vùng đất bị ô nhiễm chloroethene và các chất thơm BTX (hỗn hợp của benzen, toluene và xylene). Các chất dinh dưỡng Đất bị ô nhiễm Lớp cát Mương (ống dẫn) Lớp lót tháo ra được Hình 9.7. Mặt cắt ngang của hệ thống landfarming 2.3. Các bể phản ứng sinh học pha bùn (slurry-phase bioreactors). Có thể được hướng tới cùng một mức độ làm sạch trong thời gian ngắn. Trong trường hợp này, các đất khai quật bị ô nhiễm được xử lý dưới các điều kiện tối ưu được kiểm soát, đảm bảo sự tiếp xúc hiệu quả giữa chất nhiễm bẩn và các vi sinh vật. Yếu tố sau, trong hầu hết trường hợp, là các Nhập môn Công nghệ sinh học 319 nuôi cấy đặc hiệu vi sinh vật thích nghi. Với toàn bộ tốc độ phân hủy trong phạm vi 0,2-2 g dầu/kg đất/ngày, thời gian lưu của chất rắn là 30 ngày đủ để đáp ứng các mức độ làm sạch. VII. Xử lý nước ngầm 1. Sự phục hồi hoạt động Phương thức phục hồi nước ngầm được ứng dụng nhiều ở Mỹ và châu Âu là kỹ thuật “bơm và xử lý” (pump-and-treat). Hướng này sử dụng chủ yếu các kỹ thuật hóa-lý để loại bỏ các chất ô nhiễm trong các hệ xử lý ở trên mặt đất, ví dụ thông qua hấp thụ không khí và carbon hoạt tính, trong khi các bể phản ứng sinh học được dùng ít hơn 10% trường hợp (Hình 9.8). Việc sử dụng hạn chế các xử lý sinh học có thể là do kinh nghiệm và các số liệu chứng minh còn quá ít, sự tiếp nhận hạn chế kỹ thuật, nhưng cũng có thể do không thích hợp trong việc hướng tới các mức độ làm sạch như mong muốn. Đến nay, người ta đã thu được nhiều kinh nghiệm khi ứng dụng kỹ thuật phân hủy sinh học ở quy mô hoàn chỉnh trong điều kiện ex situ và in situ để phân hủy các hydrocarbon của dầu mỏ, bao gồm từ các chuỗi mạch thẳng và mạch nhánh, được bão hòa, không bão hòa và các chất béo mạch vòng tới các hydrocarbon một, hai và đa nhân thơm. Tuy nhiên, thời gian gần đây các kiểu thiết kế bể phản ứng sinh học mới đã được phát triển để loại bỏ các dung môi được polychloro hóa và các chất thơm. Chẳng hạn, các bể phản ứng UASB kết hạt với các bùn thải dạng hạt sinh methane có khả năng khử hoàn toàn chloro của tetrachloroethylene (>99%) hiện diện với 4 mg/L trong nước ngầm bị ô nhiễm. Acetate được dùng làm nguồn carbon và chất cho điện tử. Công nghệ bể phản ứng UASB cũng đang được nâng cấp với bùn thải dạng hạt phối hợp cả hai loại vi khuẩn hiếu khí và yếm khí. Tuy nhiên, phương thức “bơm và xử lý” không thể làm sạch trong mọi trường hợp và hơn nữa nó đòi hỏi một thời gian làm sạch dài ngày. Trong 77 điểm xử lý theo phương pháp trên (dưới sự kiểm soát của US National Research Council-NRC) vào năm 1992, chỉ có 8 điểm được thông báo là đạt mục tiêu làm sạch (liên quan đến Đạo luật nước uống an toàn). Trong 8 điểm thành công, thì 6 điểm bị ô nhiễm bởi hydrocarbon dầu hỏa cũng được đào thải thông qua sự phân hủy tự nhiên (natural degradation). Nhập môn Công nghệ sinh học 320 Bơm và xử lý Hệ lọc carbon hoạt tính Bể phản ứng sinh học Strip column Không khí Mặt đất Phun tốt Mặt nước Thu hồi tốt Vùng ô nhiễm Nước ngầm Chắn sinh học Các chất dinh dưỡng Mặt đất Phun tốt Mặt nước Hướng dòng chảy Nước ngầm ô nhiễm Nước ngầm sạch Vùng hoạt tính sinh học Hình 9.8. Công nghệ phục hồi “bơm và xử lý” Nhập môn Công nghệ sinh học 321
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net