CHƯƠNG 7: HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA SẢN XUẤT KINH DOANH TRONG DOANH NGHIỆP
Qua chương này, người đọc nắm được những nội dung cụ thể sau:
- Khái niệm hiệu quả kinh tế trong kinh doanh
- Bản chất và vai trò của nâng cao hiệu quả kinh tế
- Hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh tế
- Phương pháp tính hiệu quả kinh tế.
- Biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trong doanh nghiệp
CHƯƠNG 7
HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA SẢN XUẤT KINH
DOANH TRONG DOANH NGHIỆP
I . HIỆU QUẢ KINH TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH
TẾ TRONG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP.
1. Khái niệm, bản chất của hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh.
2. Kinh doanh có hiệu quả - Điều kiện sống còn của mọi doanh nghiệp
II. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU HIỆU QUẢ KINH TẾ VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH
TOÁN HIỆU QUẢ KINH TẾ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
1. Mức chuẩn và hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh
2. Hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của họat động sản xuất kinh doanh
III. CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA SẢN XUẤT KINH
DOANH
1. Tăng cường quản trị chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp
2. Lựa chọn quyết định sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
3. Phát triển trình độ đội ngũ lao động và tạo động lực cho tập thể và cá nhân
người lao động
4. Công tác quản trị và tổ chức sản xuất
5. Đối với kỹ thuật- công nghệ
6. Tăng cường mở rộng quan hệ cầu nối giữa doanh nghiệp với xã hội
CÂU HỎI ÔN TẬP
Qua chương này, người đọc nắm được những nội dung cụ thể sau:
- Khái niệm hiệu quả kinh tế trong kinh doanh
- Bản chất và vai trò của nâng cao hiệu quả kinh tế
- Hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh tế
- Phương pháp tính hiệu quả kinh tế.
- Biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trong doanh nghiệp
I . HIỆU QUẢ KINH TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC NÂNG CAO HIỆU
QUẢ KINH TẾ TRONG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH
NGHIỆP. TOP
1. Khái niệm, bản chất của hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh
doanh.
1.1 Khái niệm
“Hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (hoặc quá trình) kinh tế là một phạm trù
kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (nhân lực, tài lực, vật lực, tiền vốn) để
đạt được mục tiêu xác định”. Từ khái niệm khái quát này, có thể hình thành công thức
biễu diễn khái quát phạm trù hiệu quả kinh tế như sau:
H = K/C (1)
Với H là hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (quá trình kinh tế) nào đó; K là kết
quả thu được từ hiện tượng (quá trình) kinh tế đó và C là chi phí toàn bộ để đạt được kết
quả đó. Và như thế cũng có thể khái niệm ngắn gọn: hiệu quả kinh tế phản ánh chất lượng
hoạt động kinh tế và được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để
đạt được kết quả đó.
Quan điểm này đã đánh giá được tốt nhất trình độ sử dụng các nguồn lực ở mọi
điều kiện “động” của hoạt động kinh tế. Theo quan niệm như thế hoàn toàn có thể tính
toán được hiệu quả kinh tế trong sự vận động và biến đổi không ngừng của các hoạt động
kinh tế, không phụ thuộc vào quy mô và tốc độ biến động khác nhau của chúng.
Từ định nghĩa về hiệu quả kinh tế như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể hiểu
hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh
trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu và tiền vốn)
nhằm đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đã xác định.
1.2 Bản chất của hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh
Thực chất khái niệm hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả kinh tế của hoạt động
sản xuất kinh doanh nói riêng đã khẳng định bản chất của hiệu quả kinh tế trong hoạt
động sản xuất kinh doanh là phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh doanh,
phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động, thiết bị máy móc, nguyên nhiên vật
liệu và tiền vốn) để đạt được mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp – mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận.
Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh tế của hoạt động sản
xuất kinh doanh, cũng cần phân biệt ranh giới giữa hai khái niệm hiệu quả và kết quả của
hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiểu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp là những gì mà doanh nghiệp đạt được sau một quá trình sản xuất kinh doanh nhất
định, kết quả cần đạt cũng là mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của một doanh nghiệp có thể là những đại lượng cân đong đo đếm được
như số sản phẩm tiêu thụ mỗi loại, doanh thu, lợi nhuận, thị phần, ... và cũng có thể là các
đại lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng hoàn toàn có tính chất định tính như uy tín của
doanh nghiệp, là chất lượng sản phẩm, ... Như thế, kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của
doanh nghiệp. Trong khi đó, công thức (1) lại cho thấy trong khái niệm về hiệu quả sản
xuất kinh doanh người ta đã sử dụng cả hai chỉ tiêu là kết quả (đầu ra) và chi phí (các
nguồn lực đầu vào) để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong lý thuyết và thực tế
quản trị kinh doanh cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí đều có thể được xác định bằng đơn
vị hiện vật và đơn vị giá trị. Tuy nhiên, sử dụng đơn vị hiện vật để xác định hiệu quả kinh
tế sẽ vấp phải khó khăn là giữa “đầu vào” và “đầu ra” không có cùng một đơn vị đo
lường còn việc sử dụng đơn vị giá trị luôn luôn đưa các đại lượng khác nhau về cùng
một đơn vị đo lường – tiền tệ. Vấn đề được đặt ra là: hiệu quả kinh tế nói dung và hiệu
quả kinh tế của sản xuất kinh doanh nói riêng là mục tiêu hay phương tiện của kinh
doanh? Trong thực tế, nhiều lúc người ta sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả như mục tiêu cần
đạt và trong nhiều trường hợp khác người ta lại sử dụng chúng như công cụ để nhận biết
“khả năng” tiến tới mục tiêu cần đạt là kết quả.
1.3 Phân biệt các loại hiệu quả.
Thực tế cho thấy các loại hiệu quả là một phạm trù được sử dụng rộng rãi trong
tất cả các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, xã hội. Ở chương này chúng ta chỉ giới hạn thuật ngữ
hiệu quả ở giác độ kinh tế - xã hội. Xét trên phương diện này, có thể phân biệt giữa hiệu
quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế xã hội.
Hiệu quả xã hội phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được các mục
tiêu xã hội nhất định. Các mục tiêu xã hội thường thấy là : giải quyết công ăn việc làm
trong phạm vi toàn xã hội hoặc từng khu vực kinh tế ; giảm số người thất nghiệp; nâng
cao trình độ và đời sống văn hóa, tinh thần cho người lao động, đảm bảo mức sống tối
thiểu cho người lao động, nâng cao mức sống cho các tầng lớp nhân dân trên cơ sở giải
quyết tốt các quan hệ trong phân phối, đảm bảo và nâng cao sức khỏe; đảm bảo vệ sinh
môi trường;... Nếu xem xét hiệu quả xã hội, người ta xem xét mức tương quan giữa các
kết quả (mục tiêu) đạt được về mặt xã hội (cải thiện điều kiện lao động, nâng cao đời
sống văn hóa và tinh thần, giải quyết công ăn việc làm...) và chi phí bỏ ra để đạt được kết
quả đó. Thông thường các mục tiêu kinh tế- xã hội phải được chú ý giải quyết trên giác
độ vĩ mô nên hiệu quả xã hội cũng thường được quan tâm nghiên cứu ở phạm vi quản lý
vĩ mô.
Hiệu quả kinh tế như đã được khái niệm ở phần trên; với bản chất của nó, hiệu
quả kinh tế là phạm trù phải được quan tâm nghiên cứu ở các hai giác độ vĩ mô và vi mô.
Cũng vì vậy, nếu xét ở phạm vi nghiên cứu, chúng ta có hiệu quả kinh tế của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân, hiệu quả kinh tế ngành, hiệu quả kinh tế vùng lãnh thổ và hiệu quả kinh
tế hoạt động sản xuất kinh doanh. Muốn đạt được hiệu quả kinh tế quốc dân, hiệu quả
kinh tế ngành cũng như hiệu quả kinh tế vùng lãnh thổ cao, vai trò điều tiết vĩ mô là cực
kỳ quan trọng. Trong phạm vi nghiên cứu ở chương này, chúng ta chỉ quan tâm tới hiệu
quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh .
2. Kinh doanh có hiệu quả - Điều kiện TOP
sống còn của mọi doanh nghiệp
2.1 Hiệu quả kinh doanh là công cụ quản trị kinh doanh
Để tiến hành bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng đều phải tập hợp
các phương tiện vật chất cũng như con người và thực hiện sự kết hợp giữa lao động với
các yếu tố vật chất để tạo ra kết quả phù hợp với ý đồ của doanh nghiệp và từ đó có thể
tạo ra lợi nhuận. Như vậy, mục tiêu bao trùm lâu dài của kinh doanh là tạo ra lợi nhuận,
tối đa hóa lợi nhuận trên cơ sở những nguồn lực sản xuất sẵn có. Để đạt được mục tiêu
này, quản trị doanh nghiệp phải sử dụng nhiều phương pháp khác nhau. Hiệu quả kinh
doanh là một trong các công cụ để các nhà quản trị thực hiện chức năng quản trị của
mình. Việc xem xét và tính toán hiệu quả kinh doanh không những chỉ cho biết việc sản
xuất đạt được ở trình độ nào mà còn cho phép các nhà quản trị phân tích, tìm ra các nhân
tố để đưa ra các biện pháp thích hợp trên cả hai phương diện tăng kết quả và giảm chi phí
kinh doanh, nhằm nâng cao hiệu quả. Bản chất của phạm trù hiệu quả đã chỉ rõ trình độ
sử dụng các nguồn lực sản xuất: trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất càng cao, doanh
nghiệp càng có khả năng tạo ra kết quả cao trong cùng một nguồn lực đầu vào hoặc tốc
độ tăng kết quả lớn hơn so với tốc độ tăng việc sử dụng các nguồn lực đầu vào. Đây là
điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp đạt mục tiêu lợi nhuận tối đa. Do đó xét trên
phương diện lý luận và thực tiễn, phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh đóng vai trò rất
quan trọng việc đánh giá, so sánh, phân tích kinh tế nhằm tìm ra một giải pháp tối ưu
nhất, đưa ra phương pháp đúng đắn nhất để đạt mục tiêu lợi nhuận tối đa. Với tư cách
một công cụ đánh giá và phân tích kinh tế, phạm trù hiệu quả không chỉ được sử dụng ở
giác độ tổng hợp, đánh giá chung trình độ sử dụng tổng hợp các nguồn lực đầu vào trong
phạm vi hoạt động của toàn doanh nghiệp, mà còn được sử dụng để đánh giá trình độ sử
dụng từng yếu tố đầu vào ở phạm vi toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp cũng như ở từng bộ phận cấu thành của doanh nghiệp. Và như đã lưu ý, do phạm
trù hiệu quả có tầm quan trọng đặc biệt nên trong nhiều trường hợp người ta coi nó không
phải chỉ như phương tiện để đạt kết quả cao mà còn như chính mục tiêu cần đạt.
2.2 Sự cần thiết nâng cao hiệu quả kinh doanh
Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai sẽ không thành vấn đề bàn
cãi nếu nguồn tài nguyên không hạn chế. Người ta có thể sản xuất vô tận hàng hóa, sử
dụng thiết bị máy móc, nguyên vật liệu, lao động một cách không khôn ngoan cũng
chẳng sao nếu nguồn tài nguyên là vô tận. Nhưng thực tế, mọi nguồn tài nguyên trên trái
đất như đất đai, khoáng sản, hải sản, lâm sản, ... là một phạm trù hữu hạn và ngày càng
khan hiếm và cạn kiệt do con người khai thác và sử dụng chúng. Trong khi đó một mặt,
dân cử ở từng vùng, từng quốc gia và toàn thế giới ngày càng tăng và tốc độ tăng dân số
cao làm cho sự tăng dân số rất lớn và mặt khác, nhu cầu tiêu dùng vật phẩm của con
người lại là phạm trù không có giới hạn: không có giới hạn ở sự phát triển các loại cầu và
ở từng loại cầu thì cũng không có giới hạn – càng nhiều, càng phong phú, càng có chất
lượng cao càng tốt. Do vậy, của cải đã khan hiếm lại càng khan hiếm và ngày càng khan
hiếm theo cả nghĩa tuyệt đối và tương đối của nó. Khan hiếm đòi hỏi và bắt buộc con
người phải nghĩ đến việc lựa chọn kinh tế, khan hiếm tăng lên dẫn đến vấn đề lựa chọn
kinh tế tối ưu ngày càng phải đặt ra nghiêm túc, gay gắt. Thực ra, khan hiếm mới chỉ là
điều kiện cần của sự lựa chọn kinh tế, nó buộc con người “phải” lựa chọn kinh tế vì lúc
đó dân cư còn ít mà của cải trên trái đất lại rất phong phú, chưa bị cạn kiệt vì khai thác,
sử dụng. Khi đó, loài người chỉ chú ý phát triển kinh tế theo chiều rộng: tăng trưởng kết
quả sản xuất trên cơ sở gia tăng các yếu tố sản xuất: tư liệu sản xuất, đất đai,...
Điều kiện đủ cho sự lựa cho kinh tế là cùng với sự phát triển của kỹ thuật sản xuất
thì càng ngày người ta càng tìm ra nhiều phương pháp khác nhau để chế tạo sản phẩm.
Kỹ thuật sản xuất phát triển cho phép với cùng những nguồn lực đầu vào nhất định người
ta có thể tạo ra rất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Điều này cho phép các doanh nghiệp
có khả năng lựa chọn kinh tế: lựa chọn sản xuất kinh doanh sản phẩm (cơ cấu sản phẩm)
tối ưu. Sự lựa chọn đúng đắn sẽ mạng lại cho doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh cao
nhất, thu được nhiều lợi ích nhất. Giai đoạn phát triển kinh tế theo chiều rộng kết thúc và
nhường chỗ cho sự phát triển kinh tế theo chiều sâu: sự tăng trưởng kết quả kinh tế của
sản xuất chủ yếu nhờ vào việc cải tiến các yếu tố sản xuất về mặt chất lượng, ứng dụng
các tiến bộ kỹ thuật mới, công nghệ mới, hoàn thiện công tác quản trị và cơ cấu kinh
tế..., nâng cao chất lượng các hoạt động kinh tế. Nói một cách khái quát là nhờ vào sự
nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Nhự vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh tức là đã nâng cao khả năng sử dụng các
nguồn lực có hạn trong sản xuất, đạt được sự lựa chọn tối ưu. Trong điều kiện khan hiếm
các nguồn lực sản xuất thì nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện không thể không
đặt ra đối với bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào.
Tuy nhiên sự lựa chọn kinh tế của các doanh nghiệp trong các cơ chế kinh tế khác
nhau là không giống nhau. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, việc lựa chọn kinh tế
thường không đặt ra cho cấp doanh nghiệp. Mọi quyết định kinh tế: sản xuất cái gì? sản
xuất như thế nào? và sản xuất cho ai? đều được giải quyết từ một trung tâm duy nhất.
Doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình theo sự chỉ đạo từ
trung tâm đó và vì thế mục tiêu cao nhất của doanh nghiệp là hoàn thành kế hoạch nhà
nước giao. Do những hạn chế nhất định của cơ chế kế hoạch hóa tập trung mà không phải
chỉ là vấn đề các doanh nghiệp ít quan tâm tới hiệu quả hoạt động kinh tế của mình mà
trong nhiều trường hợp các doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch bằng mọi giá.
Hoạt động kinh doanh trong cơ chế kinh tế thị trường, môi trường cạnh tranh gay
gắt, nâng cao hiệu quả kinh doanh của hoạt động sản xuất là điều kiện tồn tại và phát
triển của các doanh nghiệp.
Trong cơ chế kinh tế thị trường, việc giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất
cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai dựa trên quan hệ cung cầu, giá cả thị trường,
cạnh tranh và hợp tác. Các doanh nghiệp phải tự ra các quyết định kinh doanh của mình,
tự hạch toán lỗ lãi, lãi nhiều hưởng nhiều, lãi ít hưởng ít, không có lại sẽ đi đến phá sản.
Lúc này, mục tiêu lợi nhuận trở thành một trong những mục tiêu quan trọng nhất, mang
tính chất sống còn của sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp phải cạnh tranh để tồn
tại và phát triển. Môi trường cạnh tranh này ngày càng gay gắt, trong cuộc cạnh tranh đó
có nhiều doanh nghiệp trụ vững, phát triển sản xuất, nhưng không ít doanh nghiệp đã
thua lỗ, giải thể, phá sản. Để có thể trụ lại trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp luôn
phải nâng cao chất lượng hàng hóa, giảm chi phí sản xuất, nâng cao uy tín... nhằm tới
mục tiêu tối đa lợi nhuận. Các doanh nghiệp phải có được lợi nhuận và đạt được lợi
nhuận càng cao càng tốt. Do vậy, đạt hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh
doanh luôn là vấn đề được quan tâm của doanh nghiệp và trở thành điều kiện sống còn để
doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường.
II. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU HIỆU QUẢ KINH TẾ VÀ PHƯƠNG PHÁP
TÍNH TOÁN HIỆU QUẢ KINH TẾ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
TOP
1. Mức chuẩn và hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh
Đã từ lâu, khi bàn tới hiệu quá kinh doanh, nhiều nhà khoa học kinh tế đã đề cập
đến mức chuẩn hiệu quả (hay còn gọi lại tiêu chuẩn hiệu quả). Từ công thức định nghĩa
về hiệu quả kinh tế; chúng ta thấy khi thiết lập mối quan hệ tỉ lệ giữa “đầu ra” và “đầu
vào” sẽ có thể cho một dãy các giá trị khác nhau. Vấn đề được đặt ra là trong các giá trị
đạt được thì các giá trị nào phản ánh tính có hiệu quả (nằm trong miền có hiệu quả), các
giá trị nào sẽ phản ánh tính hiệu quả cao cũng như những giá trị nào nằm trong miền
không đạt hiệu quả (phi hiệu quả). Chúng ta có thể hiểu mức chuẩn hiệu quả là giới hạn,
là thước đo, là căn cứ, là một cái “mốc” xác định ranh giới có hiệu quả hay không có hiệu
quả về một chỉ tiêu hiệu quả đang xem xét.
Xét trên phương diện lý thuyết, mặc dù các tác giả đều thừa nhận về bản chất khái
niệm hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố sản xuất, song công thức khái
niệm hiệu quả kinh tế cũng chưa phải là công thức mà các nhà kinh tế thống nhất thừa
nhận. Vì vậy, cũng không có tiêu chuẩn chung cho mọi công thức hiệu quả kinh tế, mà
tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế còn phụ thuộc vào mỗi công thức xác định hiệu quả cụ thể. Ở
các doanh nghiệp, tiêu chuẩn hiệu quả phụ thuộc vào từng chỉ tiêu hiệu quả kinh tế cụ
thể. Chẳng hạn, với các chỉ tiêu hiệu quả liên quan đến các quyết định lựa chọn kinh tế sử
dụng phương pháp cận biên người ta hay so sánh các chỉ tiêu như doanh thu biên và chi
phí biên với nhau và tiêu chuẩn hiệu quả là doanh thu biên bằng với chi phí biên (tổng
hợp cũng như cho từng yếu tố sản xuất). Trong phân tích kinh tế với việc sử dụng các chỉ
tiêu tính toán trung bình có khi lấy mức trung bình của ngành hoặc của kỳ trước làm mức
hiệu quả so sánh và kết luận tính hiệu quả của doanh nghiệp.
2. Hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh tế
của hoạt động sản xuất kinh TOP
doanh
2.1 Các khái niệm.
- Doanh số bán: Tiền thu được về bán hàng hóa và dịch vụ
- Vốn sản xuất: Vốn hiểu theo nghĩa rộng bao gồm: đất đai, nhà xưởng, bí
quyết kỹ thuật, sáng kiến phát hiện nhu cầu, thiết bị, vật tư, hàng hóa v.v… bao gồm giá
trị của tài sản hữu hình và tài sản vô hình, tài sản cố định, tài sản lưu động và tiền mặt
dùng cho sản xuất.
Theo tính chất luân chuyển, vốn sản xuất chia ra vốn cố định và vốn lưu động.
- Tổng chi phí sản xuất gồm chi phí cố định, chi phí biến đổi.
- Lãi gộp: là phần còn lại của doanh số bán sau khi trừ đi chi phí biến đổi
- Lợi nhuận trước thuế bằng lãi gộp trừ đi chi phí cố định
- Lợi nhuận sau thuế hay còn gọi là lợi nhuận thuần túy (lãi ròng) bằng lợi
nhuận trước thuế trừ đi các khoản thuế.
Mối quan hệ giữa doanh số bán với các chỉ tiêu chi phí, lãi gộp và lợi nhuận được
trình bày trong bảng sau:
Doanh số bán
Chi phí biến đổi Lãi gộp
Chi phí biến đổi Chi phí cố định Lợi nhuận trước thuế
Tổng chi phí sản xuất Thuế Lợi nhuận thuần túy (lãi
ròng)
2.2 Các chỉ tiêu hiệu quá kinh tế tổng hợp
2.2.1 Các chỉ tiêu doanh lợi:
Xét trên cả phương diện lý thuyết và thực tiễn quản trị kinh doanh, các nhà kinh tế cũng
như các nhà quản trị hoạt động kinh doanh thực tế ở các doanh nghiệp và các nhà tài trợ
khi xem xét hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đều quan tâm trước hết đến việc tính
toán đánh giá chỉ tiêu chung phản ánh doanh lợi của doanh nghiệp. Vì chỉ tiêu doanh lợi
được đánh giá cho hai loại vốn kinh doanh của doanh nghiệp: toàn bộ vốn kinh doanh
bao gồm cả vốn tự có và vốn đi vay và chỉ tính cho vốn tự có của doanh nghiệp, nên sẽ có
hai chỉ tiêu phản ánh doanh lợi của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu này được coi là các chỉ
tiêu phản ánh sức sinh lời của số vốn kinh doanh, khẳng định mức độ đạt hiệu quả kinh
doanh của toàn bộ số vốn mà doanh nghiệp sử dụng nói chung cũng như hiệu quả sử
dụng số vốn tự có của doanh nghiệp nói riêng. Nhiều tác giả coi các chỉ tiêu này là thước
đo mang tính quyết định đánh giá hiệu quả kinh doanh:
2.2.1.1 Doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh:
Với DVKD là doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh,
пR là lãi ròng ; пVV là lãi trả vốn vay
VKD là tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
2.2.1.2 Doanh lợi của vốn tự có:
Với DVTC là doanh lợi vốn tự có của một thời kỳ nhất định.
VTC là tổng vốn tự có.
- Ngoài ra, cũng thuộc chỉ tiêu doanh lợi còn có thể sử dụng chỉ tiêu doanh lợi của
doanh thu bán hàng, chỉ tiêu này được xác định như sau:
Với DTR là doanh lợi của doanh thu trong một thời kỳ nhất định.
TR là doanh thu trong thời kỳ đó.
2.2.2 Các chỉ tiêu tính hiệu quả kinh tế
Do có nhiều quan niệm khác nhau về công thức tính định nghĩa hiệu quả kinh tế nên
ở phương diện lý thuyết cũng như thực tế cũng có thể có nhiều cách biểu hiện cụ thể khác
nhau, có thể sử dụng hai công thức đánh giá hiệu quả phản ánh tính hiệu quả xét trên
phương diện giá trị dưới đây:
2.2.2.1 Tính hiệu quả kinh tế (H) (theo chi phí tài chính)
Với QG là sản lượng tính bằng giá trị và CTC là chi phí tài chính.
2.2.2.2 Tính hiệu quả kinh tế (H) (theo chi phí kinh doanh )
Với CTT là chi phí kinh doanh thực tế và CPĐ là chi phí kinh doanh “phải đạt”.
Ở công thức trên cần phải hiểu chi phí kinh doanh( xem lại chương III) là chi phí xác
định trong quản trị chi phí kinh doanh (kế toán quản trị) của doanh nghiệp. Chi phí kinh
doanh không phải là chi phí tài chính (chi phí được xác định trong kế toán tài chính). Chi
phí kinh doanh phải đạt là chi phí kinh doanh chi ra trong điều kiện thuận lợi nhất.
Công thức này được sử dụng rất nhiều trong phân tích, đánh giá tính hiệu quả của
toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và từng bộ phận kinh doanh
nói riêng.
2.3 Một số chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh bộ phận
2.3.1 Mối quan hệ giữa chỉ tiêu hiệu quả kinh tế tổng hợp và hiệu quả kinh tế bộ
phận.
Bên cạnh các chỉ tiêu hiệu quả tổng quát phản ánh khái quát và cho phép kết luận
về hiệu quả kinh tế của toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng
tất cả các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định
(tư liệu sản xuất, nguyên, nhiên vật liệu, lao động, ... và tất nhiên bao hàm cả tác động
của yếu tố quản trị đến việc sử dụng có hiệu quả các yếu tố trên) thì người ta còn dùng
các chỉ tiêu bộ phận để phân tích hiệu quả kinh tế của từng mặt hoạt động, từng yếu tố
sản xuất cụ thể.
Các chỉ tiêu hiệu quả bộ phận đảm nhiệm hai chức năng cơ bản sau:
- Phân tích có tính chất bổ sung cho chỉ tiêu tổng hợp để trong một số trường hợp
kiểm tra và khẳng định rõ hơn kết luận được rút ra từ các chỉ tiêu tổng hợp.
- Phân tích hiệu quả từng mặt hoạt động, hiệu quả sử dụng từng yếu tố sản xuất
nhằm tìm biện pháp làm tối đa chỉ tiêu hiệu quả kinh tế tổng hợp. Đây là chức năng chủ
yếu của hệ thống chỉ tiêu này.
Mối quan hệ giữa chỉ tiêu hiệu quả kinh tế tổng hợp và chỉ tiêu hiệu quả kinh tế
bộ phận không phải là mối quan hệ cùng chiều, trong lúc chỉ tiêu tổng hợp tăng lên thì có
thể có những chỉ tiêu bộ phận tăng lên và cũng có thể có chỉ tiêu bộ phận không đổi hoặc
giảm. Vì vậy, cần chú ý là:
+ Chỉ có chỉ tiêu tổng hợp đánh giá được hiệu quả toàn diện và đại diện cho hiệu
quả kinh doanh, còn các chỉ tiêu bộ phận không đảm nhiệm được chức năng đó.
+ Các chỉ tiêu bộ phận phản ánh hiệu quả kinh tế của từng mặt hoạt động (bộ
phận) nên thường được sử dụng trong thống kê, phân tích cụ thể chính xác mức độ ảnh
hưởng của từng nhân tố, từng mặt hoạt động, từng bộ phận công tác đến hiệu quả kinh tế
tổng hợp.
2.3.2 Các chỉ tiêu hiệu quả bộ phận
2.3.2.1 Hiệu quả sử dụng vốn
Thực ra, muốn có các yếu tố đầu vào doanh nghiệp cần có vốn kinh doanh, nếu thiếu
vốn mọi hoạt động của doanh nghiệp hoặc đình trệ hoặc kém hiệu quả. Do đó các nhà
kinh tế cho rằng chỉ tiêu sử dụng vốn là một chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp. Chỉ
tiêu này đã được xác định thông qua công thức (2) và (3). Ở đây có thể đưa ra một số
công thức được coi là để đánh giá hiệu quả sử dụng đồng vốn và từng bộ phận vốn của
doanh nghiệp:
· Số vòng quay toàn bộ vốn (SVV):
SVV = TR/VKD (7)
Với SVV là số vòng quay của vốn. Số vòng quay vốn càng lớn hiệu suất sử
dụng vốn càng lớn.
· Hiệu quả sử dụng vốn cố định (HTSCĐ):
HTSCĐ = ПR/TSCĐG (8)
Với HTSCĐ là hiệu suất sử dụng vốn (tài sản) cố định và TSCĐG là tổng giá trị tài
sản cố định sau khi đã trừ đi phần hao mòn tài sản cố định tích lũy đến thời điểm lập báo
cáo. Ngoài ra, trong những điều kiện nhất định còn có thể được cộng thêm những chi phí
xây dựng dở dang. Chỉ tiêu hiệu suất tài sản cố định biểu hiện một đồng tài sản cố định
trong kỳ sản xuất ra bình quân bao nhiều đồng lãi, thể hiện trình độ sử dụng tài sản cố
định trong sản xuất kinh doanh, khả năng sinh lợi của tài sản cố định.
Ngoài ra hiệu quả sử dụng tài sản cố định còn có thể được đánh giá theo phương
pháp ngược lại, tức là lấy nghịch đảo công thức trên và gọi là suất tài sản cố định. Chỉ
tiêu nghịch đảo công thức trên và gọi là suất tài sản cố định. Chỉ tiêu nghịch đảo này cho
biết để tạo ra một đồng lãi, doanh nghiệp cần phải sử dụng bao nhiêu đồng vốn cố định.
Nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn cố định có thể thấy các nguyên nhân của việc
sử dụng vốn cố định không có hiệu quả thường là đầu tư tài sản cố định quá mức cần
thiết, tài sản cố định không sử dụng chiếm tỉ trọng lớn, sử dụng tài sản cố định với công
suất thấp hơn mức cho phép...
· Hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
HVLĐ = ПR/VLĐ (9)
Với HVLĐ là hiệu quả sử dụng vốn lưu động và VLĐ là vốn lưu động bình quân
trong năm. Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động tao ra bao nhiêu lợi nhuận trong
kỳ.
Ngoài ra, hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn được phản ánh gián tiếp qua số
vòng luân chuyển vốn lưu động trong năm (SVVLĐ) hoặc số ngày bình quân một vòng
luân chuyển vốn lưu động trong năm (SNLC):
SVVLĐ = TR/VLĐ (10)
Có thể thấy rằng, chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động tính theo lợi nhuận sẽ
bằng tích của tỷ suất lợi nhuận trong tổng giá trị kinh doanh nhân với số vòng luân
chuyển lưu động:
Như vậy, nếu cố định chỉ tiêu tỷ trọng lợi nhuận trong vốn kinh doanh thì hiệu
quả sử dụng vốn lưu động tỷ lệ thuận với số vòng quay vốn lưu động. Số vòng quay vốn
lưu động cao sẽ có thể đưa tới hiệu quả sử dụng vốn cao.
Trong các công thức trên, vốn lưu động bình quân là số trung bình của giá trị vốn
lưu động ở thời điểm đầu kỳ và ở thời điểm cuối kỳ
· Hiệu quả vốn góp trong công ty cổ phần được xác định bởi tỉ suất lợi
nhuận của vốn cổ phần (DVCP):
DVCP(%) = ПR/VCP (13)
Với DVCP là tỷ suất lợi nhuận của vốn cổ phần và VCP là vốn cổ phần bình quân
trong kỳ tính toán. Chỉ tiêu này cho biết bỏ ra một đồng vốn cổ phần bình quân trong
một thời kỳ thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Vốn cổ phần bình quân trong kỳ được
xác định theo công thức:
VCP = SCP x CP
Với SCP là số lượng bình quân cổ phiếu đang lưu thông và CP là giá trị mỗi cổ
phiếu. Số lượng bình quân cổ phiếu đang lưu thông bằng số lượng cổ phiếu thường đang
lưu thông tại một thời điểm bất kì trong năm, nếu năm không có cổ phiếu nào được phát
hành thêm hoặc thu hồi (mua lại) trong năm. Nếu có cổ phiếu được phát hành hay mua lại
thì số lượng bình quân cổ phiếu phải được xác định lại:
SCP = SCPDN + S
k
∑ SiNi
i=1
S=
365
Với SCPDN là số cổ phiếu tại thời đầu năm và S là số lượng cổ phiếu bình quân tăng giảm
trong năm:
với Si là số lượng cổ phiếu phát sinh lần thứ i (nếu thu hồi thì Si âm), Ni là số ngày lưu
hành của cổ phiếu trong năm. Nếu S mang giá trị âm thì số lượng cổ phiếu giảm đi trong
năm.
· Chỉ tiêu thu nhập cổ phiếu (lợi nhuận được chia trong năm của mỗi cổ
phiếu):
Nếu cấu trúc vốn cổ phần chỉ bao gồm cổ phiếu thường thì:
ПCP = ПR/SCP (14)
CP
Với П là thu nhập cổ phiếu.
Nếu có cả cổ phiếu ưu tiên thì:
ПR - ПCPUT
ПCP = SCP
Với ПCPUT là lãi trả cổ phiếu ưu tiên.
· Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận cổ phiếu (DCP):
DCP(%) = ПCP.100/CP (16)
CP
Với D là tỉ suất lợi nhuận cổ phiếu.
2.3.2.2 Hiệu quả sử dụng lao động
Số l ượng và chất lượng lao động là yếu tố cơ bản trong sản xuất, góp phần quan
trọng trong năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng lao động biểu hiện ở
năng suất lao động, mức sinh lời của lao động và hiệu suất tiền lương.
· Năng suất lao động
Trước hết có năng suất lao động bình quân năm (NSLĐN) xác định theo công
thức:
Với APN là năng suất lao động bình quân năm tính bằng đơn vị hiện vật hoặc giá
HV
trị, Q là sản lượng tính bằng đơn vị hiện vật hoặc giá trị và AL là số lượng lao động
bình quân trong năm.
Năng suất lao động tính theo năm chịu ảnh hưởng rất lớn của việc sử dụng thời
gian lao động trong năm: số ngày bình quân làm việc trong năm, số giờ bình quân làm
việc mỗi ngày của lao động trong doanh nghiệp và năng suất lao động bình quân mỗi giờ.
Năng suất lao động theo giờ (NSLĐG) được xác định từ chỉ tiêu năng suất lao
động năm:
NSLĐG = NSLĐN/N.C.G (18)
Trong đó N là số ngày làm việc bình quân trong năm; C là số ca làm việc trong
ngày; G là số giờ làm việc bình quân mỗi ca lao động và NSLĐG là năng suất lao động
bình quân mỗi giờ làm việc của một lao động. Chỉ tiêu này còn có thể được xác định
bằng nhiều cách khác nữa, chẳng hạn xác định trực tiếp từ sản lượng tạo ra trong một ca
lao động hoặc một ngày làm việc,... tương tự như công thức (17)
Về bản chất, chỉ tiêu năng suất lao động được xác định phù hợp với công thức
khái niệm hiệu quả kinh tế của sản xuất kinh doanh và do đó biểu hiện tính hiệu quả
trong việc sử dụng lực lượng lao động trong doanh nghiệp.
· Chỉ tiêu mức sinh lời bình quân của lao động
Bên cạnh chỉ tiêu năng suất lao động, chỉ tiêu mức sinh lời bình quân của một lao
động cũng thường được sử dụng. Mức sinh lời bình quân của một lao động cho biết mỗi
lao động được sử dụng trong doanh nghiệp tao ra được bao nhiêu lợi nhuận trong một
thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu này có thể được xác định theo công thức:
ПBQ là lợi nhuận bình quân do một lao động tạo ra và L là số lao động tham gia
Chỉ tiêu hiệu suất tiền lương (H W )
·
H W = ПR/TL (20)
W
Với H là hiệu suất tiền lương và TL là tổng quỹ tiền lương và các khoản tiền
thưởng có tính chất lương trong kỳ. Hiệu suất tiền lương cho biết chỉ ra một đồng tiền
lương đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hiệu suất tiền lương tăng lên
khi năng suất lao động tăng với nhịp độ cao hơn nhịp độ tăng tiền lương.
2.3.2.3 Hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu
· Vòng luân chuyển nguyên vật liệu (SVNVL):
Với SVNVL là số vòng luân chuyển nguyên vật liệu, NVLSD là giá vốn nguyên vật
liệu đã dùng và NVLDT là giá trị lượng nguyên vật liệu dự trữ.
· Vòng luân chuyển vật tư trong sản phẩm dở dang (SVSPDD):
Với SVSPDD là số vòng luân chuyển vật tư trong sản phẩm dở dang,
ZHHCB là tổng giá thành hàng hóa đã chế biến
VTDT là giá trị vật tư dự trữ đưa vào chế biến.
Hai chỉ tiêu trên cho biết khả năng khai thác các nguồn nguyên liệu vật tư của
doanh nghiệp, đánh giá chu kỳ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hai chỉ tiêu trên
mà cao cho biết doanh nghiệp giảm được chi phí cho nguyên vật liệu dự trữ, rút ngắn
chu kỳ hoạt động về chuyển đổi nguyên vật liệu thành thành phẩm, giảm bớt sự ứ đọng
của nguyên vật liệu tồn kho và tăng vòng quay vốn lưu động. Nhược điểm là có thể
doanh nghiệp thiếu nguyên vật liệu dự trữ, cạn kho, không đáp ứng kịp thời, đầy đủ các
nhu cầu.
Ngoài ra, để sử dụng nguyên vật liệu có hiệu quả người ta còn đánh giá mức thiệt
hại, mất mát nguyên vật liệu trong quá trình dự trữ, sử dụng chúng. Chỉ tiêu này được đo
bằng tỉ số giữa giá trị nguyên vật liệu hao hụt, mất mát trên tổng giá trị nguyên vật liệu sử
dụng trong kỳ. Người ta so sánh chỉ tiêu này với các định mức kinh tế - kỹ thuật hiện
hành hoặc đối chiếu với mức hao hụt kỳ trước, ... để dưa ra quyết định thích hợp nhằm sử
dụng vật tư tiết kiệm, đúng mục đích, phù hợp thực tế sản xuất và có hiệu quả.
2.3.2.4 Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh ở từng bộ phận bên trong doanh nghiệp
Các chỉ tiêu hiệu quả hoạt động ở từng bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp
phản ánh tính hiệu quả của hoạt động chung cũng như từng mặt hoạt động kinh tế diễn ra
ở từng bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp. Đó có thể là các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả
đầu tư đổi mới công nghệ hoặc trang thiết bị lại ở phạm vi toàn doanh nghiệp hoặc từng
bộ phận bên trong doanh nghiệp; hiệu quả ở từng bộ phận quản trị và thực hiện các hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp; hiệu quả của từng quyết định sản xuất kinh doanh và
thực hiện chức năng quản trị doanh nghiệp;... Tùy theo từng hoạt động cụ thể có thể xây
dựng hệ thống chỉ tiêu và tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động thích hợp.Về nguyên tắc,
đối với hiệu quả của từng bộ phận công tác bên trong doanh nghiệp (từng phân xưởng,
từng ngành, từng tổ sản xuất, ...) có thể xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt
động tương tự như hệ thống chỉ tiêu đã xác định cho phạm vi toàn doanh nghiệp. Riêng
hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư, do tính đặc thủ của hoạt động này đòi hỏi phải
xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp.
III. CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TOP
TẾ CỦA SẢN XUẤT KINH DOANH
Muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh, bản thân các doanh nghiệp phải chủ động
sáng tạo, hạn chế những khó khăn, phát triển những thuận lợi để tạo ra môi trường hoạt
động có lợi cho mình. Bản thân doanh nghiệp có vai trò quyết định trong sự tồn tại, phát
triển hay suy vong của hoạt động kinh doanh của mình. Vai trò quyết định của doanh
nghiệp thế hiện trên 2 mặt: thứ nhất, biết khai thác và tận dụng những điều kiện và yếu tố
thuận lợi của môi trường bên ngoài và thứ hai, doanh nghiệp phải chủ động tạo ra những
điều kiện, yếu tố cho chính bản thân mình để phát triển. Cả hai mặt này cần phải được
phối hợp đồng bộ thì mới tận dụng được tối đa các nguồn lực, kinh doanh mới đạt được
hiệu quả tối ưu. Hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh là phạm trù tổng
hợp. Muốn nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp
phải sử dụng tổng hợp các biện pháp từ nâng cao năng lực quản trị, điều hành hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đến việc tăng cường và cải thiện mọi hoạt động
bên trong doanh nghiệp, biết làm cho doanh nghiệp luôn luôn thích ứng với những biến
động của thị trường, ... Tuy nhiên, dưới đây có thể đề cập đến một số biện pháp chủ yếu:
1. Tăng cường quản trị chiến lược kinh
TOP
doanh và phát triển doanh nghiệp
Kinh tế thị trường luôn biến động, muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi doanh nghiệp
phải thích ứng với sự biến động đó. Quản trị kinh doanh hiện đại cho rằng không thể
chống đỡ được với những thay đổi thị trường nếu doanh nghiệp không có một chiến lược
kinh doanh và phát triển thể hiện tính chất động và tấn công. Chỉ có trên cơ sở đó, doanh
nghiệp mới phát hiện được những thời cơ cần tận dụng hoặc những đe dọa có thể xảy ra
để có đối sách thích hợp. Toàn bộ tư tưởng chiến lược và quản trị chiến lược sẽ được
trình bày sâu ở môn chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp. Phần này chỉ lưu
ý rằng thiếu một chiến lược kinh doanh đúng đắn thể hiện tính chủ động và tấn công,
thiếu sự chăm lo xây dựng và phát triển chiến lược doanh nghiệp không thể hoạt động
sản xuất kinh doanh có hiệu quả kinh tế được và thậm chí trong nhiều trường hợp còn dẫn
đến sự phá sản.
Trong xây dựng chiến lược kinh doanh cần phải chú ý các điểm sau:
- Chiến lược kinh doanh phải gắn với thị trường:
+ Các doanh nghiệp xây dựng chiến lược kinh doanh trên cơ sở điều tra, nghiên cứu
nhu cầu trị trường và khai thác tối đa các thời cơ, các thuận lợi, các nguồn lực để sản xuất
ra các sản phẩm với số lượng, chất lượng, chủng loại và thời hạn thích hợp. Có thể coi
“chiến lược phải thể hiện tính làm chủ thị trường của doanh nghiệp” là phương châm, là
nguyên tắc quản trị chiến lược của doanh nghiệp.
+ Việc xây dựng chiến lược kinh doanh phải làm tăng được thế mạnh của doanh
nghiệp, giành ưu thế cạnh tranh trên thị trường.
+ Chiến lược phải thể hiện tính linh hoạt cao và vì thế xây dựng chiến lược chỉ đề cập
những vấn đề khái quát, không cụ thể.
- Khi xây dựng chiến lược kinh doanh phải tính đến vùng an toàn trong kinh
doanh, hạn chế rủi ro tới mức tối thiểu
- Trong chiến lược kinh doanh cần xác định mục tiêu then chốt, vùng kinh doanh
chiến lược và những điều kiện cơ bản để đạt được mục tiêu đó.
- Chiến lược kinh doanh phải thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa hai loại chiến lược:
chiến lược kinh doanh chung (những vấn đề tổng quát bao trùm, có tính chất quyết định
nhất) và chiến lược kinh doanh bộ phận (những vấn đề mang tính chất bộ phận như chiến
lược sản phẩm, chiến lược giá cả, chiến lược tiếp thị, chiến lược giao tiếp khuyếch
trương,...).
- Chiến lược kinh doanh không phải là bản thuyết trình chung chung mà phải thể
hiện bằng những mục tiêu cụ thể, có tính khả thi với mục đích đạt hiệu quả tối đa trong
sản xuất kinh doanh.
Một vấn đề hết sức quan trọng là nếu doanh nghiệp chỉ xây dựng chiến lược thì chưa đủ,
vì dù cho chiến lược xây dựng có hoàn hảo đến đâu nếu không triển khai tốt, không biến
nó thành các chương trình, chính sách kinh doanh phù hợp với từng giai đoạn phát triển
cũng sẽ trở thành vô ích, hoàn toàn không có giá trị làm tăng hiệu quả kinh doanh mà vẫn
phải chịu chi phí kinh doanh cho công tác này.
2. Lựa chọn quyết định sản xuất
TOP
kinh doanh có hiệu quả.
2.1 Quyết định sản lượng sản xuất và sự tham gia của các yếu tố đầu vào tối
ưu
Đối với bất kì một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào (trừ các doanh nghiệp
nhà nước hoạt động công ích), khi tiến hành một quyết định sản xuất kinh doanh đều
quan tâm đến lợi nhuận mà họ có thể đạt được từ hoạt động đó và đều quyết định tiến
hành sản xuất theo mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Quy tắc chung tối đa hóa lợi nhuận là
doanh nghiệp sẽ tăng sản lượng cho tới chừng nào doanh thu cận biên (MR) còn vượt quá
chi phí cận biên (MC). Trong đó, chi phí cận biên (MC) là chi phí tăng thêm khi sản xuất
thêm một đơn vị sản phẩm. Doanh thu biên (MR) là doanh thu tăng thêm chi bán thêm
một đơn vị sản phẩm.
Doanh nghiệp sẽ đạt mức lợi nhuận tối đa ở mức sản lượng mà ở đó doanh thu
biên bằng chi phí cận biên (MR = MC). Tại điểm này mức sản lượng Q* đạt được đảm
bảo cho hiệu quả tối đa.
Mặt khác, để giảm thiểu chi phí kinh doanh nguyên tắc sử dụng các yếu tố đầu
vào là doanh thu biên do một yếu tố đầu vào bất kỳ tạo ra (MRP) bằng với chi phí biên sử
dụng yếu tố đầu vào đó (MC), tức là MRP = MC. Nguyên tắc này có nghĩa là doanh
nghiệp còn có thể sử dụng tăng thêm các yếu tố đầu vào khi MRP > MC và hiệu quả sẽ
đạt tối ta khi MRP = MC.
2.2 Xác định điểm hòa vốn của sản xuất
Kinh doanh trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp đều rất chú ý đến hiệu quả
của chi phí lao động, vật tư, tiền vốn. Để sản xuất một loại sản phẩm nào đó, doanh
nghiệp phải tính toán, xây dựng mối quan hệ tối ưu giữa chi phí và thu nhập. Sản xuất
bao nhiêu sản phẩm và bán với giá nào thì đảm bảo hòa vốn bỏ ra, và bao nhiêu sản phẩm
tiêu thụ trên mức đó để mang lại lợi nhuận. Điều đó đặt ra yêu cầu việc nghiên cứu điểm
hòa vốn và phân tích hòa vốn.
Phân tích điểm hòa vốn là xác lập và phân tích mối quan hệ tối ưu giữa chi phí
doanh thu, sản lượng và giá bán. Điểm mấu chốt để xác định chính xác điểm hòa vốn là
phải phân biệt các loại chi phí kinh doanh thành chi phí biến đổi và chi phí cố định. Cần
chú ý là điểm hòa vốn được xác định cho một khoảng thời gian nào đó.
3 Phát triển trình độ đội ngũ lao động và
TOP
tạo động lực cho tập thể và cá nhân người lao
động
Lao động sáng tạo của con người là nhân tố quyết định đến hiệu quả hoạt động kinh
doanh. Các doanh nghiệp cần đầu tư thỏa đáng để phát triển quy mô bồi dưỡng lại và đào
tạo mới lực lượng lao động, đội ngũ trí thức có chất lượng cao trong các doanh nghiệp.
Nâng cao nghiệp vụ kinh doanh, trình độ tay nghề của đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ sư,
công nhân kỹ thuật để khai thác tối ưu nguyên vật liệu, năng suất máy móc, thiết bị công
nghệ tiên tiến,...
Đặc biệt là cán bộ quản trị, giám đốc phải được tuyển chọn kỹ càng, có trình độ hiểu
biết cao. Giám đốc là nhà lãnh đạo kinh doanh, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh có
hiệu quả nên giám đốc phải có kiến thức về công nghệ, khoa học, về giao tiếp xã hội, về
tâm lý, kinh tế,... tổng hợp những tri thức của cuộc sống và phải biết vận dụng kiến thức
vào tổ chức, ra quyết định những công việc trong thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp.
Về công tác quản trị nhân sự, doanh nghiệp phải hình thành nên cơ cấu lao động tối
ưu, phải bảo đảm đủ việc làm trên cơ sở phân công và bố trí lao động hợp lý, sao cho phù
hợp với năng lực, sở trường và nguyện vọng của mỗi người. Trước khi phân công bố trí
hoặc đề bạt cán bộ đều phải qua kiểm tra tay nghề. Khi giao việc cần xác định rõ chức
năng, quyền hạn, nhiệm vụ, trách nhiệm. Đặc biệt công tác trả lương, thưởng, khuyến
khích lợi ích vật chất đối với người lao động luôn là vấn đề hết sức quan trọng.
Động lực tập thể và cá nhân người lao động là yếu tố quyết định tới hiệu quả kinh tế.
Động lực cũng là yếu tố để tập hợp, cố kết người lao động lại. Trong doanh nghiệp, động
lực cho tập thể và cá nhân người lao động chính là lợi ích, là lợi nhuận thu được từ sản
xuất có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp cần phân phối lợi nhuận thỏa đáng, đảm bảo
công bằng, hợp lý, thưởng phạt nghiêm minh. Đặc biệt cần có chế độ đãi ngộ thỏa đáng
với những nhân viên giỏi, trình độ tay nghề cao hoặc có thành tích, có sáng kiến,... Đồng
thời cũng cần nghiêm khắc xử lý những trường hợp vi phạm. Trong kinh doanh hiện đại,
ở nhiều doanh nghiệp hình thức bán cổ phần cho người lao động và người lao động sẽ
nhận được ngoài tiền lương và thưởng là số lãi chia theo cổ phần cũng là một trong
những giải pháp gắn người lao động với doanh nghiệp bởi lẽ cùng với việc mua cổ phần
người lao động không chỉ có thêm nguồn thu nhập từ doanh nghiệp mà còn có quyền
nhiều hơn trong việc tham gia vào các công việc của doanh nghiệp.
TOP
4. Công tác quản trị và tổ chức sản xuất
Tổ chức sao cho doanh nghiệp có bộ máy gọn, nhẹ, năng động, linh hoạt trước thay
đổi của thị trường. Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp phải thích ứng với sự thay đổi của
môi trường kinh doanh. Những nội dung này đã được trình bày ở chương tổ chức bộ máy
quản trị doanh nghiệp. Một điều cần chú ý là cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp phải được
xây dựng phù hợp với các đặc điểm của doanh nghiệp (qui mô, ngành nghề kinh doanh,
đặc điểm quá trình tạo ra kết quả,...) thì mới đảm bảo cho việc quản trị doanh nghiệp có
hiệu quả được.
Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ trách nhiệm, quan hệ giữa các
bộ phận với nhau, đưa hoạt động của doanh nghiệp đi vào nề nếp, tránh sự chồng chéo
giữa chức năng và nhiệm vụ của các bộ phận. Doanh nghiệp phải thường xuyên duy trì và
đảm bảo sự cân đối tăng cường quan hệ giữa các khâu, các bộ phận trong quá trình sản
xuất,... mới có thể nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi người, nâng cao tính chủ động
sáng tạo trong sản xuất.
Hệ thống thông tin bao gồm những yếu tố có liên quan mật thiết với nhau, tác động qua
lại với nhau trong việc thu nhập, xử lý, bảo quản và phân phối thông tin nhằm hỗ trợ cho
các hoạt động phân tích và đánh giá kiểm tra thực trạng và ra quyết định về các vấn đề có
liên quan đến hoạt động của một tổ chức. Việc thiết lập hệ thống thông tin phải đáp ứng
các yêu cầu sau:
- Hệ thống thông tin phải đáp ứng được nhu cầu sử dụng, được thiết lập với đầy đủ
các nội dung, các vấn đề mà doanh nghiệp quan tâm.
- Hệ thống thông tin phải là hệ thống thông tin thường xuyên được cập nhật bổ sung;
- Hệ thống cần phải được bố trí phù hợp với khả năng sử dụng, khai thác của doanh
nghiệp;
- Đảm bảo việc khai thác được thực hiện với chi phí thấp nhất.
5. Đối với kỹ thuật- công nghệ TOP
Một trong những lý do làm hiệu quả kinh tế ở các doanh nghiệp thấp là do thiếu
kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Do vậy vấn đề nâng cao kỹ thuật, đổi mới công nghệ là vấn
đề luôn được quan tâm ở các doanh nghiệp. Tùy thuộc vào loại hình kinh doanh, đặc
điểm ngành kinh doanh, mục tiêu kinh doanh mà doanh nghiệp có chính sách đầu tư công
nghệ thích đáng. Tuy nhiên, việc phát triển kỹ thuật công nghệ đòi hỏi phải có đầu tư lớn,
phải có thời gian dài và phải được xem xét kỹ lưỡng 3 vấn đề:
- Dự đoán đúng cầu của thị trường và cầu của doanh nghiệp về loại sản phẩm
doanh nghiệp có ý định đầu tư phát triển. Dựa trên cầu dự đoán này doanh nghiệp mới có
những mục tiêu cụ thể trong đổi mới công nghệ
- Lựa chọn công nghệ phù hợp. Các doanh nghiệp trên cơ sở mục tiêu của sản xuất
đã đề ra có những biện pháp đổi mới công nghệ phù hợp. Cần tránh việc nhập công nghệ
lạc hậu, lỗi thời, tân trang lại, gây ô nhiễm môi trường,... .
- Có giải pháp đúng về huy động và sử dụng vốn hiện nay, đặc biệt là vốn cho đổi
mới công nghệ, các doanh nghiệp muốn hoạt động có hiệu quả thì cần sử dụng vốn có
hiệu quả, đúng mục tiêu nguồn vốn đầu tư công nghệ.
Rút ngắn thời gian xây dựng để nhanh chóng đưa dự án đầu tư vào hoạt động luôn
là nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc nâng cao hiệu quả kinh tế của đầu tư kỹ thuật
công nghệ.
Trong đổi mới công nghệ không thể không quan tâm đến nghiên cứu sử dụng vật
liệu mới và vật liệu thay thế vì giá trị nguyên vật liệu thường chiếm tỷ trọng cao trong giá
thành của nhiều loại sản phẩm, dịch vụ. Hơn nữa, việc sử dụng nguyên vật liệu mới thay
thế trong nhiều trường hợp còn có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao chất lượng sản
phẩm.
Máy móc thiết bị luôn là nhân tố quyết định năng suất, chất lượng và hiệu quả.
Trong công tác quản trị kỹ thuật công nghệ, việc thường xuyên nghiên cứu, phát triển kỹ
thuật đóng vai trò quyết định. Bên cạnh đó, công tác bảo quản máy móc thiết bị, đảm bảo
cho máy móc luôn hoạt động đúng kế hoạch và tận dụng công suất của thiết bị máy móc
cũng đóng vai trò không nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung.
Để đảm bảo đánh giá chính xác chất lượng hoạt động của máy móc thiết bị, trong tính chi
phí kinh doanh và phân tích kinh tế cần sử dụng khái niệm chi phí kinh doanh “không
tải” để chỉ chi phí kinh doanh về sử dụng máy móc thiết bị bị mất đi mà không được sử
dụng vào mục đích gì.
Đổi mới công nghệ phải đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, thực hiện tốt
công tác kiểm tra kỹ thuật và nghiệm thu sản phẩm, tránh để cho những sản phẩm chất
lượng kém ra tiêu thụ trên thị trường.
6. Tăng cường mở rộng quan hệ cầu TOP
nối giữa doanh nghiệp với xã hội
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, sản xuất của các doanh nghiệp mở
rộng theo hướng sản xuất lớn, xã hội hóa và mở cửa làm cho mối quan hệ lẫn nhau trong
xã hội ngày càng chặt chẽ. Doanh nghiệp nào biết sử dụng mối quan hệ sẽ khai thác được
nhiều đơn hàng, tiêu thụ tốt. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp muốn đạt hiệu quả
cao cần tranh thủ tận dụng các lợi thế, hạn chế khó khăn của môi trường kinh doanh bên
ngoài. Đó là:
- Giải quyết tốt mối quan hệ với khách hàng: là mục đích ý đồ chủ yếu trong kinh
doanh, vì khách hàng là người tiếp nhận sản phẩm, người tiêu dùng sản phẩm của doanh
nghiệp. Khách hàng có được thỏa mãn thì sản phẩm mới được tiêu thụ.
- Tạo ra sự tín nhiệm, uy tín trên thị trường đối với doanh nghiệp về chất lượng sản
phẩm, tác phong kinh doanh, tinh thần phục vụ,... bất cứ doanh nghiệp nào muốn có chỗ
đứng trên thị trường đều phải gây dựng sự tín nhiệm. Đó là quy luật bất di bất dịch để tồn
tại trong cạnh tranh trên thương trường.
- Giải quyết tốt mối quan hệ với các đơn vị tiêu thụ, đơn vị cung ứng.
- Giải quyết tốt mối quan hệ với các tổ chức quảng cáo, các cơ quan lãnh đạo
doanh nghiệp,... thông qua các tổ chức này để mở rộng ảnh hưởng của doanh nghiệp, tạo
cho khách hàng, người tiêu dùng biết đến sản phẩm của doanh nghiệp nhiều hơn, đồng
thời bảo vệ uy tín và sự tín nhiệm đối với doanh nghiệp.
- Phát triển thông tin liên lạc với các tổ chức, khác với thị trường.
- Hoạt động kinh doanh theo đúng pháp luật.
- Có ý thức bảo vệ môi trường tự nhiên sinh thái: bảo vệ rừng đầu nguồn, chống sự
ô nhiễm của bầu không khí, nguồn nước, sự bạc mầu của đất đai trong phát triển sản xuất
kinh doanh ...
TOP
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Khái niệm hiệu quả kinh tế? Vai trò nâng cao hiệu quả kinh tế trong doanh
nghiệp?
2. Nêu hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh tế tổng hợp trong doanh nghiệp? Ý nghĩa của
từng chỉ tiêu ?
3. Nêu hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh bộ phận ? Ý nghĩa của từng chỉ tiêu?
Mối quan hệ giữa chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp và bộ phận?
4. Nêu biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trong doanh nghiệp?