CHƯƠNG 11: SINH LÝ HỌC SINH DỤC
Mỗi người nam có 2 tinh hoàn, khi trưởng thành mỗi tinh hoàn có kích thước trung bình khoảng 4,5 x 2,5 cm, nặng khoảng 10 - 15 gram (số liệu lấy trên người Châu Âu) (hình
2).
156
CHƯƠNG 11
SINH LÝ HỌC SINH DỤC
I. Sinh lý sinh dục nam
- Các cơ quan thuộc hệ sinh dục nam bao gồm tinh hoàn, các hệ thống ống, các tuyến
sinh dục phụ và các cấu trúc hỗ trợ kể cả dương vật (hình 1).
Hình 1: Cơ quan sinh dục nam
1. Bìu
- Bìu là một cấu trúc che chở cho tinh hoàn. Trong bìu có một vách ngăn được cấu tạo
bởi lớp cân nông và cơ dartos (cơ bì) chia bìu ra làm hai, mỗi bên chứa một tinh hoàn.
- Cơ dartos cũng được thấy ở tổ chức dưới da của bìu, chúng được cấu tạo từ các bó
sợi cơ trơn liên kết trực tiếp với tổ chức dưới da của thành bụng, khi các cơ này co sẽ làm
cho bìu nhăn lại.
- Bìu nằm ở ngoài khoang ổ bụng nên giúp duy trì nhiệt độ của tinh hoàn thấp hơn từ 2
đến 3oC so với nhiệt độ của cơ thể, điều này hết sức quan trọng đối với sự sản xuất và sự
sống còn của tinh trùng.
- Cơ treo bìu (cremaster muscle) là một dãi cơ vân nhỏ nằm trong thừng tinh và nối
tiếp với cơ chéo trong trong thành bụng. Cơ treo bìu sẽ nâng các tinh hoàn lên sát với ổ bụng
khi giao hợp và khi lạnh để sưởi ấm cho tinh hoàn và ngược lại khi nóng cơ này dãn để đưa
tinh hoàn ra xa ổ bụng qua đó điều chỉnh nhiệt độ cho tinh hoàn. Việc điều chỉnh nhiệt độ cho
tinh hoàn hết sức cần thiết để đảm bảo cho hoạt động sinh tinh diễn ra bình thường. Trong
hoạt động này cũng có sự tham gia một phần của các cơ dartos.
2. Tinh hoàn
157
- Mỗi người nam có 2 tinh hoàn, khi
trưởng thành mỗi tinh hoàn có kích
thước trung bình khoảng 4,5 x 2,5
cm, nặng khoảng 10 - 15 gram (số
liệu lấy trên người Châu Âu) (hình
2).
- Trong thời kỳ phôi thai các tinh
hoàn nằm cao ở phía thành sau của ổ
bụng.
+ Từ nửa sau tháng thứ bảy của thai
kỳ chúng bắt đầu đi dần xuống bìu
qua ống bẹn.
+ Tật tinh hoàn ẩn ở trẻ nam xảy ra
nếu tinh hoàn không xuống được bìu.
- Tinh hoàn được bọc trong lớp tinh
mạc (tunica vagi-nalis) có nguồn gốc
Hçnh 2: Cáu truc cua tinh hoan va mao tinh
từ phúc mạc, phía trong lơpï tinh
mạc là lớp vỏ trắng (tunica albuginea) kép xuyên vào phía trong tinh hoàn, chia tinh hoàn
thành khoảng 200 đến 300 thùy, mỗi thùy chứa từ 1 đến 3 ống sinh tinh cuộn xoắn lại (hình
3a).
- Nằm sát với lớp màng đáy của ống sinh tinh là các tinh nguyên bào (spermatogonia),
càng hướng về phía lòng ống là những tế bào sinh tinh ở các bước phát triển tiếp theo của quá
trình giảm phân (meiosis) tạo tinh trùng theo tuần tự: (1) tinh bào cấp I (bắt đầu lần phân bào
I của giảm phân); (2) tinh bào cấp II (băït đầu lần phân bào II của giảm phân); (3) tinh tử và
(4) tinh trùng. Các tinh trùng lúc này đã gần thành thục và được giải phóng vào lòng của ống
sinh tinh.
Hình 3: (a) Mặt cắt ngang của các ống sinh tinh, (b) Tế bào Sertoli
- Các tế bào sinh tinh được vùi vào trong các tế bào Sertoli, mỗi tế bào Sertoli nằm
trải dài từ lớp màng đáy tới phía lòng ống, các mối liên kết chặt (tight junction) gắn chặt các
tế bào này lại với nhau tạo nên một hàng rào sinh học ngăn cách giữa máu và các tế bào dòng
tinh.
- Các chất dinh dưỡng muốn đến được các tế bào dòng tinh phải thông qua các tế bào
Sertoli do đó hàng rào này giúp ngăn cản sự đáp ứng miễn dịch của cơ thể với các kháng
158
nguyên trên bề mặt của các tế bào dòng tinh, vì những kháng nguyên này được coi là lạ đối
với hệ miễn dịch của cơ thể.
- Các tế bào Sertoli (hình 3b) có nhiệm vụ nuôi dưỡng các tế bào dòng tinh, tiêu thụ
bớt lượng bào tương của các tinh tử trong quá trình phát triển, làm trung gian cho tác động
của các horrmon testosterone và FSH, cung cấp dịch cho sự vận chuyển tinh trùng và bài tiết
horrmon inhibin giúp điều hòa quá trình sinh tinh thông qua việc ức chế bài tiết FSH của thùy
trước tuyến yên.
Trong các khoang giữa các ống sinh tinh là các đám tế bào Leydig, có nhiệm vụ bài
tiết testosterone.
2.1. Quá trình sinh tinh (spermatogenesis) (hình 4)
- Ở người quá trình sinh tinh diễn ra mất khoảng từ 65 đến 70 ngày, bắt đầu từ các tinh
nguyên bào ( spermatogonia) mang bộ NST 2n = 46.
- Những tế bào này bắt nguồn từ các tế bào sinh dục nguyên thủy (primordial germ
cell) xuất phát từ lớp nội bì của túi noãn hoàng của phôi và đi vào tinh hoàn trong giai đọan
sớm của thời kỳ phát triển của bào thai.
- Trong tinh hoàn của phôi,
các tế bào mầm nguyên thủy sẽ biệt
hóa thành các tinh nguyên bào và đợi
cho đến khi cơ thể bước vào tuổi dậy
thì mới bắt đầu tăng sinh đề gia tăng
số lượng tế bào sinh tinh thông qua
quá trình nguyên phân.
- Các tinh nguyên bào được coi như
là những tế bào gốc vì khi trải qua
nguyên phân, một số trong chúng vẫn
nằm lại cạnh lớp màng đáy đóng vai
trò dự trữ cho các quá trình nguyên
phân tiếp theo còn một số sẽ tách ra
khỏi lớp màng đáy để bước vào quá
trình giảm phân tạo tinh trùng.
+ Khởi đầu các tinh nguyên bào biệt
hóa thành tinh bào cấp I mang bộ
NST lưỡng bội 2n = 46 và bước vào
lần phân bào thứ nhất của giảm phân.
+ Trong lần phân bào thứ nhất của
giảm phân xảy ra hiện tượng trao đổi
chéo giữa các chromatid của cặp
NST tương đồng có nguồn gốc từ bố
và mẹ dẫn đến tái tổ hợp vật chất di
truyền giữa các cặp NST tương đồng,
góp phần tạo nên hiện tượng biến dị Hçnh 4: Qua trçnh giam phán tao tinh truìng
giữa các cá thể.
+ Kết thúc lần phân bào thứ nhất sẽ có 2 tinh bào cấp II hình thành từ 1 tế bào cấp I với bộ
NST đơn bội kép ( mỗi NST vẫn gồm 2 chromatid gắn với nhau ở tâm động)
+ Trong lần phân bào 2 của giảm phân, từ mỗi tinh bào cấp II sẽ hình thành 2 tinh tử mang bộ
NST đơn bội (n = 23), như vậy mỗi tinh bào cấp I sẽ cho 4 tinh tử. Ở thời điểm này các tinh
tử nằm rất gần lòng ống sinh tinh.
- Một điểm cần lưu ý trong quá trình sinh tinh là trong quá trình hình thành tinh tử
159
chúng chỉ tách nhân mà không tách bào tương, cả 4 tinh tử vẫn duy trì sự tiếp xúc với nhau
qua các cầu bào tương trong suốt quá trình phát triển. Người ta cho rằng NST X có thể mang
nhiều gen trọng yếu cho sự phát triển của tinh trùng mà NST Y không có vì vậy cách thức
giảm phân này có ý nghĩa sống còn đối với các tinh tử mang NST Y.
2.2. Quá trình tạo tinh (spermiogenesis) (hình 5)
- Đây là giai đọan cuối cùng của quá trình sinh tinh. Tinh tử hình thành tinh trùng với
phần đầu chứa ADN và thể đỉnh (acrosome), một cấu trúc tương tự lyzosome.
- Thể đỉnh chứa các enzyme hyaluronidase và các pro-teinase giúp tinh trùng xâm
nhập vào trứng. Thể đỉnh còn bài tiết acrosin giúp tinh trùng định hướng và kích thích sự vận
động của chúng trong cơ quan sinh dục của người nữ.
- Thân tinh trùng chứa
nhiều ti thể thực hiện chức
năng chuyển hóa để cung
cấp ATP cho sự vận động
của tinh trùng.
Hình 5: Cấu trúc của một tinh trùng
- Đuôi có hoạt động như một roi (flagellum) mà sự vận động của nó giúp đẩy tinh
trùng tiến về phía trước, mỗi tinh tử hình thành một tinh trùng, các tinh trùng này tách khỏi
các tế bào Sertoli để đi vào lòng ống sinh tinh và được cuốn về hướng các ống tiếp theo trong
cấu trúc của tinh hoàn.
- Mỗi ngày có khoảng 300 triệu tinh trùng được tạo thành. Sau khi được phóng tinh
chúng sống không quá 48 giờ trong cơ quan sinh dục nữ.
- Trong cơ quan sinh dục nữ các tinh trùng vận động tiến tới phía trước với tốc độ
từ 1 đến 4mm/phút. Hoạt động của tinh trùng tăng lên đáng kể khi nhiệt độ tăng tuy nhiên sự
gia tăng chuyển hóa sẽ làm đời sống của tinh trùng ngắn lại.
2.3. Chức năng nội tiết của tinh hoàn
2.3.1. Tổng hợp và bài tiết Testosterone
Bài tiết, vận chuyển và chuyển hóa
- Vào thời điểm bắt đầu dậy thì, thùy trước tuyến yên bắt đầu tiết LH (luteinizing
horrmon: horrmon dưỡng hoàng thể) và FSH (follicle-stimulating horrmon: horrmon kích
thích phát triển nang trứng). Sự bài tiết các horrmon này được thực hiện dưới sự kiểm soát
của GnRH (gonadotropin releasing horrmon: horrmon kích thích giải phóng các horrmon
hướng sinh dục) của vùng dưới đồi (hypothalamus).
- LH kích thích các tế bào Leydig tổng hợp horrmon sinh dục nam testosterone chủ
yếu từ cholesterone. Ngoài ra testosterone còn được tổng hợp từ androstenedione do vỏ
thượng thận bài tiết.
160
+ Ở người nam trưởng thành bình thường testosterone được bài tiết 4 - 9mg / ngày
(13,9 - 31.2 nmol/ngày). Ở người nữ testosterone cũng được tuyến thượng thận bài tiết với
một lượng rất nhỏ.
+ 98% testosterone trong huyết tương được gắn với các protein. Nồng độ
testosterone tự do và gắn với protein trong huyết tương khoảng 525ng/dL (18,2nmol/L) ở
người nam trưởng thành. Nồng độ này ở người nữ là 30ng/dL (1,0 nmol/L) ở người nữ
trưởng thành. Nồng độ này ở người nam giảm dần một ít theo tuổi.
+ Testosterone tan được trong mỡ nên khuếch tán dễ dàng ra khỏi tế bào Leydig để
vào máu để đến các tế bào đích.
Cơ chế tác động
- Giống như các steroid khác, testosterone gắn với receptor ở trong tế bào chất, sau đó
phức hợp testosterone - receptor sẽ gắn với DNA trong nhân thúc đẩy quá trình sao mã của
các gene khác nhau.
- Ở một số tế bào đích testosterone được chuyển thành estradiol, dihydrotestosterone
(DHT) hoặc 5(-androstenediol. Những chất này cũng gắn với các receptor nội bào của nó. Sự
chuyển đổi này được thực hiện dưới sự tác dụng của các enzyme có mựt trong các tế bào
đích: enzyme acromatase xúc tác cho quá trình hình thành estradiol, 5 ( reductase xúc tác cho
quá trình hình thành DHT và cả hai enzyme 5 ( reductase và 3 ( reductase xúc tác cho quá
trình tạo thành 5(-androstenediol.
- DHT cũng đi vào trong tuần hoàn. Nồng độ của DHT trong huyết tương chiếm
khoảng 10% nồng độ testosterone.
- Phức hợp testosterone - receptor ít hằng định hơn so với phức hợp DHT - receptor
trong các tế bào đích và kết hợp với DNA cũng kém hơn, do đó sự tạo thành DHT là con
đường hiệu quả để khuếch đại tác động của testosterone trong các mô đích.
- Phức hợp testosterone - receptor chịu trách nhiệm cho sự biệt hóa ống Wholf dẫn đến
sự hình thành các cơ quan sinh dục trong.
- Phức hợp DHT - receptor rất cần thiết cho sự hình thành và phát triển của cơ quan
sinh dục ngoài của người nam trong thời kỳ bào thai. DHT cũng chịu trách nhiệm chính cho
sự phát triển của tuyến tiền liệt và có lẽ của cả dương vật vào tuổi dậy thì. Cả DHT và 5(-
androstenediol kích thích sự phát triển hệ thống lông và râu trên cơ thể, trên mặt và trên
xương mu, tạo kiểu đường chân tóc cao lên ở hai bên thái dương ở người nam và chúng cũng
góp phần gây ra biểu hiện sói đầu ở người nam.
- Sự tăng trưởng của khối cơ, sự phát triển nam tính và libido chủ yếu phụ thuộc vào
testosterone.
- Trong trường hợp thiếu enzyme 5 ( reductase bẩm sinh sẽ dẫn đến tình trạng lưỡng
giới giả dạng nam (male pseudohermaphoroditism), bệnh nhân vẫn có tinh hoàn nhưng lại có
biểu hiện của cơ quan sinh dục ngoài của nữ.
2.3.2. Cơ chế điều hòa việc tổng hợp và bài tiết testosterone
- Sự tổng hợp và bài tiết testosterone được thực hịên qua cơ chế ức chế ngược (negative
feedback).
+ LH kích thích sản xuất testosterone, khi nồng độ của testosterone trong máu tăng lên
đến một ngưỡng nhất định sẽ ức chế sự giải phóng GnRH của các tế bào vùng dưới đồi, sự
sụt giảm nồng độ GnRH sẽ làm thùy trước tuyến yên giảm bài tiết LH
+ Lượng LH trong máu giảm sẽ làm các tế bào Leydig trong tinh hoàn giảm bài tiết
testosterone.
161
+ Khi nồng độ testosterone trong máu xuống quá thấp, GnRH sẽ được vùng dưới đồi
bài tiết để kích thích thùy trước tuyến yên tăng cường bài tiết LH, qua đó kích thích các tế
bào Leydig tăng cường tổng hợp testosterone.
- Inhibin là horrmon được bài tiết bởi các tế bào Sertoli, có khả năng ức chế sự bài tiết
FSH của thùy trước tuyến yên.
+ Khi đã có đủ lượng tinh trùng cần thiết phục vụ cho chức năng sinh sản của người
nam các tế bào Sertoli sẽ bài tiết inhibin, ức chế bài tiết FSH và làm giảm quá trình sinh tinh.
+ Khi quá trình sản sinh tinh trùng diễn ra quá chậm, lượng inhibin sẽ giảm làm tăng
cường bài tiết FSH và qua đo gia tăng quá trình sinh tinh.
2.3.3. Vai trò của testosterone và FSH trong quá trính sinh tinh
- FSH có tác dụng kích thích trực tiếp quá trình sinh tinh.
- FSH và testosterone cùng tác động trên các tế bào Sertoli để kích thích chúng bài tiết
một loại protein gọi là protein gắn androgen (androgen binding protein: ABP) vào lòng ống
và trong dịch kẻ bao quanh các tế bào sinh tinh.
- ABP gắn với testosterone và giữ cho horrmon này luôn luôn có nồng độ cao ở gần
các ống sinh tinh. Testosterone kích thích các bước cuối cùng của quá trình sinh tinh.
2.3.4. Tổng hợp và bài tiết estrogen
- 70% estradiol trong huyết tương được tạo thành do qua trình thơm hóa
(aromatization) testosterone và androstenedione trong hệ tuần hoàn. Một lượng nhỏ estradiol
do vỏ thượng thận bài tiết và 30% còn lại do tinh hoàn bài tiết.
- Lượng estradiol do tinh hoàn bài tiết một phần xuất phát từ tế bào Leydig và một
phần do quá trình thơm hóa cácd androgen xảy ra ở tế bào Sertoli.
- Ở người nam, lượng estradiol trong huyết tương vào khoảng 2ng/dL (70pmol/L) và
được sản xuất với lượng 0,05 mg/ngày (0,18(mol/ngày).
- Khác với người nữ, ở người nam có sự gia tăng tổng hợp estrogen theo tuổi.
3. Tác động của các androgen
3.1. Trong thời kỳ bào thai
- Trước khi sinh testosterone kích thích sự phát triển hệ thống ống sinh dục theo hướng
nam và thúc đẩy sự đi xuống của tinh hoàn. DHT kích thích sự phát triển của cơ quan sinh
dục ngoài.
- Trong não testosterone được chuyển thành estrogen có vai trò nam hóa trong quá
trình phát triển của một số vùng nhất định trong não bộ của người nam.
3.2. Các biểu hiện đặc trưng của giới
- Vào tuổi dậy thì của người nam có những thay đổi rất lớn trên cơ thể do tác động của
testoterone và DHT.
+ Cơ quan sinh dục ngoài: dương vật dài và lớn ra. Bìu bắt đầu nhiễm sắc tố và nhăn
nheo.
+ Túi tinh phát triển, bài tiết và bắt đầu tổng hợp fructose. Tuyến tiền liệt và tuyến
hành niệu (bulbourethral glands) phát triển và bài tiết.
+ Thanh quản phát triển, các dây thanh quản dài và dày hơn làm giọng nói trầm hơn.
+ Râu mọc, đường chân tóc ở phía hai bên trán cao lên, lông mu phát triển theo kiểu
nam (mọc kiểu hình tam giác với đỉnh hướng lên trên). Lông mọc ở nách, ngực và chung
quanh hậu môn, lông trên toàn cơ thể phát triển.
+ Thể hiện nam tính với tính tình hiếu động, năng nổ hơn, quan tâm tới người khác
giới.
162
+ Vai phát triển bề rộng, cơ lớn ra.
+ Các tuyến bã tăng cường bài tiết
3.3. Chức năng sinh dục
- Các androgen đóng vai trò chính trong việc tạo tinh trùng, hình thành hành vi giới
tính nam và sự ham muốn tình dục ở cả nam và nữ.
3.4. Chuyển hóa
- Các androgen là các horrmon chuyển hóa, kích thích quá trình sinh tổng hợp protein,
làm khối cơ và xương của nam phát triển hơn so với nữ.
- Các horrmon này cũng làm cốt hóa đầu các xương dài nên làm ngừng phát triển cơ
thể.
- Do sûư gia tăng quá trình đồng hóa nên các horrmon androgen làm tăng sự lưu giữ
natri, kali, calci, sulfate và phosphate một cách trung bình và cũng làm tăng kích thước của
thận.
4. Các hệ ống của cơ quan sinh dục nam
4.1. Các ống của tinh hoàn
- Tinh trùng và thành phần dịch trong ống tinh do các tế bào Sertoli bài xuất. Thành
phần dịch của ống tinh giàu ion K+, acid glutamic, acid aspartic và ABP (protein gắn
androgen) được đẩy dần về phía các ống thẳng tiếp nối với các ống sinh tinh, từ đó đổ về hệ
lưới ống của tinh hoàn (rete testis) và sau đó vào mào tinh (epididymis).
- Trong mào tinh, ống được cuộn xoắn chặt lại (nếu trải dài ra ống này sẽ có chiều dài
khoảng 6 mét). Ống này được lợp bởi các tế bào biểu mô trụ giả lát tầng và bào quanh bởi
nhiều lớp cơ trơn, bề mặt tự do của các tế bào biểu mô này có các vi nhung mao làm tăng bề
mặt tiếp xúc để hấp thu các tinh trùng thoái hóa.
- Khi đi qua mào tinh, tinh trùng sẽ trải qua một số thay đổi để trở thành tinh trùng
trưởng thành, quá trình này kéo dài khoảng từ 10 đến 14 ngày, ngoài ra mào tinh còn giúp lưu
trữ tinh trùng và đẩy chúng vào ống tinh bằng cách co thắt các cơ trơn bao quanh ống. Tinh
trùng có thể được lưu giữ ở mào tinh trong khoảng hơn một tháng.
4.2. Ống tinh
- Ở mỗi tinh hoàn, tiếp nối với đuôi mào tinh là ống tinh, dài khỏang 45cm chạy xuyên
qua ống bẹn để vào khung chậu, phần cuối của ống tinh giãn rộng tạo thành phần bóng của
ống tinh.
- Ống tinh là nơi lưu trữ tinh trùng, ở đây các tinh trùng có thể sống với mức chuyển
hóa rất thấp trong nhiều tháng. Tinh trùng được chuyển từ mào tinh về hướng niệu đạo bằng
các nhu động của lớp áo cơ bao quanh phía ngoài ống.
4.3. Ống phóng
- Ống phóng dài khoảng 2 cm, được tạo thành từ sự hợp nhất phần ống của túi tinh và
phần bóng của ống tinh. Ống phóng sẽ phóng tinh trùng vào trong niệu đạo ngay trước khi
được phóng tinh ra ngoài. Dịch tiết của túi tinh cũng được phóng xuất qua ống phóng.
4.4. Niệu đạo
- Niệu đạo dài khoảng 20 cm, được chia làm 3 phần theo thứ tự từ trong ra ngoài: (1)
Phần niệu đạo tiền liệt dài khoảng 2 - 3 cm đi qua tuyến tiền liệt; (2) Phần niệu đạo màng dài
khoảng 1cm đi ngang qua phần hoành niệu sinh dục (urogenital diaphragm) và (3) phần niệu
đạo dương vật dài khoảng từ 15 đến 20 cm và tận cùng ở lỗ niệu đạo ngoài. Niệu đạo là
đường ra chung của tinh dịch và nước tiểu.
5. Các tuyến sinh dục phụ
Các tuyến sinh dục phụ làm nhiệm vụ bài tiết thành phần dịch của tinh dịch.
163
5.1 Túi tinh
- Mỗi ống tinh có một túi tinh nằm cạnh ống phóng, mỗi túi dài khoảng 5cm, bài tiết
dịch kiềm và nhớt chứa fructose, các prostaglandin và các protein.
- Tính kiềm của dịch túi tinh giúp trung hòa tính acid ở trong đường sinh dục nữ,
fructose cung cấp nguyên liệu cho tinh trùng sản xuất ATP, các prostaglandin góp phần vào
khả năng sống và vận động của tinh trùng trong đường sinh dục nữ.
- Semenogelin là protein chính gây ra sự đông vón của tinh dịch sau khi phóng tinh.
- Thành phần dịch do túi tinh bài tiết chiếm khoảng 60% thể tích của tinh dịch.
5.2. Tuyến tiền liệt
- Tuyến tiền liệt nằm phía dưới và sau bàng quang, bao quanh phần niệu đạo tiền liệt.
bài tiết dịch có dạng sữa, hơi acid (pH khỏang 6,5) chứa citrate (acid citric bị ion hóa) được
tinh trùng sử dụng làm nguyên liệu tạo ATP qua chu trình Krebs, PSA (prostate-specific
antigen: kháng nguyên đặc hiệu cho tuyến tiền liệt), acid phosphatase có chức năng chưa rõ
và nhiều enzyme thủy phân protein như pepsinogen, lyzozyme, amylase và hyaluronidase.
PSA và các enzyme thủy phân protein khác có tác dụng làm tinh dịch chuyển từ dạng đông
vón sang dạng loãng.
- Dịch của tuyến tiền liệt được đưa vào niệu đạo tiền liệt qua ống tiền liệt, phần dịch
này chiếm khoảng 25% thể tích của tinh dịch và cũng góp phần trong việc duy trì khả năng
sống và vận động của tinh trùng.
5.3. Các tuyến hành niệu đạo (tuyến cowper)
- Cặp tuyến hành niệu đạo nằm phía dưới tuyến tiền liệt, mỗi tuyến nằm mỗi bên phần
niệu đạo màng và ống của chúng đổ vào phần niệu đạo dương vật.
- Trong quá trình giao hợp dịch của các tuyếnn này có vai trò mở đường cho quá trình
phóng tinh bằng cách bôi trơn niệu đạo và phần quy đầu, trung hòa tính acid trong niệu đạo.
6. Tinh dịch
- Tinh dịch là một hỗn hợp gồm tinh trùng và thành phần dịch được bài tiết từ các ống
sinh tinh, hai túi tinh, tuyến tiền liệt và hai tuyến hành niệu đạo.
- Thể tích tinh dịch trong mỗi lần phóng tinh trung bình từ 2,5 đến 5 ml với số lượng
tinh trùng khoảng từ 50 đến 150 triệu/ml. Mặc dù chỉ cần 1 tinh trùng thụ tinh cho một nõan
bào cấp II nhưng để xuyên thủng noãn bào đòi hỏi phải có một số lượng lớn tinh trùng (một
tinh trùng không giải phóng đủ các enzyme hyaluronisase và proteinase để tiêu hủy rào cản
bao quanh noãn bào) và lượng tinh trùng bị tổn thất trên đường sinh dục nữ rất lớn nên khi số
lượng này giảm xuống còn khoảng 20 triệu/ml thì được coi là vô sinh ở người nam.
- Mặc dù thành phần dịch của tuyến tiền liệt hơi acid nhưng do lượng dịch của túi tinh
chiếm thể tích lớn và kiềm tính nên tinh dịch có độ pH hơi kiềm
(pH = 7,2 đến 7,7). Tinh dịch đã tạo ra một môi trường dinh dưỡng và vận động tối ưu cho
tinh trùng.
- Tinh dịch còn chứa seminoplasmin, một kháng sinh có khả năng tiêu diệt một số loại
vi khuẩn, điều này hết sức có ích vìì trong đường sinh dục dưới của người nữ luôn luôn có sự
hiện diện của vi khuẩn.
- Sau khi phóng tinh, tinh dịch duy trì trạng thái đông vón trong vòng 5 phút do các
protein xuất phát từ túi tinh, vai trò của trạng thái này chưa được biết rõ, sau từ 10 đến 20
phút, tinh dịch trở nên loãng đi dưới tác dụng của PSA và các enzyme phân giải protein của
tuyến tiền liệt. Nếu quá trình loãng hóa của tinh dịch diễn ra chậm lại có thể làm mất đi khả
năng chuyển động của tinh trùng.
164
7. Dương vật
- Dương vật mang niệu đạo, có hình trụ được chia ra thành ba phần: gốc, thân và quy
đầu dương vật.
+ Thân dương vật gồm ba khối mô hình trụ, mỗi khối được bao bởi bởi một mô sợi
gọi là lớp vỏ trắng (tunica albuginea), hai khối lưng bên gọi là dương vật thể hang
(corpora cavernosa penis), khối bụng giữa nhỏ hơn gọi là dương vật thể xốp (corpus
spongiosum), mang phần niệu đạo dương vật, khối này có chức năng là giữ cho phần niệu đạo
dương vật mở ra trong quá trình phóng tinh. Cả ba khối có các xoang máu tạo ra khả năng
cương của dương vật khi các xoang này chứa đầy máu.
+ Khi bị kích thích tình dục thông qua thị giác, xúc giác, khứu giác, thính giác hoặc
qua tưởng tượng, các động mạch cung cấp máu cho dương vật bị giãn rộng làm cho một
lượng máu lớn đi vào các xoang máu, sự căng giãn của các xoang này sẽ chèn ép các tĩnh
mạch của dương vật và làm cho lượng máu đã đi vào các xoang bị giữ lại. Những thay đổi về
vận mạch này sẽ làm cương cứng dương vật. Dương vật sẽ mềm trở lại khi các động mạch co
lại làm giảm áp lực trên các tĩnh mạch dẫn đến sự giải phóng máu trong các xoang.
- Sự phóng tinh là một phản xạ giao cảm. Trong quá trình này cơ vòng ở đáy bàng
quang sẽ thắt lại nhờ đó nước tiểu sẽ không bài xuất trong quá trình phóng tinh và tinh dịch
cũng không đi ngược lên bàng quang.
- Ngay trước khi quá trình phóng tinh xảy ra, các nhu động của phần bóng của ống
tinh, túi tinh, ống phóng và tuyến tiền liệt sẽ đẩy tinh dịch vào phần niệu đạo dương vật làm
chảy một lượng nhỏ tinh dịch trước khi phóng tinh, hiện tượng này được gọi là xuất tinh
(emission), hiện tượng xuất tinh cũng có thể xảy ra trong giấc ngủ và được gọi là mộng tinh
(nocturnal emission)
- Gốc dương vật gồm hành dương vật là vùng tận cùng của thể xốp và hai giò dương
vật (crura of the penis) là hai đầu tận cùng của 2 thể hang
- Phần hành dương vật gắn với mặt dưới của hành niệu sinh dục và được bao quanh
bởi cơ hành xốp (bulbospongiosus muscle). Mỗi giò dương vật được bao quanh bởi cơ ngồi
hang (ischiocavernosus muscle). Sự co lại của các cơ này sẽ hỗ trợ cho quá trình phóng tinh.
8. Dậy thì
- Ở Mỹ và Châu Âu, sự dậy thì ở người nam bắt đầu vào khỏang từ 10 - 11 tuổi và kết
thúc ở tuổi 15-17.
- Trong những năm trước dậy thì, nồng độ huyết tương của LH, FSH và testosterone
thấp. Khoảng từ 6 đến 7 tuổi bắt đầu xảy ra sự phát triển tiền dậy thì, hiện tượng này có lẽ
liên quan đến sự bài tiết horrmon androgen của tuyến thượng thận và hGH (human growth
horrmon).
- Sự gia tăng nồng độ về đêm của LH và FSH nhưng với mức độ thấp báo hiệu cho sự
khởi phát hiện tượng dậy thì sau đó nồng độ LH và FSH gia tăng suốt ngày cùng với sự gia
tăng nồng độ của testosterone.
- Sự gia tăng nồng độ của LH và FSH được cho là do sự gia tăng bài tiết GnRH của
vùng dưới đồi gây ra sự đáp ứng của thùy trước tuyến yên.
- Những thay đổi trong tinh hoàn xảy ra trong thời kỳ dậy thì bao gồm sự thành thục
của các tế bào Sertoli và bắt đầu quá trình sinh tinh. Những thay đổi về mặt giải phẫu và chức
năng liên quan đến sự dậy thì là kết quả của sự gia tăng bài tiết testosterone. Thông thường
dấu hiệu đầu tiên là tinh hoàn to ra, khoảng một năm sau dương vật gia tăng kích thước và
trong vòng vài năm sau đó tuyến tiền liệt, các túi tinh, các tuyến hành niệu và mào tinh sẽ gia
tăng dần kích thước. Sự phát triển các dấu hiệu sinh dục phụ của nam và sự phát triển nhanh
chóng của khối cơ xương xảy ra cũng do sự gia tăng nồng độ testosterone.
165
9. Những thay đổi ở người già
- Người nam khỏe mạnh vẫn có thể duy trì khả năng sinh sản của họ ở độ tuổi
80 - 90. Ở vào khỏang độ tuổi 55, testosterone giảm tổng hợp dẫn đến việc làm giảm cơ lực,
số lượng tinh trùng có khả năng sống ít đi và giảm sự ham muốn tình dục. Tuy nhiên số
lượng tinh trùng vẫn dồi dào ở tuổi già.
- Một vấn đề phổ biến ở người già là sự phì đại của tuyến tiền liệt, sự gia tăng kích
thước của tuyến này sẽ chèn ép niệu đạo và gây tiểu khó.
II. Sinh lý sinh dục nữ
- Cơ quan sinh dục nữ gồm: (1) buồng trứng, (2) vòi trứng, (3) tử cung, (4) âm đạo và
(5) âm hộ. (6) Tuyến vú cũng được xem là một phần của cơ quan sinh dục nữ (hình 1).
1. Cấu tạo và chức năng
1.1. Buồng trứng (hình 6)
- Buồng trứng được coi là tuyến sinh dục của người nữ. Mỗi người nữ có 2 buồng
trứng, nằm ở phía trước khoang chậu, và hai bên tử cung. Trên buồng trứng có một điểm để
làm lối ra vào cho các mạch máu và thần kinh gọi là rốn (hilus) buồng trứng.
- Mỗi buồng trứng gồm có các phần sau:
+ Lớp biểu mô mầm bao phủ mặt ngoài của buồng trứng và tiếp nối với lớp trung
biểu mô trùm lên mạc treo buồng trứng. mặc dầu được gọi là biểu mô mầm nhưng nhiệm vụ
của chúng không phải là để sản sinh trứng.
+ Lớp vỏ trắng (tunica albuginea) tạo bởi mô liên kết đặc và không đều nằm ngay
dưới lớp biểu mô mầm.
+ Vùng đệm là một vùng mô liên kết nằm phía dưới lớp vỏ trắng gồm có lớp đặc nằm
nông gọi là vỏ (cortex) và lớp lỏng lẻo nằm ở phía sâu hơn gọi là tủy (medulla).
+ Các nang trứng nằm tại phần vỏ trắng với các tế bào trứng đang ở các giai đoạn
khác nhau của quá trình phát triển và được các tế bào bao quanh. Lúc đầu các tế bào bao
quanh này chỉ có một lớp, sau đó chúng phát triển số lượng tạo thành nhiều lớp tế bào và
được gọi là các tế bào hạt (granulosa cells). Những tế bào hạt này có nhiệm vụ nuôi dưỡng tế
bào trứng đang phát triển và bài tiết estrogen khi nang trứng phát triển.
+ Nang trứng chín (nang Graaf): là một nang lớn chứa đầy dịch, nang này sẽ vỡ và
giải phóng noãn bào cấp II qua quá trình rụng trứng.
+ Thể vàng (corpus luteum): chứa các phần còn lại của một nang trứng sau khi trứng
rụng. Thể vàng sản xuất progesterone, estrogen, relaxin và inhibin. Khi thể vàng thoái hóa sẽ
trở thành một tổ chức xơ gọi là thể trắng.
166
Hình 6: Các giai đoạn phát triển của nang trứng trong buồng trứng
1.2. Quá trình sinh trứng
- Các tế bào sinh trứng phải trải qua quá trình giảm phân để tạo ra các trứng mang bộ
nhiễm sắc thể (NST) đơn bội (n= 23).
- Ngay từ giai đoạn sớm của bào thai, các tế bào mầm sinh dục nguyên thủy đã di trú
từ lớp nội bì của túi noãn hoàng tới buồng trứng và biệt hóa thành noãn nguyên bào
(oogonia) mang bộ NST lưỡng bội (2n = 46). Các tế bào này phân chia theo lối nguyên phân
để tạo thành khoảng từ 6 đến 7 triệu noãn nguyên bào vào khoảng tháng thứï năm của thai kỳ
và sau đó quá trình nguyên phân ngừng lại.
- Ngay trước khi sinh đã có
rất nhiều noãn nguyên bào bị thoái
hóa và chỉ có một số trong chúng
phát triển được thành noãn bào cấp
I (primary oocyte) mang bộ NST
lưỡng bội đã nhân đôi bước vào kỳ
đầu của lần phân bào thứ nhất của
giảm phân và dừng lại ở đó cho
đến thời kỳ dậy thì.
- Trước khi sinh, mỗi noãn
bào cấp I được bao quanh bởi một
lớp tế bào hạt để tạo thành nang
trứng cấp I (primary follicle),
những noãn bào nào không hình
Hçnh 7: Cáu tao cua mät nang træng chên
thành được nang trứng sẽ bị thoái hóa.
- Khi chào đời, mỗi bé gái chỉ
còn khoảng 2 triệu nang trứng cấp I. Vào tuổi dậy thì số nang trứng này chỉ còn khoảng
400.000 và trong số đó chỉ có khoảng 400 noãn sẽ chín và rụng trong suốt thời kỳ sinh sản
của người nữ, số còn lại sẽ bị thoái biến.
- Mỗi tháng sẽ có khoảng 1000 nang trứng bắt đầu phát triển. Những nang trứng này
sẽ bắt đầu phát triển ở những thời điểm khác nhau, những nang trứng nào phát triển vào thời
điểm có những điều kiện horrmon thích hợp nhất sẽ tiếp tục phát triển còn những nang trứng
phát triển ở những thời điểm kém thích hợp hơn sẽ bị thoái hóa. Trong mỗi chu kỳ sẽ ở mỗi
buồng trứng chỉ còn có từ 6 đến 10 nang trứng phát triển đến giai đoạn tạo hang (antrum) và
trong số này cũng chỉ có một nang trứng chín.
- Khi nang trứng phát triển (hình 7) sẽ tạo ra một lớp glycoprotein trong nằm giữa
noãn bào cấp I và các tế bào hạt gọi là vùng mờ (zone pellucida). Lớp tế bào hạt trong cùng
gắn chặt vào vùng mờ và được gọi là vòng tia (corona radiata). Lớp tế bào hạt ngoài cùng
nằm trên lớp màng đáy ngăn cách chúng với vùng đệm của buồng trứng, lớp này được gọi là
vỏ của nang trứng (theca folliculi). Khi các tế bào hạt bắt đầu bài tiết, dịch của nang trứng tập
trung tại vùng hang (antrum) nằm ở trung tâm của nang trứng. Khi đó nang trứng cấp I trở
thành nang trứng cấp II (secondary follicle).
- Trong thời kỳ thiếu niên, các nang trứng cấp I và nang trứng đang phát triển vẫn tiếp
tục thoái hóa và không có noãn bào và nang trứng nào được hình thành.
- Noãn bào cấp I mang bộ NST 2n sẽ hoàn tất lần phân bào I của giảm phân để tạo ra
hai tế bào mang bộ NST đơn bội (n) kép nhưng kích thước không giống nhau, tế bào nhỏ hơn
được gọi là thể cực thứ nhất (first polar body) chỉ chứa nhân, còn tế bào lớn hơn được gọi là
noãn bào cấp II (secondary oocyte) tiếp nhận hầu hết bào tương.
167
- Sau dậy thì, dưới tác dụng của các hoócmôn FSH và LH của thùy trước tuyến yên,
mỗi tháng sẽ có một nang trứng cấp II tiếp tục quá trình giảm phân đến kỳ giữa của lần phân
bào II và ngừng lại ở đó. Nang trứng lúc đó trở thành nang trứng chín sẵn sàng để vỡ và giải
phóng noãn bào cấp II.
- Khi rụng trứng một noãn bào cấp II cùng với thể cực thứ nhất và lớp vòng tia được
giải phóng vào khung chậu và được đón vào vòi Fallop. Nếu không được thụ tinh, nõan bào
sẽ thoái hóa còn nếu được thụ tinh, nó sẽ tiếp tục hoàn tất quá trình phân bào II của giảm
phân để tạo thành 2 tế bào mang bộ NST đơn bội có kích thước không đều. Tế bào lớn hơn
được gọi là noãn (ovum) còn tế bào kia được gọi là thể cực thứ hai (second polar body).
- Nhân của noãn (n = 23) kết hợp với nhân của tinh trùng (n = 23) qua thụ tinh sẽ hình
thành hợp tử lưỡng bội (2n = 46). Thể cực thứ nhất cũng có thể tiếp tục phân chia để tạo
thành 2 thể cực nhỏ, những thể cực này sẽ bị thoái hóa.
1.3. Vòi trứng (vòi fallope) (hình 9)
- Mỗi người nữ có 2 vòi trứng nằm ở hai bên tử cung, có nhiệm vụ đón và chuyển
noãn bào sau khi rụng về phía tử cung. Mỗi vòi trứng có chiều dài khoảng 10cm, phần nằm
sát với buồng trứng có dạng hình phễu với các tua vòi, một trong số các tua vòi này sẽ bám
vào buồng trứng. Phần bóng của vòi chiếm khỏang hai phần ba ngoài của vòi trứng là phần
rộng và dài nhất, tiếp theo là phần eo ngắn, hẹp và dày hơn gắn vào phía góc trên ở phía bên
của tử cung.
- Thành của vòi tử cung có ba lớp, lớp trong cùng được lợp bởi những tế bào biểu mô
trụ có lông và các tế bào bài tiết có các vi mao cung cấp chất dinh dưỡng cho trứng, lớp giữa
là lớp cơ trơn gốm hai lớp: lớp trong dày hơn, chạy vòng và lớp ngoài mỏng hơn, chạy dọc.
Họat động nhu động của lớp cơ này và của các tế bào có lông ở lòng vòi trứng sẽ giúp noãn
bào cấp II di chuyển dần về phía lòng tử cung. Phía ngoài cùng là lớp thanh mạc bao quanh
vòi trứng.
- Thông thường quá trình thụ tinh xảy ra ở khoảng 2/3 ngoài của vòi trứng, trong
khoảng 24 giờ sau khi trứng rụng. Hợp tử sẽ trãi qua một số lần phân bào và đến được tử
cung khoảng 7 ngày sau khi trứng rụng. Ở thời điểm này nó được gọi là phôi bào (blastocyst)
1.4. Tử cung (hình 8)
168
Hình 8: Vòi trứng và tử cung
- Tử cung tham gia vào hoạt động kinh nguyệt, là nơi làm tổ của trứng nếu được thụ
tinh, nơi phát triển phôi thai, tham gia vào cuộc đẻ và là con đường để cho tinh trùng đi vào
thụ tinh cho noãn bào cấp II.
- Ở người nữ chưa mang thai, tử cung dài khoảng 7cm, rộng khoảng 5cm và dày
khoảng 2cm5. Tử cung có kích thước lớn hơn ở phụ nữ đã mang thai và nhỏ lại ở những
người nữ có nồng độ horrmon sinh dục nữ thấp như ở thời kỳ mãn kinh hoặc ở những người
nữ có sữ dụng thuốc viên ngừa thai.
- Tử cung được chia làm ba phần: phần đáy ở phía trên, phần thân ở giữa và phần cổ
mở ra phía âm đạo. Các tế bào tiết ở niêm mạc cổ tử cung bài tiết dịch nhấy của cổ tử cung là
một hỗn hợp gồm nước, glycoprotein, các protein huyết thanh, các lipid, các enzyme và các
muối vô cơ.
- Mỗi người nữ trong độ tuổi sinh sản bài tiết từ 20 đến 60ml dịch nhầy cổ tử cung mỗi
ngày. Trong thời gian trứng rụng, dịch loãng và có tính kiềm hơn (pH = 8,5) tạo điều kiện
thuận lợi cho sự hoạt động của tinh trùng, ngoài thời kỳ này dịch quánh hơn. Dịch nhầy này
cũng đóng vai trò cung cấp nhu cầu năng lượng cho tinh trùng.
- Phần cổ tử cung và dịch nhầy của nó đóng vai trò như một nơi chứa tinh trùng, giúp
chúng tránh khỏi môi trường không thuận lợi của âm đạo và tránh được hiện tượng thực bào.
Chúng cũng có thể đóng một vai trò nhất định trong việc làm thay đổi khả năng của tinh
trùng để chúng có thể thụ tinh cho noãn bào.
- Về mặt mô học, tử cung chia làm ba lớp, ngoài cùng là lớp thanh mạc, ở giữa là lớp
cơ gồm ba lớp cơ trơn với lớp giữa chạy vòng, lớp trong chạy dọc và lớp ngòai chạy chéo,
trong cùng là lớp nội mạc rất giàu mạch máu gồm một lớp biểu mô trụ đơn với các tế bào có
lông và tế bào tiết lợp ở phía trong lòng tử cung, phía dưới là lớp đệm khá dầy gồm tổ chức
liên kết và các tuyến nội mạc phát triển sâu vào lớp biểu mô và kéo dài tời gần lớp cơ.
- Lớp nội mạc được chia làm hai lớp: (1) lớp chức năng, nằm ở phía khoang tử cung,
sẽ bong ra khi hành kinh, (2) lớp nền, nằm dưới lớp chức năng, sẽ giúp lớp này hồi phục sau
mỗi lần hành kinh.
- Tử cung được động mạch tử cung cấp máu. Các động mạch hình cung xuất phát từ
động mạch này sẽ sắp xếp vòng quanh tử cung trong lớp cơ và hình thành các nhánh tia đi
sâu vào lớp này, trước khi đi vào lớp nội mạc chúng chia thành 2 loại động mạch: (1) các
169
động mạch thẳng cung cấp máu cho lớp nền và (2) các động mạch xoắn ốc cung cấp máu cho
lớp chức năng, các động mạch này có những thay đổi đáng kể trong chu kỳ kinh.
- Tử cung cần phải được cung cấp một lượng máu lớn để tái phát triển lớp chức năng
sau khi hành kinh, phục vụ cho sự làm tổ của trứng sau khi thụ tinh và sự phát triển của bánh
nhau.
1.5. Âm đạo
- Âm đạo với chiều dài khoảng 10cm là nơi tiếp nhận dương vật và tinh dịch trong quá
trình giao hợp, thông qua âm đạo tinh trùng sẽ đi vào khoang tử cung qua cổ tử cung. Kinh
nguyệt cũng thông qua đây để ra ngoài.
- Niêm mạc âm đạo tiếp nối với niêm mạc của tử cung, về mặt tổ chức sau tuổi dậy thì,
âm đạo được lợp bởi các tế bào biểu mô lát tầng không bị sừng hóa và mô liên kết thưa tạo
thành các nếp nhăn chạy ngang âm đạo. Niêm mạc âm đạo chứa một lượng lớn glycogen, khi
bị phân hủy sẽ hình thành các axít hữu cơ tạo nên một môi trường có pH thấp làm ngăn cản
sự phát triển của vi khuẩn, tuy nhiên điều này cũng ảnh hưởng đến khả năng sống và hoạt
động của tinh trùng. Tính chất kiềm của tinh dịch góp phần làm trung hòa độ axít của âm đạo
và làm tăng khả năng sống của tinh trùng.
- Thành phần cơ ở âm đạo gồm 2 lớp cơ trơn, một lớp chạy vòng ở phía ngoài, một lớp
chạy dọc ở phia trong, chúng tạo cho âm đạo có khả năng co giãn rất lớn, tính chất này rất
cần thiết cho cuộc đẻ và hoạt động giao hợp.
- Ở phía dưới âm đạo, nơi mở ra phía ngoài là lỗ âm đạo, ở đây có thể có một nếp
màng nhầy mỏng được tưới máu gọi là màng trinh tạo nên một bở viền quanh lỗ âm đạo làm
đóng lại một phần lỗ này.
1.6. Âm hộ
- Âm hộ là cơ quan sinh dục ngoài của người nữ gồm:
(1) Mu: nằm phía trên âm đạo và lỗ niệu đạo, hình thành do sự nhô lên của tổ chức mỡ
phía trên khớp mu và được phủ bởi một lớp da và lông mu.
(2) Môi lớn: tương tự như bìu ở người nam, cũng được phủ bởi một lớp lông mu, chứa
nhiều mô mỡ, các tuyến mồ hôi và tuyến bã.
(3) Môi bé: có nhiều tuyến bã nhưng không có tuyến mồ hôi và tổ chức mỡ
(4) Âm vật: là một khối nhỏ hình trụ của mô cương và các dây thần kinh, nằm ở chỗ
tiếp nối phía trên của 2 môi bé. Đây là cấu trúc tương tự như dương vật ở nam và có khả năng
cương lên khi bị kích thích. Âm vật có một vai trò nhất định trong việc tạo ra kích thích tình
dục ở người nữ
(5) Tiền đình: Tiền đình là phần giữa 2 môi bé, bên trong nó là màng trinh, lỗ âm đạo,
lỗ niệu đạo ngoài và nhiều lỗ của các ống tuyến. Mỗi bên của lỗ niệu đạo ngoài là lỗ ống
tuyến của các tuyến Sken, mỗi bên của lỗ âm đạo là lỗ ống tuyến của tuyến Bartholin, dịch
tiết của các tuyến này sẽ bôi trơn âm đạo trong quá trình giao hợp. Chạy dọc dưới hai môi bé
là bóng tiền đình gồm hai tổ chức cương được, nằm hai bên lỗ âm đạo. Tổ chức này sẽ cương
lên khi chứa đầy máu, làm hẹp lỗ âm đạo và tạo lực ép lên dưong vật trong quá trình giao
hợp.
1.7. Tầng sinh môn (perineum)
- Vùng tầng sinh môn là vùng hình thoi nằm giữa các nếïp bẹn và mông chứa các cơ
quan sinh dục ngoài và hậu môn. Đường thẳng chạy ngang qua ụ ngồi sẽ chia tầng sinh môn
ra làm thành tam giác niệu sinh dục ở phía trước với cơ quan sinh dục ngòai và tam giác hậu
môn ở phía sau với hậu môn.
170
1.8. Tuyến vú
- Tuyến vú là các tuyến mồ hôi đã được biến đổi, nằm phía trên các cơ ngực lớn
(pectoralis major muscle) và cơ răng to (serratus anterior muscle) và gắn vào các cơ này
bằng một lớp cân sâu.
- Mỗi vú gồm một đầu nhú nhiễm sắc tố nhô ra gọi là núm vú (nipple), trên núm có rất
nhiều lỗ nhỏ nằm cạnh nhau, đây là những lỗ ngoài của các ống dẫn sữa. Phần da nhiễm sắc
tố bao quanh núm vú gọi là quầng vú (areola), quầng vú thô ráp vì chứa nhiều tuyến bã.
- Các chuỗi mô liên kết được gọi là các dây chằng treo vú (suspensory ligaments of the
breast) hay dây chằng Cooper (Coo-per's liga-ments) chạy giữa lớp da và lớp cân sâu để
nâng đỡ vú. Các dây chằng này lỏng lẻo dần theo tuổi hay do sự căng dãn quá mức sẽ làm
ngực chảy xệ xuống.
- Trong mỗi vú, tuyến sữa gồm từ 15 đến 20 thùy (lobe), nằm tách nhau bởi các mô
mỡ. Số lượng của các mô mỡ này sẽ quyết định kích thước của vú. Mỗi thùy lại được chia
thành nhiều tiểu thùy, mỗi tiểu thùy gồm nhiều nang là các tuyến tiết sữa được gắn với nhau
bằng tổ chức liên kết. Bao quanh các nang là là các tế bào có hình thoi gọi là các tế bào cơ
biểu mô (myoepithelial cells), khi các tế bào này co lại sẽ giúp phóng sữa về phía núm vú.
Sữa được sản xuất sẽ đổ vào các xoang chứa sữa (lactiferous sinus), tại đây một sữa sẽ được
dự trữ trước khi được đưa ra ngoài nhờ qua các ống dẫn sữa.
2. Các hoócmôn của buồng trứng
2.1. Các estrogen
2.1.1. Tổng hợp và chuyển hóa
- Các estrogen gồm ba loại: (1) 17(-estradiol; (2) estrone và (3) estriol. Tất cả chúng
đều là C18 steroid được bài tiết bởi các tế bào hạt và lớp vỏ trong (theca interna) của các
nang trứng, thể vàng (corpus lutheum) và bánh nhau.
- Estrogen cũng được tạo thành trong hệ tuần hoàn qua quá trình thơm hóa
(aromatization) androstenedione. Dưới sự xúc tác của enzyme aromatase andro-stenedione
thành estrone và testosterone thành estradiol.
- Các tế bào của lớp vỏ trong của nang trứng có nhiều receptor LH. LH hoạt động thông
qua AMP vòng để làm tăng quá trình chuyển hóa cholesterone thành androstenedione. Một số
androstenedione được chuyển thành estradiol đi vào tuần hoàn.
- Lớp vỏ trong của nang trứng cũng cung cấp androstenedione cho các tế bào hạt để tạo
thành estradiol bài tiết vào trong dịch nang trứng.
- Các tế bào hạt có nhiều receptor FSH. FSH thúc đẩy quá trình bài tiết estradiol qua
con đường AMP vòng để làm làm tăng hoạt tính của enzyme aromatase. Các tế bào hạt
trưởng thành cũng có các receptor LH và LH cũng kích thích quá trình sản xuất estradiol.
- 17(-estradiol được bài tiết trong hệ tuần hoàn với lượng tương đương với estrone. Etrone
sau đó được chuyển hóa thành estriol chủ yếu ở gan. Trong ba loại estrogen, estradiol có tác
động mạnh nhất và etriol có tác động yếu nhất.
- Trong hệ tuần hoàn chỉ có khoảng 2% tự do, số còn lại gắn với protein. Trong gan các
estrogen bị oxy hóa thành glucuronide và các phức hợp sulfate sau đó được bài tiết vào mật
và được tái hấp thu vào máu. Trong nước tiểu có ít nhất 10 chất chuyển hóa khác nhau của
estradiol.
2.1.2. Bài tiết và cơ chế tác động
- Hầu hết các estrogen đều do buồng trứng sản xuất, chúng có 2 đỉnh bài tiết: (1) Ngay
trước khi rụng trứng và (2) giữa giai đoạn thể vàng, trong nửa sau của chu kỳ kinh.
- Estradiol được bài tiết với lượng 36μg/ngày (133μmol/ngày) trong giai đoạn nang
171
trứng sớm (giai đoạn đầu của chu kỳ kinh, 380μg/ngày ngay trước khi rụng
trứng và
250μg/ngày vào giữa giai đoạn hoàng thể (bảng 1).
- Sau khi mãn kinh, sự bài tiết estrogen giảm rất nhiều và chỉ còn ở mức
rất thấp.
- Ở nam mức sản xuất estradiol là 50μg/ngày (180(μmol/ngày)
- Giống như các steroid khác, estrogen kết hợp với các protein receptor
nội bào tạothành phức hợp kết hợp với DNA thúc đẩy quá trình sao mã của các gene
để tổng hợp nên các protein mới là thay đổi chức năng của tế bào.
Bảng 1: Tốc độ sản xuất trong 24 giờ của các horrmon
steroid ở các giai đoạn khác nhau của chu kỳ kinh
Giai đoạn nang Trước khi rụng Giai đoạn
Các sterroid giới tính
trứng sớm trứng giữa thể vàng
Progesterone (mg) 1,0 4,0 25,0
17-Hydroxyprogesterone (mg) 0,5 4,0 4,0
Dehydroepiandrosterone (mg) 7,0 7,0 7,0
Androstenedione (mg) 2,6 4,7 3,4
200,0 240,0 170,0
Testosterone (μg)
50,0 350,0 250,0
Estrone (μg)
36,0 380,0 250,0
Estradiol (μg)
2.1.3. Tác động lên cơ quan sinh dục nữ
- Các estrogen thúc đẩy quá trình phát triển của các nang trứng và tăng cường
sự vận
động của vòi trứng.
- Trong chu kỳ kinh estrogen gây ra những thay đổi có tính chu kỳ của nội
mạc tử
cung, cổ tử cung và âm đạo như sẽ trình bày ở phần dưới.
- Estrogen làm tăng lượng máu tới tử cung và có một vai trò quan trọng đối
với hệ
thống cơ trơn của tử cung.
+ Ở người nữ trước tuổi dậy thì và bị cắt buồng trứng tử cung nhỏ và các cơ
tử cung bị teo và không hoạt động. Estrogen làm tăng số lượng cơ tử cung và
các protein co (contractile protein) trong các tế bào cơ.
+ Dưới ảnh hưởng của estrogen cơ tử cung trở nên dê ùhoạt động và dễ bị
kích thích hơn. Tử cung đã chịûu ảnh hưởng của estrogen sẽ nhạy cảm hơn với
oxytocin.
- Điều trị dài ngày với estrogen sẽ làm phì đại nội mạc tử cung, khi việc điều trị
ngừng lại sẽ làm bong lớp nội mạc gây ra tình trạng xuất huyết qua âm đạo. Đôi khi
tình trạng xuất huyết cũng xảy ra trong quá trình điều trị khi estrogen được sử dụng
điều trị trong một thời gian dài.
2.1.4. Tác động lên các cơ quan nội tiết
- Estrogen làm giảm bài tiết FSH. Trong một số trường hợp các estrogen ức
chế bài tiết LH (feedback âm) và trong một số trường hợp khác chúng làm tăng bài
tiết LH (feedback dương). Các estrogen có thể làm tăng kích thước của tuyến yên.
2.1.5. Hiệu quả trên tính cách
- Estrogen gây ra biểu hiện động dục (estrous) ở động vật và làm tăng ham
muốn tình dục ở người. Tác động này gây ra do tác động trực tiếp của estrogen lên các
neuron nhất định ở vùng dưới đồi (hypothalamus)
172
2.1.6. Tác động trên tuyến vú
- Estrogen làm phát triển hệ ống của tuyến vú và làm vú phát triển ở người nữ trong
tuổi dậy thì.
- Estrogen cũng làm tăng sắc tố ở quầng vú, tuy nhiên hiện tượng này xảy ra rõ hơn
trong lần mang thai đầu tiên
2.1.7. Tác động lên các đặc điểm giới tính phụ
- Những thay đổi trên cơ thể của người nữ ở tuổi dậy thì cùng với sự phát triển của vú,
tử cung và âm đạo một phần do tác dụng của estrogen và một phần đơn giản là do không có
các androgen của tinh hoàn.
- Người nữ có vai hẹp và hông rộng cùng với sự phân bố mỡ ở ngực và mông tạo nên
vóc dáng đặc trưng của người nữ.
- Ở người nữ thanh quản vẫn duy trì cấu trúc như ở thời kỳ tiền dậy thì nên giọng nói
vẫn cao. Lông trên cơ thể ít hơn nhưng tóc nhiều hơn so với người nam. Lông mu mọc kiểu
phía trên bằng. Sự phát triển lông mu và lông nách của người nữ chủ yếu do tác dụng của
androgen chủ yếu do tuyến thượng thận bài tiết hơn là do estrogen.
2.1.8. Các tác động khác
- Người nữ bình thường chỉ giữ nước, muối và tăng cân nhẹ trước khi hành kinh. Hiện
tượng giữ nước và muối không những do estrogen mà còn do andosterone gia tăng bài tiết
trong giai đoạn thể vàng.
- Estrogen làm tuyến bã bài tiết nhiều dịch hơn nên trái ngược với tác động của
testosterone và ngăn cản mụn phát triển.
- Các estrogen làm giảm đáng kể cholesterol trong huyết tương và qua đó ức chế quá
trình xơ vữa động mạch qua đó làm cho tỷ lệ nhồi máu cơ tim và các biến chứng khác của
bệnh xơ vữa động mạch ở người nữ trước tuổi mãn kinh.
2.2. Progesterone
2.2.1. Tổng hợp và chuyển hóa
- Progesteronelà một C21 steroid được bài tiết bởi thể vàng, bánh nhau và một phần
nhỏ do nang trứng bài tiết. Đây là một chất trung gian quan trọng trong quá trình tổng hợp
steroid ở tất cả các mô bài tiết horrmon steroid do đó có một lượng nhỏ progesterone đi vào
máu từ tinh hoàn và vở thượng thận.
- Trong tuần hoàn chỉ có 2% progesterone ở trạng thái tự do, phần còn lại gắn với các
protein.
- Progesterone có thời gian bán hủy ngắn và được chuyển thành pregnanediol ở trong
gan, chất này sẽ liên kết với acid glucuronic và được bài tiết trong nước tiểu.
2.2.2. Bài tiết
- Ở người nam nồng độ progesgterone vào khoảng 0,3ng/mL (1nmol/L). Ở người nữ
nồng độ này vào khoảng 0,9ng/mL (3nmol/L) trong giai đoạn nang trứng của chu kỳ kinh. Sự
khác nhau này là do sự bài tiết một lượng nhỏ progesterone bởi các tế bào trong các nang
trứng. Các tế bào ở lớp vỏ (theca) của nang trứng cung cấp pregnenolone cho các tế bào hạt,
sau đó tế bào hạt chuyển chất này thành progesterone. Vào cuối giai đoạn nang trứng sự bài
tiết progesterone bắt đầu gia tăng.
- Trong giai đoạn thể vàng, thể vàng bài tiết một lượng lớn progesterone và buồng
trứng gia tăng bài tiết progesterone lên gấp 20 lần dẫn đến sự gia tăng nồng độ progesterone
trong huyết thanh, ở mức cao nhất nồng độ này đạt đến 18ng/mL (60nmol/L).
173
2.2.3. Tác động
- Progesterone chịu trách nhiệm cho những thay đổi trong nội mạc tử cung để phục vụ
cho việc mang thai và những thay đổi có tính chu kỳ của cổ tử cung và âm đạo. Horrmon này
có tác động đối kháng với estrogen trên cơ tử cung, làm giảm khả năng kích thích và giảm sự
nhạy cảm của cơ tử cung với oxytocin. Progesterone còn làm giảm số lượng receptor estrogen
trong nội mạc tử cung và làm tăng tốc độ chuyển 17(-estradiol thành loại estrogen kém hoạt
động hơn.
- Ở vú, progesterone kích thích sự phát triển của các thùy và nang tuyến. Nó làm biệt
hóa các tổ chức ống tuyến trước đó đã được chuẩn bị bởi estrogen và hỗ trợ cho chức năng
bài tiết của vú trong giai đoạn tiết sữa.
- Tác động feedback của progesterone khá phức tạp, nó tác động lên cả vùng dưới đồi
và tuyến yên. Lượng lớn progesterone sẽ ức chế bài tiết LH và có khả năng ức chế tác động
của estrogen. Chích progesterone có thể ngăn cản hiện tượng rụng trứng ở người.
- Progesterone là một chất sinh nhiệt và làm tăng thân nhiệt vào thời điểm rụng trứng.
Progesterone cũng kích thích hô hấp nên phân áp CO2 phế nang ở giai đoạn thể vàng thấp
hơn so với người nam.
- Progesterone liều cao làm tăng natri trong nước tiểu (natriuresis), có lẽ do ức chế tác
động của aldosterone trên thận. Horrmon này không có vai trò gì trong quá trình đồng hóa.
- Các chất có tác dụng giống progesterone được gọi là các gestagen hay progestin hoặc
progestational agents. Chúng được sử dụng với estrogen tổng hợp để làm thuốc ngừa thai
dạng uống.
2.3. Relaxin
- Relaxin là một horrmon polypeptide có tác dụng làm giãn khớp mu và các khớp khác
của khung chậu. Horrmon này cũng làm giãn và mềm cổ tử cung trong thai kỳ và do đó tạo
điều kiện thuận lợi cho cuộc đẻ. Nó cũng ức chế sự co bóp của tử cung tạo thuận lợi hơn cho
việc làm tổ của trứng và có lẽ cũng có một vai trò nhất định trong sự phát triển của tuyến vú.
- Ở phụ nữ không mang thai, relaxin được thấy ở hoàng thể và nội mạc tử cung trong
giai đoạn bài tiết của chu kỳ kinh. Ở người nam relaxin được thấy trong tinh dịch do tuyến
tiền liệt bài xuất.
- Trong quá trình mang thai bánh nhau bài tiết nhiều relaxin hơn để tiếp tục làm giãn
cơ trơn tử cung, giãn rộng khớp mu và có thể cũng góp phần vào việc làm giãn rộng cổ tử
cung trong cuộc đẻ.
3. Chu kỳ kinh (hình 11)
- Mỗi chu kỳ kinh gồm có 2 chu kỳ diễn ra song song: (1) chu kỳ buồng trứng trong đó
diễn ra quá trình phát triển và thoái hóa của các noãn bào và (2) chu kỳ tử cung gồm những
thay đổi của lớp nội mạc tử cung.
- Những thay đổi trong chu kỳ kinh được thực hiện thông qua tác động của các
hoócmôn FSH và LH của thùy trước tuyến yên dưới ảnh hưởng của hoócmôn GnRH của
vùng dưới đồi.
3.1. Vai trò của các hormon
- Chu kỳ tử cung và chu kỳ buồng trứng được điều khiển bởi GnRH (gonadotropin
releasing horrmon) của vùng dưới đồi.
+ GnRH kích thích giải phóng các horrmon FSH (follicle stimulating horrmon:
horrmon kích thích nang trứng) và LH (luteinizing horrmon: horrmon dưỡng thể vàng) của
thùy trước tuyến yên.
+ FSH kính thích phát triển các nang trứng và khởi đầu cho việc bài tiết các estrogen
của các nang trứng.
174
+ LH kích thích cho các nang trúng phát triển thêm, tăng cường bài tiết estrogen, điều
khiển quá trình rụng trứng, tạo thành hoàng thể và kích thích bài tiết progesteron, estrogen,
relaxin và inhibin từ tổ chức này.
- Nồng độ trung bình của các estrogen trong máu sẽ ức chế vùng dưới đồi giải phóng
GnRH và thùy trước tuyến yên giải phóng FSH và LH. Sự ức chế này chính là cơ sở tác dụng
của thuốc viên ngừa thai.
- Progesteron được bài tiết chủ yếu bởi thể vàng, hoạt động phối hợp cùng với các
estrogen để chuẩn bị nội mạc tử cung cho trứng đã thụ tinh làm tổ và chuẩn bị tuyến vú cho
việc tổng hợp và bài tiết sữa. Nồng độ cao của progesterone cũng ức chế bài tiết GnRH và
LH.
- Inhibin do các tế bào hạt của các nang trứng đang phát triển và thể vàng bài tiết. Có
tác dụng ức chế bài tiết FSH và cả LH nhưng yếu hơn.
3.2. Các giai đoạn của chu kỳ kinh
- Chu kỳ kinh được tính từ ngày có kinh đầu tiên và kéo dài từ 24 đến 35 ngày, trung
bình là 28 ngày, được chia làm 4 giai đoạn: (1) giai đoạn hành kinh, (2) giai đoạn trước rụng
trứng, (3) giai đoạn rụng trứng và (4) giai đoạn sau rụng trứng.
3.2.1. Giai đoạn hành kinh
- Kéo dài từ ngày thứ nhất đến thứ 5. Trong giai đọan này tại 2 buồng trứng có
khỏang 20 nang trứng cấp II bắt đầu lớn dần. Dịch của nang trứng do các tế bào hạt bài tiết và
rĩ ra từ các mao mạch tập trung lại trong hang và làm hang lớn dần lên trong khi đó noãn
bào vẫn nằm sát bờ của nang trứng đang phát triển.
- Tại tử cung lớp chức năng của nội mạc tử cung bị bong ra, chảy máu, hiện tượng này
xảy ra do lượng progesteron và estrogen giảm mạnh làm co thắt các động mạch xoắn của lớp
chức năng trong nội mạc tử cung dẫn đến sự hoại tử của lớp này.
- Dịch kinh khoảng 50 - 150 ml gồm máu, dịch nhấy, các tế bào biểu mô và dịch tổ
chức xuất phát từ nội mạc tử cung sẽ đổ từ trong khoang tử cung đi qua cổ tử cung và âm đạo
để ra ngoài. Ở thời điểm này nội mạc tử cung rất mỏng vì chỉ còn lại lớp nền.
3.2.2. Giai đoạn trước rụng trứng
- Kéo dài từ ngày thứ 6 đếïn ngày thứ 13 của chu kỳ 28 ngày, đây là giai đoạn có thời
gian thay đổi nhiều nhất trong 4 giai đoạn của chu kỳ kinh và qua đó sẽ làm cho chu kỳ kinh
trở nên dài hoặc ngắn hơn so với thời gian 28 ngày.
- Tại buồng trứng dưới ảnh hưởng của FSH, cácn nang trứng tiếp tục phát triển và bắt
đầu bài tiết estrogen và inhibin, vào khoảng ngày thứ 6, một nang trứng sẽ phát triển nổi trội
hơn các nang khác, lượng estrogen và inhibin do nang này bài tiết sẽ làm giảm lượng FSH do
đó sẽ làm các nang trứng kém phát triển hơn thoái hóa. Nang trứng còn lại sẽ phát triển thành
nang trứng chín (nang Graaf) và tiếp tục lớn lên cho đến khi đường kính đạt khoảng 20mm
nổi rộp lên trên bề mặt buồng trứng và sẵn sàng cho việc rụng trứng.
- Sự bài tiết estrogen ngày một gia tăng dưới ảnh hưởng của sự gia tăng nồng độ LH.
Estrogen là horrmon chính yếu trong giai đoạn này nhưng vẫn có một số lượng nhỏ
progesterone được bài tiết bởi nang trứng chín trong vòng một hai ngày trước khi rụng trứng.
175
Hình 11:Các biến đổi của horrmon, nang trứng, nội mạc tử cung
và thân nhiệt trong chu kỳ kinh
- Tại tử cung, estrogen được giải phóng trong máu sẽ kích thích tái sinh lớp nội mạc,
các tế bào của lớp nền sẽ trãi qua quá trình nguyên phân để tạo nên lớp chức năng mới, khi
lớp nội mạc dày lên, các tuyến nội mạc ngắn và thẳng bắt đầu phát triển, các tiểu động mạch