CHƯƠNG 10: SINH LÝ HỌC HỆ NỘI TIẾT
Hoạt động cơ thể được điều hòa bởi hai hệ thống chủ yếu là: hệ thống thần kinh và hệ thống thể dịch. Hệ thống thể dịch điều hoà chức năng của cơ thể bao gồm điều hoà thể tích máu, các thành phần của máu và thể dịch như nồng độ các khí, ion và đặc biệt là nồìng độ các hormon, do đó hệ thống thể dịch còn được gọi là hệ thống nội tiết.
134
CHƯƠNG 10
SINH LÝ HỌC HỆ NỘI TIẾT
I. Đại cương về hệ nội tiết và hormon
Hoạt động cơ thể được điều hòa bởi hai hệ thống chủ yếu là: hệ thống thần kinh và hệ
thống thể dịch. Hệ thống thể dịch điều hoà chức năng của cơ thể bao gồm điều hoà thể tích
máu, các thành phần của máu và thể dịch như nồng độ các khí, ion và đặc biệt là nồìng độ các
hormon, do đó hệ thống thể dịch còn được gọi là hệ thống nội tiết.
1. Chức năng của hệ nội- tiết
- Duy trì hằng định nội môi, bảo đảm môi trường cho hoạt động chuyển hóa tại tế bào.
- Giúp cơ thể đáp ứng trong những trường hợp khẩn cấp như đói, nhiễm trùng, chấn
thương, stress tâm lý.
- Tác động trên sự tăng trưởng.
- Đảm bảo hoạt động sinh sản.
2. Định nghĩa và phân loại hormon
2.1. Định nghĩa
Hormon là những chất hóa học do một nhóm tế bào hoặc một tuyến nội tiết bài tiết vào
máu rồi được máu đưa đến các tế bào hoặc các mô khác trong cơ thể và gây ra các tác dụng
sinh lý tại đó.
2.2. Phân loại :
Dựa vào nơi bài tiết và nơi tác dụng người ta phân thành hai nhóm hormon :
- Hormon tại chỗ (local hormones) là những hormon do một nhóm tế bào bài tiết vào
máu và có tác dụng tại chỗ đặc hiệu trên các tế bào gần nơi bài tiết. Một số hormon tại chỗ
như acetylcholine, secretin, cholecystokinin, histamin, prostaglandin.
Ví dụ: + Secretin do tế bào thành tá tràng bài tiết vào máu, có tác dụng kích thích tuyến
tuỵ bài tiết dịch tuỵ loãng.
+ Histamin được bài tiết hầu hết các mô trong cơ thể đặc biệt mô da phổi, ruột.
Histamin có tác dụng làm giãn mạch và tăng tính thấm của mao mạch.
- Hormon chung (general hormones) là những hormon do tuyến nội tiết bài tiết và có
tác dụng sinh lý trên các tế bào ở các tổ chức xa nơi bài tiết. Một số hormon có tác dụng lên
hầu hết các tế bào của cơ thể như GH của tuyến yên, hormon tuyến giáp.
Một số hormon chỉ có tác dụng đặc hiệu trên một số mô hoặc một cơ quan nào đó như
ACTH, TSH, FSH, LH...của tuyến yên. Những mô hoặc cơ quan chịu tác dụng của các
hormon này được gọi là mô đích hay cơ quan đích.
Các hormon của tuyến nội tiết chính là :
+ Vùng dưới đồi: bài tiết các hormon giải phóng và ức chế, hai hormon được bài tiết bởi
nhân trên thị và nhân cạnh não thất là ADH (vasopressin) và oxytocin được chứa ở thuỳ sau
tuyến yên.
+ Tuyến yên: thuỳ trước bài tiết GH, ACTH, TSH, FSH, LH, Prolactin.
+ Tuyến giáp: bài tiết T3, T4 và Calcitonin.
135
+ Tuyến cận giáp: bài tiết parathormon (PTH).
+ Tuyến tuỵ nội tiết: bài tiết insulin, glucagon, somatostatin.
+ Tuyến thượng thận: Vỏ thượng thận bài tiết cortisol, aldosteron và androgen.
Tuỷ thượng thận bài tiết adrenalin và noradrenalin.
+ Tuyến buồng trứng: bài tiết estrogen và progesteron
+ Tuyến tinh hoàn: bài tiết testosteron.
+ Rau thai: bài tiết HCG, estrogen, progesteron, HCS, relaxin.
3. Bản chất hóa học của hormon
Có 3 loại cơ bản
3.1. Hormon steroid: là những hormon có cấu trúc hoá họüc giống cholesterol và hầu hết được tổng
hợp từ cholesterol như hormon vỏ thượng thận, tinh hoàn, buồng trứng và rau thai.
3.2. Hormon dẫn xuất từ acid amin là tyrosine: hormon của tuyến giáp (T3, T4), hormon của
tủy thượng thận (adrenalin và noradrenalin).
3.3. Hormon peptid: đa số những hormon còn lại thuộc nhóm này như hormon vùng dưới đồi,
hormon tiền yên, hormon tuyến cận giáp, hormon tuỵ nội tiết.
Ngoài ra còn có hormon dạng eicosanoid: các hormon địa phương, mới được khám phá
gần đây, như prostaglandin, leucotrien.
4. Cơ chế tác dụng của hormon
4.1. Chất tiếp nhận (Receptor)
Khi đến tế bào đích, hormon thường không tác dụng trực tiếp vào cấu trúc trong tế bào
mà thường kết hợp với chất tiếp nhận ở bề mặt hoặc bên trong màng tế bào hoặc trong nhân tế
bào đích. Phức hợp hormon-receptor sẽ thúc đẩy một chuỗi phản ứng hoá học trong tế bào,
những phản ứng sau bao giờ cũng mạnh hơn phản ứng trước nên chỉ những kích thích ban đầu
dù rất nhỏ của hormon cũng đủ gây hiệu quả cuối cùng rất lớn.
Các chất tiếp nhận hormon là những phân tử protein có trọng lượng phân tử lớn, mỗi tế
bào đích có khoảng 2000-100.000 receptor. Mỗi receptor đặc hiệu cho một loại hormon, chính
điều này quyết định tác dụng đặc hiệu của hormon lên mô đích.
Số lượng receptor ở tế bào đích có thể thay đổi từng ngày thậm chí từng phút vì các phân tử
protein receptor tự nó có thể bị bất hoạt hoặc bị phá huỷ, nhưng rồi có thể được hoạt hoá trở lại hoặc
được tổng hợp các phân tử mới trong tế bào. Số lượng receptor tại mô đích tỉ lệ nghịch với lượng
hormon trong máu. Điều này giúp điều hoà hoạt động của tế bào.
4.2. Cơ chế tác dụng chủ yếu của hormon
Tuỳ theo bản chất hoá học của hormon mà vị trí gắn của hormon với receptor sẽ xảy ra
ở trên màng, trong bào tương hoặc trong nhân. Do đó chúng sẽ có những cơ chế tác động
khác nhau trên tế bào đích.
4.2.1. Cơ chế tác dụng lên sự hình thành AMP vòng (hình 1) :
Các hormon dạng peptid và catecholamine là những hormon có trọng lượng phân tử lớn,
không hòa tan trong mỡ, không qua được màng tế bào, được tiếp nhận vào tế bào bởi những
receptor đặc hiệu nằm trên bề mặt tế bào.
Phức hợp hormon-receptor sẽ hoạt hóa men adenylcyclase nằm trên màng tế bào, men
này xúc tác phản ứng chuyển ATP (adenosine triphosphate) thành AMP vòng (AMPv: cyclic
136
3’- 5’ adenosine monophosphate) trong bào tương, tiếp đó AMPv sẽ hoạt hóa một
chuỗi các men khác trong tế bào theo kiểu dây chuyền, dẫn đến những thay đổi sinh lý
đặc hiệu tại tế bào đích như sinh tổng hợp các chất, thay đổi tính thấm màng tế bào, co
hoặc dãn cơ...
Đáp ứng AMP vòng xảy ra tại tế bào đích phụ thuộc vào thành phần cấu trúc
trong tế bào hay hệ thống men có trong tế bào đích. Mỗi tế bào có những hệ thống
men khác nhau nên tác dụng của hormon gây ra tại tế bào đích là không giống nhau.
Sau khi gây ra tác dụng sinh lý trên tế bào đích, AMP vòng bị bất hoạt trở thành
5’AMP
dưới tác dụng của men phosphodiesterase có trong bào tương tế
bào đích.
Như vậy, chính AMP vòng mới gây ra tất cả tác dụng của hormon trong tế
bào nên hormon được xem là chất truyền tin thứ 1 và AMPv là chất truyền tin thứ 2.
Một số hormon lại không sử dụng AMPv như chất thông tin thứ 2, mà thay
vào đó là GMPv, ion canxi, inositol triphosphate, diacyl glycerol... và cũng gây một
loạt tác dụng trong tế bào tương tự AMPv.
4.2.2. Cơ chế tác dụng lên quá trình tổng hợp proteine
(hình 2) :
Hormon dạng steroid và hormon tuyến giáp có trọng lượng phân tử nhỏ, hòa
tan trong mỡ, có thể khuếch tán qua màng tế bào, rồi kết hợp với các receptor đặc hiệu
trong bào tương hoặc trong nhân.
Phức hợp này đi vào trong nhân tác động lên DNA của nhiễm sắc thể, tăng quá
trình sao chép đặc hiệu của gen dẫn đến tăng RNA thông tin (mRNA ). Các ARN
thông tin này sẽ đi ra bào tương và thúc đẩy quá trình dịch mã tại ribosome để tạo
những protein mới, những protein được hình thành từ RNA thông tin này tạo nên những
đáp ứng sinh lý.
Kiểu tác dụng này thường xuất hiện chậm nhưng lại tác dụng kéo dài, trái ngược
với tác dụng xảy ra tức khắc của các hormon tác dụng qua sự hình thành AMP vòng.
Hormon - Chất truyền tin thứ nhất
aiPhæc håüp
Hormon Nhán
H+R
H-ReceptorR Màng tế bào + Protein
Adenylcyclase mRNA
ATP AMPv - Chất truyền tin thứ mRNA
Bao tæång Protein
Enzyme bất hoạt Enzyme hoạt động
Âap æng sinh ly
Thay đổi chức năng tế bào
( Tạo những đáp ứng sinh lý )
Hình 1 : Tác dụng trên sự hình thành AMPv Hình 2 : Tác dụng trên sự tổng hợp
protein
5. Điều hòa bài tiết hormon
Các hormon được bài tiết theo cơ chế điều khiển từ tuyến chỉ huy đến tuyến đích
và theo cơ chế điều hoà ngược từ tuyến đích đến tuyến chỉ huy. Đây là cơ chế điều hoà
chủ yếu để duy trì nồng độ hormon luôn hằng định, và thích ứng được với hoạt động
137
của cơ thể và sự thay đổi của môi trường, phần lớn các hormon được bài tiết theo cơ
chế điều khiển ngược. Ngoài ra, sự
138
bài tiết hormon còn được điều hoà theo nhịp sinh học và qua một số chất truyền đạt thần kinh.
Tuy nhiên cơ chế điều hoà ngược vẫn là cơ chế chủ yếu, nhanh và nhạy.
5.1. Điều hòa ngược âm tính
Khi nồng độ hormon tuyến đích tăng, thì chính hormon đó tác dụng ngược trở lại vùng
dưới đồi và tuyến yên, làm giảm sự bài tiết các hormon tương ứng phía trên. Ngược lại, khi
nồng độ hormon tuyến đích giảm sẽ kích thích vùng dưới đồi và tuyến yên để tăng cường bài
tiết các hormon tương ứng của nó.
Cơ chế điều hòa ngược được thực hiện bằng 3 con đường:
- Long- feedback: ngược dòng dài, từ tuyến đích theo đường máu trở về tuyến yên và
vùng dưới đồi
- Short -feedback: ngược dòng ngắn, từ tuyến yên ngược trở lại vùng dưới đồi
- Ultra short -feedback: ngược dòng cực ngắn, điều hoà trong nội bộ vùng dưới đồi và
ức chế bài tiết hormon tương ứng ở tuyến yên (các IRH).
Điều hoà ngược âm tính là kiểu thường gặp nhằm duy trì nồng độ hormon trong giới
hạn bình thường (Sơ đồ 1).
5.2. Điều hòa ngược dương tính
Ởí vài trường hợp, nồng độ hormon tuyến đích tăng, gây tăng bài tiết horrmon tuyến chỉ
huy. Cơ chế này ít xảy ra, chỉ liên quan đến bảo vệ cơ thể, như chống stress, chống lạnh hoặc
gây phóng noãn. Cơ chế này rất cần thiết vì thường liên quan đến những hiện tượng mang tính
sống còn của cơ thể. Tuy nhiên kiểu điều hoà này chỉ xảy ra một thời gian ngắn, sau đó sẽ
chuyển sang điều hoà ngược âm tính thông thường.
(±) (3)
VÙNG DƯỚI ĐỒI (1) điều hòa ngược dài
(() ( 2) (() (2) điều hòa ngược ngắn
TUYẾN YÊN (3) điều hòa ngược cực ngắn
(1)
(TUYẾN ĐÍCH(
Sơ đồ 1 : Tóm tắt cơ chế điều hòa ngược
II.Vùng dưới đồi và tuyến yên
1. Vùng dưới đồi (hypothalamus)
Vùng dưới đồi là một cấu trúc thuộc não giữa, nằm quanh não thất III và nằm chính
giữa hệ thống viền (limbic), có liên quan mật thiết với tuyến yên qua đường mạch máu và
thần kinh tạo nên trục dưới đồi-yên-tuyến đích điều hòa các chức năng nội tiết của cơ thể.
Các nơron của vùng dưới đồi ngoài chức năng dẫn truyền xung động thần kinh còn có
chức năng tổng hợp và bài tiết các hormon.
Các hormon do vùng dưới đồi bài tiết sẽ theo con đường mạch máu và thần kinh đến dự
trữ hay tác động (kích thích hoặc ức chế) lên chức năng tuyến yên.
139
1.1. Các hormon giải phóng và ức chế
Các nơron vùng dưới đồi bài tiết các hormon giải phóng RH (Releasing Hormon) và các
hormon ức chế IRH (Inhibiting Releasing Hormon) có tác dụng ức chế hoặc kích thích hoạt
động thùy trước tuyến yên.
Các hormon giải phóng và ức chế sau khi tổng hợp từ thân nơron, chúng được chuyển
theo sợi trục xuống tích trữ ở vùng lồi giữa. Ở đây, các hormon khuyếch tán vào mạng mao
mạch thứ nhất rồi theo hệ mạch cửa dưới đồi-yên xuống thuỳ trước tuyến yên.
- TRH (Thyrotropin Releasing Hormon) là một peptid có 3 acid amin, có tác dụng kích
thích tuyến yên bài tiết TSH (Thyroid Stimulating Hormon).
- CRH (Corticotropin-releasing hormon) là một polypeptid gồm 41 acid amin, có tác
dụng kích thích tuyến yên bài tiết ACTH (Adrenocorticotropic Hormon).
- GnRH (Gonadotropin-Releasing hormon) là một peptid có 10 acid amin, có tác dụng
kích thích tuyến yên bài tiết FSH (Follicle-Stimulating Hormon) và LH (Luteinizing
Hormon).
- GRH (Growth Releasing Hormon) là một peptid có 10 acid amin, có tác dụng kích
thích tuyến yên bài tiết GH (Growth Hormon)
- PIH (Prolactin Inhibitory Hormon) chưa biết rõ cấu trúc, có tác dụng ức chế tuyến yên
bài tiết Prolactin.
- Sau cùng là các IRH (Somatostatin) là GIH (Growth Inhibitory Hormon) ức chế sự
tổng hợp và giải phóng GH.
Các hormon trên được điều hoà chủ yếu bằng cơ chế điều hoà ngược âm tính như đã
trình bày, tín hiệu điều hoà xuất phát từ tuyến yên hoặc các tuyến nội tiết khác.
1.2. Các hormon khác
Nơron của nhân trên thị và nhân cạnh não thất ở vùng dưới đồi còn bài tiết ra hai
hormon là ADH (Antidiuretic hormon hay Vasopressin) và Oxytocin được tổng hợp ở thân tế
bào rồi vận chuyển dọc theo sợi thần kinh, đến tích trữ ở thùy sau tuyến yên.
Bản chất hoá học và điều hoà bài tiết hai hormon này sẽ được trình bày ở phần các
hormon thuỳ sau tuyến yên.
2. Tuyến yên
2.1. Giải phẫu và tổ chức học
Tuyến yên là một tuyến nhỏ, đường kính khoảng 1 cm, nằm trong hố yên của xương
bướm, nặng 0,5g. Tuyến yên liên quan mật thiết với vùng dưới đồi qua đường mạch máu và
đường thần kinh, đó là hệ thống cửa dưới đồi - yên và bó sợi thần kinh dưới đồi - yên (hình
3). Tuyến yên là một tuyến hỗn hợp, gồm có 3 thùy:
140
Hình 3 : Sơ đồ trục dưới đồi-yên
2.1.1. Thùy trước: gồm những tế bào tuyến, có nhiều loại, mỗi loại tổng hợp và bài tiết một
loại hormon.
Khoảng 30-40% tế bào tuyến bài tiết GH, đó là những tế bào ưa acid; 20% tế bào tuyến
là những tế bào tổng hợp và bài tiết ACTH. Các loại tế bào còn lại, mỗi loại chỉ chiếm 3-5%
nhưng có khả năng rất mạnh bài tiết TSH, FSH, LH, PRH.
2.1.2. Thùy sau: còn gọi là thùy thần kinh, các tế bào ở đây giống tế bào thần kinh đệm,
không có khả năng chế tiết hormon mà có chức năng hỗ trợ cho các sợi trục và cúc tận cùng
tiết ADH và Oxytocin.
2.1.3. Thùy giữa: bài tiết MSH và cùng với thùy trước bài tiết POMC (Proopiomelanocortine)
và (-LPH ((-Lipotropin). Thuỳ này ở người kém phát triển.
- Mạch máu: được cung cấp từ vùng dưới đồi qua hệ thống cửa dưới đồi-yên (Système
porte hypothalamo-hypophysaire) Popa - Fielding.
- Thần kinh: có ở thùy sau, là bó sợi thần kinh đi từ nhân trên thị và nhân cạnh não thất
của vùng dưới đồi xuống.
2.2. Các hormon thùy trước
2.2.1. Hormon tăng trưởng (GH)
- Bản chất hoá học: GH là một phân tử polypeptid, có 191 acid amin, trọng lượng phân
tử 22.005.
141
- Tác dụng:
+ Tác dụng phát triển cơ thể: tác dụng lên hầu hết các mô cơ thể, tăng số lượng và kích
thước tế bào, tăng kích thước các phủ tạng. Kích thích phát triển các mô sụn ở đầu xương dài
do đó làm thân xương dài ra, đồng thời mô sụn cũng dần được cốt hoá sao cho đến tuổi vị
thành niên, lúc này đầu xương và thân xương hợp nhất với nhau và xương không dài nữa. GH
gây dày màng xương ở xương đã cốt hóa. Tác dụng này rõ trong giai đoạn phát triển và tiếp
tục duy trì suốt đời.
+ Tác dụng lên chuyển hóa :
* Tăng tổng hợp protein, tăng thu nhận acid amin vào tế bào.
* Gây tăng đường huyết do làm giảm sử dụng glucose tế bào, tăng dự trữ glycogen tế
bào, giảm đưa glucose vào tế bào, tăng bài tiết insulin và kháng insulin ở mô cơ làm giảm vận
chuyển glucose qua màng tế bào.
* Tăng huy động mỡ dự trữ nhằm cung cấp năng lượng do đó làm tăng nồng độ acid
béo trong máu. Dưới tác dụng của GH, lipid được sử dụng để tạo năng lượng nhằm tiết kiệm
protein dành cho sự phát triển cơ thể.
+ Sự tương tác giữa GH và somatomedin (IGF-I): somatomedine là một polypeptid do
gan và thận sản xuất. Đó là một yếu tố có cấu trúc gần giống insulin, được gọi là insulinlike
growth factor I (IGF-I). Có tác dụng tương tác phối hợp với GH trong chuyển hoá protein,
phát triển sụn và phát triển cơ thể. Vì nó kết hợp sulfat vào sụn. Nó còn có tác dụng kích thích
tạo keo. Tác dụng phối hợp này xảy ra ở nhiều tổ chức , vì vậy được gọi là somatomedin.
- Điều hòa bài tiết GH: nồng độ GH thay đổi tùy lứa tuổi 1,5-3ng/ml ở người trưởng
thành, 6ng/ml ở trẻ em và tuổi dậy thì. Sự bài tiết dao động từng phút và phụ thuộc nhiều yếu tố
(hạ đường huyết, vận cơ, chấn thương...). Nồng độ GH cao nhất ban ngày 3-4 giờ sau bữa ăn,
ban đêm GH tăng hai giờ đầu giấc ngủ say rồi giảm dần đến sáng.
GH được kiểm soát bởi hai hormon vùng dưới đồi là GRH và GIH qua cơ chế điều hòa
ngược. Nồng độ glucose máu giảm, nồng độ acid béo giảm, thiếu protein kéo dài làm tăng tiết
GH. Ngoài ra, các tình trạng stress, chấn thương, luyện tập sẽ làm tăng tiết GH.
2.2.2. Hormon kích thích tuyến giáp (TSH) :
- Bản chất hoá học: TSH là một glycoprotein, trọng lượng phân tử khoảng 28.000.
- Tác dụng:
+ Tất cả các giai đoạn tổng hợp, bài tiết hormon giáp.
+ Dinh dưỡng tuyến giáp và tăng phát triển hệ thống mao mạch của tuyến giáp.
- Điều hoà bài tiết: TSH được bài tiết do sự điều khiển của TRH, phụ thuộc vào nồng độ
T3, T4 tự do theo cơ chế điều hòa ngược. Nồng độ bình thuờng người trưởng thành là 2,12 (
0,91 mU/L (Phan Văn Duyệt và CS, 1995).
2.2.3. Hormon kích thích vỏ thượng thận (ACTH)
- Bản chất hoá học: ACTH là một polypeptid có 39 acid amin, trọng lượng phân tử
5000. Phần lớn ở dạng tiền chất POMC
- Tác dụng:
+ Dinh dưỡng, kích thích sự tổng hợp và bài tiết hormon vỏ thượng thận
+ Tác dụng chủ yếu lên lớp bó và lớp lưới bài tiết glucocorticoid và androgen.
+ Trên tổ chức não, ACTH làm tăng quá trình học tập và trí nhớ.
142
+ Do có một phần cấu trúc gần giống MSH nên cũng có tác dụng MSH. Ở người do
lượng MSH bài tiết không đáng kể nên chính ACTH có tác dụng kích thích tế bào sắc tố sản
suất melanin, do đó sự rối loạn bài tiết ACTH cũng gây tăng hay giảm sắc tố ở da.
- Điều hoà bài tiết: Sự bài tiết ACTH do nồng độ CRH của vùng dưới đồi quyết định, khi
nồng độ CRH tăng làm tăng tiết ACTH. Ngoài ra còn do tác dụng điều hoà ngược âm tính và
dương tính của cortisol. Đồng thời ACTH cũng được điều hoà theo nhịp sinh học, nồng độ cao
nhất từ 6-8 giờ sáng. Ở người Việt Nam trưởng thành (lấy máu lúc 8 giờ 30 phút trên 25 nam
khoẻ mạnh) nồng độ ACTH là 9,78 ( 4,60 pg/ml (Phạm Thị Minh Đức và CS, 1998).
2.2.4. Các hormon hướng sinh dục
- Bản chất hoá học: cả FSH và LH đều là các glycoprotein
FSH (kích noãn tố) có 236 acid amin, trọng lượng phân tử 32.000. Còn LH (kích hoàng
thể tố), có 215 acid amin, trọng lượng phân tử 30.000.
- Tác dụng:
+ FSH:
Ở nam giới: dinh dưỡng tinh hoàn, phát triển ống sinh tinh và sản sinh tinh trùng
Ở nữ giới: kíck thích sự phát triển của các nang trứng trong giai đoạn đầu, phối hợp LH
làm cho trứng chín, rụng và bắt đầu bài tiết estrogen
+ LH:
Ở nam giới: dinh dưỡng tế bào Leydig, kích thích sự bài tiết testosteron
Ở nữ giới: gây hiện tượng rụng trứng, tiết estrogen, sau đó tạo hoàng thể và kích thích
sự bài tiết progesteron.
- Điều hoà bài tiết: hai hormon trên được điều hòa theo cơ chế điều khiển ngược âm tính
của estrogen, progesteron, testosteron và GnRH. Riêng estrogen còn có tác dụng điều hoà
ngược dương tính, ngay trước giai đoạn phóng noãn, nồng độ estrogen trong máu cao kích
thích tuyến yên bài tiết FSH và LH.
Nồng độü FSH và LH ở nữ dao động trong chu kỳ kinh nguyệt.
2.2.5. Hormon kích thích bài tiết sữa- Prolactin (PRL):
- Bản chất hoá học: 198 acid amin, trọng lượng phân tử 22.500.
- Tác dụng: kích thích tăng trưởng tuyến vú và sự sản xuất sữa lúc có thai và cho con
bú, đồng thời ức chế tác dụng của Gonadotropin tại buồng trứng.
- Điều hoà bài tiết: bình thường prolactine bị ức chế bởi PIH ở vùng dưới đồi và được
bài tiết với nồng độ rất thấp, 110-510 mU/L ở nam và 80-600 mU/L ở nữ. Khi có thai
prolactin tăng dần từ tuần thứ 5 của thai kỳ cho tới lúc sinh, gấp 10-20 lần bình thường.
Do estrogen và progesteron ức chế bài tiết sữa nên khi đứa trẻ sinh ra, cả hai hormon
trên giảm đột ngột tạo điều kiện cho prolactin phát huy tác dụng bài tiết sữa.
2.3. Hormon thùy giữa
2.3.1. POMC (proopiomelanocortin)
- Trong tiền yên POMC được thủy phân thành ACTH, MSH, (-LPH và (-endorphin.
- Trong tuyến yên giữa, POMC được thủy phân thành một peptid giống ACTH là CLIP
(Corticotropin Like Intermediate lobe Peptid), γ-LPH, β-endorphin.
143
2.3.2. MSH (Melanostimulating hormon)
Kích thích sự tổng hợp melanin trong các tế bào hắc tố (melanocyte), liên quan đến
ACTH , ở người chỉ rõ khi bị rối loạn (bệnh Addison).
2.3.3. (-LPH: chứa các phân tử endorphin và enkephalin là những peptid gắn chất tiếp nhận á
phiện (opioid receptor).
2.4. Các hormon thùy sau
Hai hormon được bài tiết từ thuỳ sau tuyến yên có nguồn gốc từ vùng dưới đồi, do nhân trên
thị và nhân cạnh não thất bài tiết. Sau khi được tổng hợp chúng được vận chuyển theo sợi trục đến
chứa ở các túi nằm trong tận cùng thần kinh khu trú ở thuỳ sau tuyến yên. Hai hormon đó là
oxytocin và ADH.
2.4.1. ADH (antidiuretic hormon)
- Bản chất hoá học: ADH còn có tên là vasopressin là một peptid gồm 9 acid amin (Cys-
Tyr-Phe-Gln-Asn-Cys-Pro-Arg-Gly-NH2).
- Tác dụng: chủ yếu là tăng tái hấp thu nước ở ống xa và ống góp, liều cao gây co mạch,
tăng huyết áp nên còn gọi là vasopressin
Cơ chế tác dụng: giải phóng AMP vòng trong tế bào ống góp, làm tăng tính thấm màng
tế bào đối vớí nước.
- Điều hoà bài tiết: bài tiết phụ thuộc vào áp suất thẩm thấu và thể tích dịch ngoại bào.
Khi áp suất thẩm thấu tăng, nhân trên thị bị kích thích sẽ truyền tín hiệu đến thuỳ sau
tuyến yên và gây bài tiết ADH.
Thể tích máu giảm, gây kích thích mạnh bài tiết ADH khi giảm 15-25% thể tích máu,
lúc này ADH tăng gấp 50 lần và có thể gây co mạch mạnh nên còn gọi là vasopressin.
Các receptor căng dãn ở nhĩ bị kích thích cũng có thể kích thích bài tiết ADH.
2.4.2. Oxytocin
- Bản chất hoá học: là peptid có 9 acid amin với trọng lượng phân tử 1025.
- Tác dụng:
+ Gây co thắt tế bào biểu mô cơ (myoepithelial cells) là những tế bào nằm thành hàng
rào bao quanh nang tuyến sữa. Những tế bào này co lại sẽ ép vào các nang tuyến và đẩy sữa ra
ống tuyến, khi đứa trẻ bú sẽ nhận được sữa. Tác dụng này được gọi là tác dụng bài xuất sữa,
khác với tác dụng gây bài tiết sữa của prolactin.
+ Gây co cơ tử cung mạnh khi có thai, đặc biệt mạnh vào cuối thai kỳ, lúc chuyển dạ.
- Điều hoà bài tiết: Oxytocin được bài tiết khi có kích thích trực tiếp vào tuyến vú (động
tác mút vú của đứa trẻ) hoặc kích thích tâm lý. Những kích thích tâm lý hoặc giao cảm có liên
quan đến cảm xúc đều có ảnh hưởng đến vùng dưới đồi kích thích hoặc ức chế bài tiết
oxytocin và ảnh hưởng đến sự bài xuất sữa ở các bà mẹ cho con bú.
2.5. Rối loạn chức năng tuyến
2.5.1. Ưu năng tuyến yên
- Tế bào ưa acid hoạt động quá mức hoặc u tế bào ưa acid làm tăng bài tiết GH :
+ Trước dậy thì gây bệnh khổng lồ (Gigantism) kèm biểu hiện đái đường, nếu không
điều trị 10% biểu hiện suy toàn bộ tuyến yên và tử vong. Nếu được chẩn đoán kịp thời bệnh
có thể khỏi nhờ vi phẫu thuật bóc khối u hoặc tia xạ.
144
+ Xảy ra sau dậy thì gây bệnh to đầu ngón (Acromegaly), các sụn liên hợp đã cốt hóa nên
xương không dài ra nhưng GH vẫn tác động lên các mô mềm, các xương dẹt và xương nhỏ làm dày
lên. Bệnh nhân có thể có biểu hiện mặt to, cằm bạnh, ngực bụng to, bàn chân bàn tay to...
- U tăng tiết prolactin
- Hội chứng Cushing (u tăng tiết ACTH)
2.5.2. Nhược năng tiền yên
Nguyên nhân do u hoặc do chèn tuyến yên hoặc do huyết khối mạch máu ở phụ nữ sau
sinh gây hoại tử tế bào tuyến yên.
- Nếu xảy ra trước dậy thì gây lùn yên (Dwarfism), lùn cân đối, giảm mức độ phát triển,
đứa trẻ 10 tuổi chỉ bằng 4-5 tuổi. Những người này không có dậy thì, chức năng sinh dục
không phát triển như người bình thường. Tuy nhiên, 1/3 ltrường hợp lùn yên do thiếu GH đơn
độc, nên các hormon khác vẫn được tiết đầy đủ.
Ở người lùn Pyrmy, lượng GH được tiết bình thường nhưng không có khả năng tạo
somatomedin C.
- Bệnh xảy ra ở người trưởng thành gây suy các tuyến phía dưới, biểu hiện nhược năng
giáp, giảm corticoid, GnRH giảm, người bệnh gầy đét, giảm hoạt động sinh dục, lông tóc
rụng. Ngoại trừ chức năng sinh dục, các rối loạn khác có thể được điều trị khỏi nhờ hormon
tuyến giáp và vỏ thượng thận.
2.5.3. Bệnh đái tháo nhạt
Tổn thương vùng dưới đồi hoặc thùy sau tuyến yên làm giảm lượng bài tiết ADH. Triệu
chứng chính là đái nhiều.
3. Tuyến giáp
3.1. Đặc điểm giải phẫu và tổ chức học
- Tuyến giáp nằm trước khí quản, dưới sụn giáp, nặng 20-25g, gồm 2 thùy, có eo ở giữa,
cao 6cm, rộng 3cm, dày 2cm.
- Cấu trúc gồm nhiều nang giáp, trong chứa đầy dịch keo, xen lẫn hệ thống mạch máu
rất phong phú (1% lưu lượng tim), ở đây tổng hợp và dự trữ hormon T3, T4.
Hình 4 : Nang giáp
145
- Các nang giáp cấu tạo bởi những tế bào tuyến, đáy tiếp xúc với mao mạch, đỉnh tế bào
tiếp xúc với dịch keo trong lòng nang.
Ngoài ra, cạnh các nang giáp, các tế bào cạnh nang bài tiết ra calcitonin là hormon tham
gia chuyển hoá can-xi (hình 4).
3.2. Tổng hợp hormon giáp
Iod là chất chủ yếu cho sự tổng hợp hormon giáp. Quá trình tổng hợp hormon gồm 4
giai đoạn :
3.2.1. Bắt iod
Trong tuyến giáp, sự bắt iod phải có mặt của TSH. Nó tăng khi tuyến bị kích thích bởi
TSH hay khi dự trữ hormon trong tuyến giáp giảm.
Iod huyết tương lưu hành trong máu dưới dạng iodure (I- ) đến từ các nguồn sau:
- Từ thức ăn, trung bình 100 đến 300 microgram mỗi ngày
- Từ sự khử iod ở ngoại vi của hormon giáp
Cuối cùng iod được lấy từì sự khử iod của mono-iodotyrosine (MIT) và di-iodotyrosine
(DIT) .
Sự bắt iod của tuyến giáp sẽ giảm nếu như nguồn cung cấp vượt quá 4mg/ngày.
Sự bắt iod cần năng lượng, nhờ vào (bơm iod( với sự hoạt động của Na-K-ATPase, quá
trình này có thể bị chặn lại bởi ouabain và perclorat, các chất này cạnh tranh với iod. Khi vào
trong tế bào giáp, các iod này sẽ trộn lẫn với iodur được giải phóng sau khi bài tiết hormon
giáp và nhanh chóng được sử dụng để tổng hợp phân tử hormon giáp mới. Ở tuyến giáp bình
thường, bơm iod tập trung iod tại tuyến giáp gấp 30 lần trong máu. Ở tuyến giáp tăng hoạt
động, sự tập trung này có thể tăng đến gấp 250 lần.
3.2. 2. Tổng hợp và dự trữ hormon giáp
Sự tổng hợp và dự trữ hormon giáp liên kết với thyroglobulin. Đây là chất cần thiết cho
sự iod hóa và tạo nên dạng dự trữ hormon giáp trước khi bài tiết ra ngoài.
Trong tế bào giáp, mạng nội bào tương và lưới golgi tổng hợp và bài tiết thyroglobulin
vào dịch keo, là một glycoproteine trọng lượng phân tử 660.000, được mã hóa về mặt di
truyền. Một phân tử thyroglobulin có 2 tiểu đơn vị với trọng lượng phân tử tương đương
(330.000), nhưng trong dịch keo nó ở dạng không đồng nhất.
- Oxy hoá iod: Bước đầu tiên của sự hình thành hormon giáp là oxy hóa I-- thành iodine
(I2), đây là dạng có khả năng gắn với gốc amino acid tyrosin của phân tử thyroglobulin. Quá
trình này có sự tham gia của men peroxydase và kèm theo nó là hydrogen peroxydase.
Peroxydase khu trú ở cực đỉnh của tế bào giáp và sự oxy hóa iod xảy ra đúng vị trí mà ở đó
thyroglobulin được tạo thành và đổ vào dịch keo. Khi hệ thống peroxydase bị cản hoặc do
thiếu bẩm sinh thì tốc độ hình thành hormon giáp giảm xuống bằng 0.
- Sự gắn iod vào tyrosin: Sự gắn iod vào phân tử thyroglobulin gọi là sự hữu cơ hóa
thyroglobulin và gắn độ 1/6 gốc tyrosin trên phân tử thyroglobulin nhờ men iodinase. Đầu
tiên, tyrosin được gắn với 1 và 2 iod để tạo thành MIT (T1) và DIT (T2). Tiếp đó trong vài
phút, vài giờ hoặc vài ngày, các DIT ghép cặp để tạo thành thyroxin , một MIT ghép với một
DIT để hình thành Tri-iodothyronin T3.
Như vậy, T3T4 được tạo thành, chính là dạng hormon tuyến giáp và vẫn gắn vào phân tử
thyroglobulin ở dạng dự trữ.
146
Mỗi phân tử thyroglobulin chứa 1 đến 3 T4 và 14 thyroxin có 1 phân tử T3. Ở dạng này,
hormon giáp dự trữ trong dịch keo đủ cung cấp cho cơ thể trong 2-3 tháng.
Quá trình hữu cơ hóa được tự điều hòa bởi lượng I-- hiện diện trong tế bào giáp : ở
tuyến bị kích thích mạnh trước đó, hoặc do thiếu iod, hoặc do TSH ngoại sinh, hoặc nguồn
iod quá thừa dẫún đến tăng nồng độ iod trong tế bào giáp. Điều này dẫn đến hai hậu quả : (i)
hình thành iod bất hoạt (I3) gây cản trở tổng hợp hormon tuyến giáp (ii) lượng iod thừa sẽ cản
trở thu nhận iod, tất nhiên dẫn đến giảm I- trong giáp và giảm lượng hormon giáp.
Tuy nhiên, sự cản trở tổng hợp hormon sẽ được giải tỏa sau một thời gian. Sự tự điều
hòa trên được gọi là hiệu ứng Wolff - Chaikoff.
3.2. 3. Sự di chuyển của hormon giáp
Quá trình này diễn ra ngược lại với sự thu nhận iod: từ dịch keo đi qua tế bào và từ cực
đỉnh đến cực mạch máu. Bắt đầu bằng sự hình thành các chân giả ở các nhung mao phía màng
đỉnh của tế bào giáp. Chúng sẽ lấy các giọt keo tạo nên một cái túi trong lòng nó, rồi kết hợp
với các lysosom chứa enzym tiêu hóa. Proteinas là một trong số các enzym này, tiêu hóa phân
tử thyroglobulin và phóng thích T3, T4 bằng cách cắt các dây nối peptid gắn hormon với phân
tử protein này. Các hormon khuếch tán về cực mạch máu để đổ vào mao mạch xung quanh,
một số đi vào ống bạch huyết.
Khoảng 3/4 tyrosin đã được iod hóa trong thyroglobulin vẫn ở dạng MIT và DIT. Cùng
với sự phóng thích T3, T4, các dạng này cũng được phóng thích nhưng không được tiết vào
máu, mà bị khử iod bởi men deiodinase. Chính những iod này quay trở lại trong tuyến để góp
phần tạo hormon giáp mới.
3.2.4. Sự bài tiết hormon giáp
Độ 93% hormon được phóng thích từ giáp là thyroxine (100nmol/24giờ) và chỉ hơn 7%
là T3 (10 nmol/24giờ). Sau vài ngày phần lớn T4 bị khử iod để tạo thành T3. Cuối cùng
hormon đến và hoạt động trên tổ chức chủ yếu là T3, có độ 35 microgram T3 được tạo nên
mỗi ngày nhưng chúng không có hoạt tính và có thể bị phá hủy.
- Hàm lượng T4 toàn bộ trong huyết tương trong khoảng 50-140 nmol/l và T3 là 1,2-3,4
nmol/l, phần lớn được kết hợp với protein huyết tương. T3,T4 tự do được đo trực tiếp bằng kỹ
thuật miễn dịch phóng xạ, T4 tự do (f-T4) bằng 12 pmol/l, T3 tự do (f-T3) là 30pmol/l, đây
chính là dạng hoạt động của hormon.
3.3. Chuyển hóa hormon giáp
- Trong máu phần lớn T4 chuyển thành T3 và RT3 (reverse T3), T3 là hormon hoạt động
trên tổ chức (80% do T4 chuyển sang, 20% do tuyến giáp tiết trực tiếp), có hoạt tính sinh học
gấp 5 lần T4.
- Sau khi tác dụng, hormon giáp bị khử iod trong gan, thận và nhiều mô khác, một số
iod sẽ được tái hấp thu vào máu được sử dụng lại, một ít đào thải qua phân.
Tỷ lệ tái hấp thu và bài tiết còn lệ thuộc vào nguồn cung cấp iod. Ví dụ: mỗi ngày cơ thể
thu nhận từ thức ăn, nước uống là 500(g iod, thì khoảng 120(g vào tuyến giáp và tuyến giáp sẽ
dùng 80(g để tạo T3, T4, còn 40(g khuếch tán vào dịch ngoại bào. Sau đó T3, T4 bị khử iod,
giải phóng 60(g. Tổng cộng mỗi ngày có khoảng 600(g iod trong cơ thể, 20( sẽ được tái hấp
thu vào tuyến giáp, còn 80( đào thải theo nước tiểu. Định lượng iod trong nước tiểu biết được
lượng iod thu nhập hàng ngày.
3.4. Tác dụng của hormon giáp
3.4.1. Tác dụng lên chuyển hóa tế bào
147
- T4, T3 làm tăng tiêu thụ O2 ở hầu hết các mô trong cơ thể nên làm tăng chuyển hóa cơ
sở (CHCS), ngoại trừ não, tinh hoàn, tử cung, lách, bạch huyết, tiền yên. CHCS có thể tăng từ
60-100% trên mức bình thường khi một lượng lớn hormon được bài tiết.
- Tăng kích thước và số lượng ty lạp thể, do đó tăng ATP để cung cấp năng lượng cho
các hoạt động chức năng của cơ thể.
- Khi T3, T4 tăng quá cao (cường giáp), các ty lạp thể càng tăng hoạt động, năng lượng
không tích lũy hết dưới dạng ATP mà thải ra dưới dạng nhiệt.
- Hormon giáp có tác dụng hoạt hoá men Na+ -K+ -ATPase do đó làm tăng vận chuyển
ion Na+ và K+ qua màng tế bào một số mô, quá trình này cần sử dụng năng lượng và tăng
sinh nhiệt nên được coi đây là cơ chế làm tăng chuyển hoá của cơ thể.
3.4.2. Tác dụng trên sự tăng trưởng
Thể hiện rõ ở thời kỳ đang lớn của đứa trẻ, cùng với GH làm cơ thể phát triển. Đặc biệt
có tác dụng phát triển bộ não thai nhi và những năm đầu sau sinh.
3.4.3. Tác dụng trên chuyển hóa
- Glucid: hormon giáp tác dụng hầu hết các giai đoạn của quá trình chuyển hoá glucid,
bao gồm tăng thu nhận glucose ở ruột, tăng tạo đường mới, tăng phân hủy glycogen thành
glucose ở gan, do đó gây tăng glucose máu nhưng chỉ tăng nhẹ.
- Lipid: tăng thoái hóa lipid ở mô mỡ dự trữ, gây tăng nồng độ acid béo tự do huyết
tương và tăng oxy hóa acid béo tự do ở mô để cho năng lượng. Giảm lượng cholesterol,
phospholipid, triglycerid huyết tương, do đó người nhược năng tuyến giáp có thể có tình trạng
xơ vữa động mạch.
- Protid: ở liều sinh lý, T3,T4 làm tăng tổng hợp protein giúp cho sự phát triển và tăng
trưởng cơ thể, nhưng ở liều cao, tác dụng dị hóa nổi bật, gây mất protein ở mô, vì vậy người
bệnh cường giáp thường gầy.
3.4.4. Tác dụng trên chuyển hóa vitamin
T3,T4 cần cho sự hấp thu vitamin B12 ở ruột và chuyển caroten thành vitamin A.
3.4.5. Tác dụng trên hệ thần kinh cơ
- Hormon giáp thúc đẩy phát triển trí tuệ, liều cao gây hoạt bát, bồn chồn, kích thích;
nhược năng ở trẻ gây chậm phát triển về trí tuệ.
- Hoạt hóa synap, làm ngắn thời gian dẫn truyền qua synap, do đó ở bệnh nhân cường
giáp, thời gian phản xạ gân xương ngắn, đồng thời, tăng hoạt động các synap thần kinh ở
vùng tủy chi phối trương lực cơ gây dấu hiệu run cơ.
3.4.6. Tác dụng lên tim mạch
- Trên tim làm tăng số lượng (-receptor ở tim, do đó tim nhạy cảm với catecholamin
nhiều hơn, làm nhịp tim nhanh.
- Trên mạch máu: tăng chuyển hóa và tăng các sản phẩm chuyển hóa ở mô gây dãn
mạch, làm tăng lưu lượng tim, có khi tăng trên 60% trong cường giáp và giảm chỉ còn 50% so
với bình thường trong nhược năng giáp.
3.4.7. Tác dụng lên cơ quan sinh dục
Sự hoạt động bình thường của tuyến giáp cần thiết cho sự phát triển bình thường của bộ
máy sinh dục. Ở nam giới, thiếu hormon giáp gây mất dục tính nhưng bài tiết nhiều có thể gây
148
bất lực. Ở nữ giới, thiếu hormon giáp gây rong kinh, đa kinh nhưng thừa hormon gây ít kinh,
vô kinh hoặc giảm dục tính.
3.5. Điều hòa bài tiết hormon giáp
Tuyến giáp được kiểm soát bởi TSH tiền yên, sự bài tiết TSH tăng dưới tác dụng của
TRH và lạnh, giảm khi bị stress, nóng...T4,T3 tự do ức chế ngược sự bài tiết TSH, TSH bị
điềìu khiển bởi TRH.
Trong điều kiện sinh lý, chỉ cần 55(g iod/ngày vào tuyến giáp, nếu sự cung cấp gia tăng
(10 giọt Lugol chứa 60.000(g iod) xuất hiện sự giảm thu nhận iod hữu cơ, cũng như ức chế
giải phóng hormon.
3.6. Các rối loạn chức năng giáp
3.6.1. Ưu năng tuyến giáp
Cường giáp hay gặp nhất là thể bệnh Graves (Basedow) tuyến phì đại và lồi mắt. Đây là
bệnh tự miễn, cơ thể sản sinh kháng thể chống lại kháng nguyên tuyến giáp, kháng thể gắn
vào receptor tiếp nhận TSH kích thích sự bài tiết hormon giáp, kháng thể này được gọi là TSI
(Thyroid Stimulating Immunoglobulin). Nghiên cứu miễn dịch phóng xạ, cho thấy TSH giảm,
có khi bằng 0. Ở phần lớn bệnh nhân, kháng thể kháng mô hố mắt được tìm thấy trong máu.
Ngoài ra, cường giáp còn gặp trong u tuyến giáp, hiếm gặp hơn, nồng độ cao hormon giáp ức
chế tuyến yên bài tiết TSH do đó phần còn lại của giáp hầu như không hoạt động. Tất cả những triệu
chứng lâm sàng của cường giáp đều do tăng nồng độ T3,T4 trong máu.
3.6.2. Nhược năng giáp
Nguyên nhân tại tuyến giáp, tuyến yên hoặc vùng dưới đồi, thường gặp là suy giáp do tự
miễn. Thường biểu hiện bằng hiện tượng viêm tuyến giáp sau đó tuyến giáp dần xơ hoá và
giảm chức năng.
- Hội chứng suy giáp do nhược năng tuyến giáp, giảm lượng thyroxin, bệnh nhân
thường chậm chạp, nhịp tim chậm, ngủ nhiều...Có biểu hiện phù niêm là dạng phù do ứ động
dưới da acid hyaluronic và chondrotin sulfat kèm với protein trong khoảng kẽ. Ngoài ra người
suy giáp có thể bị xơ vữa động mạch do tăng nồng độ cholesterol máu, đặc biệt ở suy giáp thể
phù niêm (Myxoedema).
- Lùn giáp (chứng đần độn: Cretinisme): trẻ bị suy giáp ngay sau khi sinh, lùn, trí tuệ
kém phát triển, lưỡi to. Nguyên nhân do mẹ thiếu iod lúc mang thai hoặc bất thường tuyến
giáp bẩm sinh. Có thể điều trị ngay sau sinh.
- Thiếu iod: khi sự hấp thu iod dưới 10(g/ngày, sự tổng hợp hormon giáp không đủ,
TSH tăng, gây phì đại giáp: Bướu cổ địa phương. Giai đoạn đầu chức năng giáp còn bình
thường, nhưng nếu không điều trị dần dần sẽ dẫn đến suy giáp.
Chủ trương cung cấp muối iod được thực hiện ở nhiều nước và kết quả làm giảm tỷ lệ bướu cổ
xuống rõ rệt. Ở nước ta, qua những cuộc điều tra ở vùng đồng bằng và ngay cả vùng ven biển cũng
thiếu iod. Từ tháng 1 năm 1995 toàn dân được cung cấp muối iod.
Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác ngăn cản tổng hợp hormon giáp (sắn, rau cải,
thuốc lá...) gây Bướu cổ rải rác.
3.6.3. Thừa iod
Khi sự cung cấp iod quá mức qui định (> 400-1000 (g/ngày) kéo dài có thể gây những
rối loạn chức năng giáp.
3.7. Hormon calcitonin
149
Do các tế bào cạnh nang bài tiết, chỉ chiếm 0,1% tuyến giáp. Đây là một polypeptid có
32 acid amin, trọng lượng phân tử 3400.
Tác dụng làm giảm nồng độ canxi huyết tương do làm giảm hoạt động của tế bào huỷ
xương, tăng lắng đọng muối canxi ở xương và giảm hình thành các tế bào huỷ xương mới.
Tác dụng trên quan trọng ở trẻ đang lớn nhằm đáp ứng với tốc độ thay đổi xương nhanh trong
thời kỳ đang phát triển.
Sự bài tiết calcitonin được điều hoà bởi nồng độ ion Ca++ huyết tương. Sự tăng nồng độ
ion Ca++ khoảng 10% thì bài tiết calcitonin tăng gấp 2-3 lần. Tuy nhiên tác dụng duy trì nồng
độ canxi mạnh và kéo dài chủ yếu là tác dụng của parathormon.
4.Tuyến thượng thận
4.1. Đặc điểm giải phẫu và tổ chức học
Tuyến thượng thận gồm hai tuyến nhỏ úp trên hai thận, mỗi tuyến nặng khoảng 4g.
Tuyến thượng thận gồm 2 phần riêng biệt : phần vỏ (80%) và phần tuỷ (20%).
4.1.1. Vỏ thượng thận : gồm 3 lớp riêng biệt (Hình 5)
- Lớp cầu gồm các tế bào rất mỏng nằm ngoài cùng của tuyến, sản xuất hormon chuyển
hoá muối nước là mineralocorticoid (aldosteron)
- Lớp bó ở giữa sản xuất glucocorticoid (cortisol)
- Lớp lưới trong cùng bài tiết androgen
Lớp cầu và hai lớp còn lại chịu ảnh hưỏng nhiều yếu tố hoàn toàn khác nhau. Những yếu
tố làm tăng sinh lớp cầu và tăng bài tiết aldosteron thi không tác dụng với hai lớp kia và ngược
lại, yếu tố làm tăng tiết cortisol và androgen thì không ảnh hưởng đến lớp cầu.
4.1.2. Tủy thượng thận
Nằm ở trung tâm của tuyến, sản xuất và bài tiết catecholamine, được xem là hai hạch
giao cảm lớn mà nơron mất sợi trục và trở thành tế bào bài tiết.
Chức năng tuỷ thượng thận liên quan đến
hoạt động hệ giao cảm, sự kích thích giao cảm cũng
gây bài tiết hormon tuỷ thượng thận và các hormon
này lại có tác dụng giống tác dụng của hệ thần kinh
giao cảm.
Tuyến thượng thận tuy nhỏ nhưng mang tính
chất sinh mạng.
Trên động vật thực nghiệm, nếu nạo bỏ hai
tuỷ thượng thận, con vật sẽ rối loạn huyết áp nhưng
sau một thời gian trở về bình thường, ngược lại nếu
cắt bỏ hai phần vỏ con vật sẽ chết trong vài ngày
đến vài tuần do rối loạn điện giải và stress.
Hình 5 : Các lớp vỏ thượng thận
4.2. Các hormon vỏ thượng thận
Hormon vỏ thượng thận có nguồn gốc từ cholesterol tạo thành các steroid. Cholesterol
qua các giai đoạn, hình thành 3 loại :
150
- Glucocorticoid (Gc) : Cortisol, corticosterone
- Mineralocorticoid (Gm) : Aldosteron, 11-desoxycorticosterone
- Nhóm hormon sinh dục : Androgen, estrogen (vết)
Khoảng 30 loại steroid khác nhau được phân lập từ vỏ thượng thận, nhưng chỉ có 2 hormon
có chức năng quan trọng là cortisol và aldosteron. Tất cả hormon vỏ thượng thận được tổng hợp từ
những mẫu acetat theo con đường cholesterol (sơ đồ 2)
Acetat
Cholesterol
Pregnenolon
Dehydroepiandrosteron
Progesteron 17-OH Pregnenolon
11 deoxycorticosteron 17-OH Progesteron Testosteron
21β hydroxylase
21β hydroxylase
Estradiol
Aldosteron Cortisol
Sơ đồ 2 : Sinh tổng hợp hormon vỏ thượng thận
Trong máu 94% cortisol ở dạng kết hợp, chủ yếu gắn với globulin, được gọi là
transcortin. 50% aldosteron ở dạng kết hợp lỏng lẻo với protein huyết tương.
Ở mô đích, cortisol tác dụng và bị phá huỷ trong vòng 1-2 giờ còn aldosteron thì trong
khoảng 30 phút. Các hormon vỏ thượng thận bị phá huỷ ở gan, 25% thải qua đường mật và
75% theo đường thận.
Nồng độ cortisol bình thường khoảng 12 (g/dl, bài tiết mỗi ngày 15-20 mg. Nồng độ
aldosteron khoảng 6 ng/dl, bài tiết 150-250 (g/ngày.
4.2.1. Nhóm Glucocorticoid (Gc)
95%là do hoạt động của cortisol (hydrocortisone*)
- Tác dụng
+ Tác dụng trên chuyển hóa:
• Glucid: tăng tạo đường mới ở gan; giảm sử dụng glucose ở tế bào; làm tăng glucose
máu, có thể gây đái đường, tương tự đái đường yên.
• Protein: tăng thoái hóa protein ở hầu hết tế bào cơ thể, trừ tế bào gan. Tăng chuyển
acid amin vào tế bào gan, tăng tổng hợp protein ở gan, tăng chuyển acid amin thành glucose.
Tăng nồng độ acid amin, làm giảm vận chuyển acid amin vào tế bào trừ gan.
151
• Lipid: tăng thoái hóa lipid ở mô mỡ gây tăng nồng độ acid béo tự do huyết tương và
tăng sử dụng để cho năng lượng; tăng oxid hóa acid béo ở mô.
+ Tác dụng chống stress: khi bị stress, cơ thể lập tức tăng lượng ACTH, sau vài phút,
một lượng lớn cortisol được bài tiết bởi vỏ thượng thận, có thể tăng đến 300mg/24giờ.
Có lẽ do cortísol huy động nhanh acid amin và mỡ dự trữ, cung cấp năng lượng cho tố
chức; đồng thời các acid amin này được dùng để tổng hợp các chất cần duy trì cho sự sống tế
bào như purines, pyrimidines và creatine phosphate.
+ Tác dụng chống viêm: cortísol làm giảm tất cả các giai đoạn của quá trình viêm, đặc
biệt ở liều cao, tác dụng này được sử dụng trên lâm sàng.
Do cortisol làm ổn định màng lysosom trong tế bào và ức chế men phospholipaza A2,
ngăn cản hình thành các chất gây viêm như leukotrien, prostaglandins, đây là hai chất gây dãn
mạch, tăng nhiệt độ, tăng tính thấm mao mạch trong các phản ứng viêm.
+ Tác dụng chống dị ứng: cortisol ức chế sự giải phóng histamin trong các phản ứng
kháng nguyên-kháng thể, do đó làm giảm hiện tượng dị ứng.
+ Tác dụng lên tế bào máu: làm giảm số lượng bạch cầu ưa acid, bạch cầu lympho,
giảm kích thước hạch và tuyến ức.
+ Tác dụng lên hệ thống miễn dịch: gây giảm kháng thể, do đó sử dụng cortisol dài
ngày dễ nhiễm khuẩn, nhưng được dùng để ngăn sự loại bỏ mảnh ghép.
+ Tác dụng lên các tuyến nội tiết khác: nồng độ cortisol tăng cao sẽ giảm chuyển T4
thành T3 và tăng chuyển T3 thành T4, làm giảm nồng độ hormon sinh dục.
+ Tác dụng khác: tăng bài tiết dịch vị nên nếu dùng cortisol kéo dài có thể gây loét dạ
dày, đối với hệ xương, có thể ức chế hình thành xương, giảm tăng sinh tế bào, giảm lắng đọng
tổng hợp protein của xương.
- Điều hòa bài tiết
Cortisol được điều hòa bởi ACTH của tiền yên theo cơ chế điều hoà ngược. Nhịp bài
tiết cortisol tương ứng với nhịp bài tiết ACTH.
4.2.2. Nhóm Mineralocorticoid (Gm) Aldosteron là hormon chủ yếu của nhóm này
- Tác dụng
+ Tăng tái hấp thu ion Na và tăng bài tiết ion K, Cl ở ống thận, kéo theo sự tái hấp thu
nước (chủ yếu qua trung gian ADH), gây tăng thể tích ngoại bào.
Nồng độ aldosteron tăng cao có thể làm tăng thể tích dịch ngoại bào lên từ 5-15% và
dẫn đến tăng huyết áp động mạch lên 15-25%.
Ngược lại, sự giảm aldosteron gây mất natri, giảm thể tích dịch ngoại bào, đồng thời
tăng ion K+ có thể gây độc cơ tim.
+ Tác dụng tương tự như trên xảy ra ở tuyến nước bọt, tuyến mồ hôi.
Tác dụng này đặc biệt quan trọng khi cơ thể hoạt động trong môi trường nóng, nhờ
aldosteron mà việc mất muối qua da theo mồ hôi sẽ giảm bớt.
- Điều hòa bài tiết
Liên quan với chuyển hóa natri, khi natri máu cao, thì sẽ giảm aldosteron máu, natri
được bài tiết ra ngoài, và ngược laiû.
Nồng độ K+ cao trong dịch ngoại bào sẽ làm tăng tiết aldosteron.
152
Bên cạnh đó sự điều hòa còn thông qua hệ thống Renin-angiotensin-aldosteron
4.2.3. Nhóm hormon sinh dục
Hoạt tính sinh dục của androgen vỏ thượng thận rất ít, chỉ rõ khi có sự bài tiết gia tăng
bệnh lý.
4.3. Các hormon tủy thượng thận
Tuy thæång tháûn Catecholamin (noradrenalin va
Tuy thæång thán alin)
adren
Tuy säng
Tiãön hach
Dáy giao cam
Hình 6 : Thần kinh giao cảm chi phối tủy thượng thận chỉ có sợi tiền hạch, các
catecholamin được giải phóng vào máu như những hormon
Tủy thượng thận được xem là một hạch giao cảm khổng lồ bài tiết catecholamine, đáp
ứng với những xung động thần kinh dọc sợi tiền hạch giao cảm đến tủy thượng thận, gây tăng
hoạt tính của hệ thần kinh giao cảm (hình 6).
Epinephrin, norepinephrin và dopamin được gọi là các catecholamin. Bình thường trong
máu có 80% là epinephrin và 20% là norepinephrin.
4.3.2. Tác dụng
Tác dụng của epinephrin, norepinephrin giống như tác dụng của hệ thần kinh giao cảm
nhưng thời gian tác dụng kéo dài hơn. Tác dụng rõ nhất của catecholamin là tác dụng lên tim
mạch và huyết áp.
- Ở các cơ quan trong cơ thể đều có chất tiếp nhận norepinephrin và epinephrin. Các
receptor này được chia làm 2 loại ( và (; ( receptor lại chia thành ( 1 và ( 2 , còn ( thì có ( 1
và ( 2. Epinephrin gắn cả ( và (, norepinephrin gắn chủ yếu với ( receptor. Tác dụng của hai
hormon này trên tế bào đích phụ thuộc loại receptor có ở mô đích.
- Epinephrin làm tim đập nhanh, tăng lực co bóp; trên mạch máu thì gây co mạch dưới
da, dãn mạch vành, mạch não và cơ, gây tăng huyết áp tối đa, tối thiểu giảm nhẹ.
-Norepinephrin tác dụng giống epinephrin nhưng trên mạch máu thì mạnh hơn, tăng
huyết áp tối đa lẫn tối thiểu do co mạch toàn thân, các tác dụng khác cũng yếu hơn.
Các catecholamin làm tăng chuyển hoá cơ thể, tăng tiêu thụ oxy và tăng sinh nhiệt; tăng
phân giải glycogen thành glucose do đó làm tăng glucose máu.
4.3.3. Điều hòa bài tiết
Phần lớn tác động sinh lý trên sự bài tiết hormon tủy thượng thận thông qua hệ thần
kinh. Trong những điều kiện cơ sở, sự bài tiết catecholamin là thấp. Sự bài tiết tăng là một
phần hoạt động giao cảm trong tình trạng như stress, hạ đường huyết, lạnh, hạ huyết áp...
Ở người bình thường, tuỷ thượng thận bài tiết epinephrin 0,2 (g/kg/phút và
norepinephrin là 0,05 (g/kg/phút, do đó có thể duy trì huyết áp bình thường trong điều kiện
153
cắt đứt toàn bộ thần kinh giao cảm. Nồng độ epinephrin là 170-520 pmol/l và norepinephrin là
0,3-28 nmol/l ở người Việt Nam 18-22 tuổi.
4.4. Các rối loạn chức năng thượng thận
4.4.1. Nhược năng vỏ thượng thận
- Cấp tính (suy thượng thận cấp): gặp trong nhiễm trùng huyết, ngừng corticoid đột ngột
trong điều trị dài ngày.
- Mãn tính (Bệnh Addison: bệnh da đen): do bệnh lý tự miễn hoặc do lao thượng thận hay
u chèn ép. Biểu hiện giảm bài tiết cortisol, aldosteron, rối loạn sắc tố da niêm mạc.
4.4.2. Ưu năng vỏ thượng thận
- Hội chứng Cushing: do thừa Gc, nguyên nhân u vỏ thượng thận, hoặc u tế bào tiết
ACTH tuyến yên. Bệnh nhân béo, mặt tròn, tay chân gầy, có những vết rạn đỏ ở bụng, rối
loạn phân bố mỡ. Đường huyết tăng, rối loạn chuyển hóa muối và nước, ứ đọng Na+, mất K+,
làm cho cơ thể yếu nhưng huyết áp lại tăng.
Hội chứng này có thể do lạm dụng Gc trong điều trị.
Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ và cho hormon thay thế.
- Hội chứng Conn: u lớp cầu vỏï thượng thận, còn gọi là hội chứng cường aldosteron
tiên phát, biểu hiện mất K+, tăng huyết áp, dần đưa đến bệnh thận giảm K+ (hypokalemic
nephropathy) với đái nhiều, yếu cơ, kiềm chuyển hóa.
4.4.3. Hội chứng thượng thận-sinh dục(Adrenogenital syndrome)
Ở nam, phát triển nhanh, dậy thì sớm; ở nữ, nam hóa, bộ phận sinh dục teo, mất kinh.
Nguyên nhân do thiếu 21-(-Hydroxylase làm sự tổng hợp lệch hướng hoặc do khối u tăng sản
xuất androgen.
4.4.4. Cường tủy thượng thận
Bệnh Pheochromocytoma, do u tế bào ưa crom của tủy thượng thận, bài tiết nhiều
catecholamine, gây tăng huyết áp từng cơn. Tuy là u lành tính nhưng nếu không phẫu thuật
bệnh nhân có thể chết vì tăng huyết áp và suy tim.
5.Tuyến tuỵ nội tiết
5.1. Nhắc lại giải phẫu và tổ chức học
Tụy nằm trong khung tá tràng, sau dạ dày. Trọng lượng 70-80g. Dài 10-18cm, cao 6cm,
dày 1-3cm. Tụy nội tiết gồm những đảo Langerhans (gồm từ 1-2 triệu đảo), là những tế bào tụ
thành từng đám, chiếm 1g tổ chức tụy, thường ở gần mạch máu, đổ vào tĩnh mạch cửa. Thần
kinh tụy là một nhánh của dây X.