Chương 1: Những vấn đề chung về Kinh tế học
Trong nền kinh tế hiện đại, các nhà sản xuất – kinh doanh luôn quan tâm đến ba vấn đề cơ bản trong cuộc sống hàng ngày của con người, đó là: tạo ra hàng hóa – dịch vụ nào, tạo ra hàng hóa – dịch vụ đó bằng cách nào và tạo ra hàng hóa – dịch vụ đó cho ai?
Phần I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KINH TẾ HỌC
KHÁI NIỆM VỀ KINH TẾ HỌC
I.
Trong nền kinh tế hiện đại, các nhà sản xuất –
kinh doanh luôn quan tâm đến ba vấn đề cơ bản trong
cuộc sống hàng ngày của con người, đó là: tạo ra hàng
hóa – dịch vụ nào, tạo ra hàng hóa – dịch vụ đó bằng
cách nào và tạo ra hàng hóa – dịch vụ đó cho ai?
Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu nhấn
mạnh vai trò của xã hội trong việc giải quyết 3 vấn
đề: Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất
cho ai? Nên Kinh tế học được coi là một trong các môn
khoa học xã hội, nó chuyên nghiên cứu và giải thích
hành vi của con người. Đối tượng nghiên cứu của kinh
tế học là hành vi của con người liên quan đến sản
xuất, trao đổi và tiêu thụ hàng hóa – dịch vụ. Trong xã
hội vấn đề trung tâm của kinh tế là luôn làm thế nào
để đẻ dung hòa mâu thuẩn giữa sự ham muốn vô hạn
của con người đối với hàng hóa – dịch vụ với sự khan
hiếm các nguồn lực cần thiết để tạo ra hàng hóa – dịch
vụ đó. Khi trả lời câu hỏi sản xuất cái gì, sản xuất như
thế nào và sản xuất cho ai cũng có nghĩa là kinh tế học
đã chỉ ra được cách phân bố có hiệu quả các nguồn lực
khan hiếm ấy.
Trãi qua hơn hai thế kỷ hình thành và phát triển,
các nhà kinh tế học đã hướng vào mục tiêu phát triển
lý thuyết về hành vi con người và lý thuyết ấy luôn
được kiểm nghiệm bằng thực tiễn. Vì xã hội trãi qua
nhiều giai đoạn phát triển khác nhau nên đã xuất hiện
nhiều định nghĩa về kinh tế học. Nhưng nhìn chung
cho đến nay các nhà kinh tế học đã nhất trí định nghĩa
kinh tế học như sau:
Kinh tế học là khoa học nghiên cứu vấn đề con
người và xã hội lựa chọn như thế nào để sử dụng
các nguồn tài nguyên khan hiếm trong việc tạo ra
hàng hóa – dịch vụ và phân phối cho người tiêu
dùng trong hiện tại cũng như trong tương lại có
hiệu quả.
II. KINH TẾ HỌC THỰC CHỨNG VÀ KINH TẾ
HỌC CHUẨN TẮC
Vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
nghiên cứu kinh tế học là phân biệt hai nhánh của môn
học này. Đó là, nhánh thứ nhất là Kinh tế học thực
chứng và nhánh thứ hai là kinh tế học chuẩn tắc.
1. Kinh tế học thực chứng
Kinh tế học thực chứng mô tả những sự kiện,
hoàn cảnh và các mối quan hệ trong nền kinh tế một
cách khoa học. Đó là:
- Hiện tại tỷ lệ thất nghiệp là bao nhiêu?
- Mức thất nghiệp cao sẽ ảnh hưởng đến lạm phát
như thế nào?
Mục đích của kinh tế học thực chứng là tìm cách
giải thích cho được xã hội quyết định sản xuất, tiêu
thụ và trao đổi hành hóa – dịch vụ như thế nào. Sự giải
thích như vậy nhằm 2 mục đích:
- Cho ta biết tại sao nền kinh tế lại hoạt động như nó
đang hoạt động.
- Và đó cũng là cơ sở để dự đoán nền kinh tế sẽ thay đổi như
thế nào trong những thay đổi của hoàn cảnh.
2. Kinh tế học chuẩn tắc
Kinh tế học chuẩn tắc đưa ra các chỉ dẫn hoặc các
khuyến nghị dựa trên những đánh giá theo tiêu chuẩn của cá
nhân.
Vì vậy, kinh tế học chuẩn tắc liên quan đến đạo lý và
đánh giá về giá trị như:
- Lạm phát cao đến mức nào có thể chấp nhận được?
- Có nên dùng thuế để lấy của người giàu giúp người
nghèo không?
- Chi tiêu quốc phòng có nên tăng 3,5 hoặc 10% một
năm không?
Đó là những vấn đề có liên quan đến những ý kiến chủ
quan.
Xét theo khía cạnh khoa học thì kinh tế học hoàn toàn
thực chứng. Vì nó trả lời câu hỏi: “Thực tế như thế nào?”.
Thế nhưng, những vấn đề chuẩn tắc trong đời sống chính trị
thường đặt ra câu hỏi: “Phải làm cái gì?” cũng đòi hỏi sự
phân tích kinh tế.
Với một mục tiêu xã hội cho trước, các nhà kinh tế có
thể sử dụng kiến thức để phân tích vấn đề và khuyến nghị
cách thức cần phải làm để đạt được mục tiêu đó.
Các nhà kinh tế có thể bất hòa với nhau trên các vấn đề
chính sách, bởi vì họ theo đuổi các mục tiêu khác nhau.
- Người này thì chú trọng công bằng xã hội.
- Người khác quan tâm đến tự do kinh doanh nhiều hơn
…
Thế nhưng, sự bất đồng giữa các nhà kinh tế thường là
về ý nghĩa hơn là về mục tiêu, về làm như thế nào hơn là về
làm cái gì?
Sự tiến bộ khoa học trong kinh tế thực chứng có khuynh
hướng làm giảm nguồn gốc của sự bất đồng này.
i. CÁC YẾU TỐ CỦA HỆ THỐNG KINH TẾ
1. Các đầu mối quyết định trong nền kinh tế
Có 3 đầu mối ra quyết định chủ yếu: Cá nhân (hộ
gia đình), doanh nghiệp và chính phủ; đó là những đơn
vị cơ sở của các hệ thống xã hội.
Cá nhân (hộ gia đình) là đơn vị tiêu dùng hiện
-
hữu, ở đây cá nhân cần được hiểu là người ra quyết
định cho cả gia đình.
- Doanh nghiệp là một đơn vị nhân tạo; rốt cuộc
nó cũng do một cá nhân nào đó sở hữu hoặc hoạt động
vì lợi ích của anh ta. Doanh nghiệp như là một tập hợp
các cá nhân vì mục đích sản xuất, tức là sự biến đổi
các yếu tố đầu vào thành các hàng hóa có nhu cầu ở
đầu ra
- Chính phủ là những hợp thế nhân tạo, nhưng
khác với các doanh nghiệp, Chính phủ có quyền hợp
pháp chiếm hữu tài sản mà không cần có sự đồng ý
(chẳng hạn như khi đánh thuế). Xét quan điểm kinh tế
thì các Chính phủ tạo ra những hàng hóa và dịch vụ
khác nhau về yêu cầu chính trị xã hội hơn là yêu cầu
thị trường. Việc các Chính phủ thiết lập khuôn khổ
pháp lý phục vụ hoạt động kinh tế còn quan trọng hơn
nữa.
Ngày nay, trong nền kinh tế hiện đại còn có thêm
các đầu mối ra quyết định như các đoàn thể chính trị -
xã hội, hội nghề nghiệp, các tổ chức tôn giáo… thông
qua đó các cá nhân kết hợp lại với nhau để lựa chọn
cách tiêu dùng cụ thể.
2. Sự khan hiếm, đối tượng lựa chọn và hoạt động
kinh tế
Nguồn để giải quyết các vấn đề kinh tế là có hạn.
Con người luôn muốn có nhiều hơn cái họ có thể có.
Do vậy, sự khan hiêm buộc chúng ta phải có các quyết
định kinh tế, đó là những cái giúp ta sản xuất – kinh
doanh để đạt được những hàng hóa ta có nhu cầu.
Tiêu dùng là một trong những hoạt động kinh tế cơ
bản. Trong quyết định tiêu dùng các cá nhân lựa chọn
các vật dụng họ yêu thích nhất (thu nhập của họ và giá
cả hàng hóa là yếu tố cho trước). Chúng ta nói rằng
vật dụng là đối tượng lựa chọn đối với quyết định tiêu
dùng
Sản xuất của từng cá nhân hay doanh nghiệp là
hoạt động kinh tế cơ bản tiếp theo. Chúng ta thường
nghĩ sản xuất là sự biến đổi các đầu vào thành các đầu
ra, chuyển đổi các nguồn lực thành vật dụng tiêu dùng.
Nói một cách cơ bản hơn thì sản xuất bất kỳ hoạt
động nào phụ thêm vào tổng thể xã hội của một số vật
dụng. Sản xuất có thể làm thay đổi hình dạng vật
chất, có thể là chuyển dịch hàng hóa về địa điểm hoặc
là chuyển dịch về mặt thời gian. Sản xuất có thể đại
diện biến một hình thể từ có nhu cầu thành có nhiều
nhu cầu.
Hoạt động kinh tế kinh tế cơ bản thứ 3 là trao đổi.
Đối với cá nhân, trao đổi cũng là một loại biến đổi,
việc mua bán một cái này để lấy cái khác. Những theo
quan điểm xã hội, trao đổi khác với sản xuất là ở chổ
toàn bộ hàng hóa không bị thay đổi gì; hàng hóa và dịch
vụ bị sáo trộn trong thương mại nhưng đâu đó một
người có ít hơn thì người khác có nhiều hơn. Như vậy
trao đổi là một loại chuyển dịch. Nhưng đó là sự
chuyển giao lẫn nhau và tự nguyện, các bên có liên
quan đều phải thỏa mãn hoặc bỏ đi trao đổi khác.
ii. ĐƯỜNG GIỚI HẠN KHẢ NĂNG SẢN XUẤT (PPF)
1. Khái niệm
Nhæ ta âaî biãút, sæû khan hiãúm cuía nguäön taìi
nguyãn laìm haûn chãú säú læåüng caïc loaûi haìng hoïa
âæåüc saín xuáút ra. Våïi säú læåüng nguäön taìi nguyãn
coï haûn, âãø tàng thãm säú læåüng cuía mäüt loaûi
haìng hoïa naìo âoï thç phaíi giaím säú læåüng cuía mäüt
(hay nhiãöu) loaûi haìng hoïa khaïc, nãúu caïc yãúu täú
khaïc khäng âäøi. Âãø biãøu thë âiãöu naìy, caïc nhaì
kinh tãú duìng khaïi niãûm âæåìng giåïi haûn khaí nàng
saín xuáút. Âæåìng giåïi haûn khaí nàng saín xuáút cho
biãút caïc kãút håüp täúi âa vãö màût säú læåüng cuía hai
(hay nhiãöu loaûi haìng hoïa) coï thãø âæåüc saín xuáút
tæì mäüt säú læåüng taìi nguyãn nháút âënh (khan
hiãúm). Tæì âënh nghéa naìy, ta coï thãø tháúy âæåìng
giåïi haûn khaí nàng saín xuáút biãøu thë sæû khan hiãúm
cuía nguäön taìi nguyãn. Âæåìng giåïi haûn khaí nàng
saín xuáút cuîng biãøu thë sæû âaïnh âäøi maì con
ngæåìi gàûp phaíi. Ta seî nghiãn cæïu caïc váún âãö naìy
åí pháön tiãúp theo.
Âãø cho âån giaín, giaí sæí mäüt nãön kinh tãú coï
nguäön taìi nguyãn trë giaï 4 âån vë tiãön (âvt) vaì säú
tiãön naìy âæåüc sæí duûng hãút âãø saín xuáút ra hai
loaûi haìng hoïa thiãút yãúu cho âåìi säúng laì læång
thæûc vaì vaíi. Säú liãûu (giaí âënh) vãö khaí nàng saín
xuáút cuía nãön kinh tãú naìy âæåüc trçnh baìy trong
Baíng 1.1. Baíng 1.1 cho tháúy nãúu sæí duûng toaìn bäü
säú tiãön (laì 4 âån vë) âãø saín xuáút læång thæûc thç
seî saín xuáút âæåüc 25 âån vë læång thæûc vaì khäng
coï âån vë vaíi naìo âæåüc saín xuáút (Phæång aïn A).
Nãúu sæí duûng 3 âvt âãø saín xuáút læång thæûc vaì 1
âvt âãø saín xuáút vaíi thç seî coï 22 âån vë læång thæûc
vaì 9 âån vë vaíi (Phæång aïn B). Láön læåüt ta coï caïc
phæång aïn C, D, vaì E. Âáy laì nàm trong vä säú phæång
aïn coï thãø âæåüc hçnh thaình doüc theo âæåìng giåïi
haûn khaí nàng saín xuáút. Ta coï thãø dãù daìng nháûn
tháúy laì khi säú læåüng vaíi tàng lãn (nhåì vaìo viãûc sæí
duûng nhiãöu tiãön hån) thç säú læåüng læång thæûc seî
giaím âi (do säú tiãön âæåüc sæí duûng âãø saín xuáút
læång thæûc bë giaím âi).
Baíng 1.1: Khaí nàng saín xuáút cuía nãön kinh tãú
Phæån Læång thæûc Vaíi
g aïn
saín Säú âvt Saín Säú âvt Saín
xuáút sæí læåüng sæí læåüng
duûng (âån vë duûng (âån vë
læång vaíi)
thæûc)
A 4 25 0 0
B 3 22 1 9
C 2 17 2 17
D 1 10 3 24
E 0 0 4 30
Dæûa vaìo säú liãûu trong Baíng 1.1, ta coï thãø veî
nãn mäüt âæåìng âæåüc goüi laì âæåìng giåïi haûn khaí
nàng saín xuáút nhæ trong Âäö thë 1.1. Caïc âiãøm A, B,
C, D, vaì E trãn Âäö thë 1.1 tæång æïng våïi caïc Phæång
aïn A, B, C, D, vaì E trong Baíng 1.1. Caïc âiãøm naìy
mäüt láön næîa biãøu thë quy luáût âaïnh âäøi giæîa säú
læåüng cuía hai hay nhiãöu loaûi haìng hoïa khi nguäön
taìi nguyãn (vaì caïc yãúu täú khaïc) laì khäng âäøi.
Täøng quaït, âæåìng giåïi haûn khaí nàng saín xuáút
cho biãút saín læåüng täúi âa cuía hai (hay nhiãöu) saín
pháøm coï thãø saín xuáút âæåüc våïi mäüt säú læåüng
taìi nguyãn nháút âënh. Âãø veî nãn mäüt âæåìng giåïi
haûn khaí nàng saín xuáút nháút âënh, caïc nhaì kinh tãú
dæûa vaìo hai giaí âënh laì: (i) säú læåüng taìi nguyãn
(lao âäüng, väún, âáút âai, v.v.) laì cäú âënh vaì âæåüc
phán bäø hãút cho caïc loaûi saín pháøm cáön saín xuáút
ra vaì (ii) kyî thuáût saín xuáút laì cäú âënh. Nãúu caïc
yãúu täú naìy thay âäøi thç âæåìng giåïi haûn khaí nàng
saín xuáút seî thay âäø theo, nhæ trçnh baìy trong pháön
sau.
Læång thæûc (Y)
A
25
B
22
C
17
D
10
E
Vaíi (X)
24 30
17
9
Âäö thë 1.1. Âæåìng giåïi haûn khaí nàng saín xuáút
(ppf)
Våïi giaí âënh nhæ váûy, nãön kinh tãú chè coï thãø
saín xuáút åí nhæîng âiãøm nàòm åí trong hay ngay trãn
âæåìng giåïi haûn khaí nàng saín xuáút vç nguäön taìi
nguyãn khäng âuí âãø nãön kinh tãú âaût âãún báút kyì
âiãøm naìo nàòm åí bãn ngoaìi âæåìng naìy. Nãúu saín
xuáút åí nhæîng âiãøm nàòm åí phêa trong âæåìng naìy
thç nãön kinh tãú chæa khai thaïc hãút nguäön taìi nguyãn
cuía mçnh nãn caïc nhaì kinh tãú êt âãö cáûp âãún
træåìng håüp naìy. Do âoï, chè nhæîng âiãøm nàòm trãn
âæåìng giåïi haûn khaí nàng saín xuáút måïi âæåüc âãö
cáûp âãún.
Thæûc tãú cho tháúy ràòng säú læåüng taìi nguyãn
(nhæ lao âäüng chàóng haûn) phán bäø cho mäùi ngaình
caìng nhiãöu caìng taûo ra nhiãöu saín pháøm, nhæng
nàng suáút biãn cuía chuïng - âoï laì säú læåüng saín
pháøm laìm ra thãm tênh trãn mäùi âån vë taìi nguyãn
âæåüc sæí duûng thãm - caìng vãö sau caìng giaím.
Hiãûn tæåüng naìy âæåüc âuïc kãút bàòng quy luáût kãút
quaí biãn giaím dáön. Quy luáût naìy phaín aïnh mäüt
thæûc tãú laì seî tråí nãn khoï khàn hån khi thæûc hiãûn
mäüt hoaût âäüng naìo âoï åí mæïc âäü cao hån. Thê
duû, khi laïi xe tháût cháûm, ta coï thãø dãù daìng tàng
täúc âäü lãn thãm, chàóng haûn, 10 km/giåì nhæng khi
âaî laïi xe tháût nhanh thç viãûc tàng täúc âäü lãn thãm
10km/giåì seî ráút khoï âaût âæåüc. Quy luáût naìy phäø
biãún trong lénh væûc kinh tãú - xaî häüi cuîng nhæ tæû
nhiãn. Trong lénh væûc kinh tãú, ta coï thãø cuû thãø hoïa
quy luáût naìy nhæ sau: viãûc måí räüng saín xuáút báút
kyì mäüt haìng hoïa naìo âoï thç seî caìng luïc caìng khoï
hån vaì täún keïm hån; viãûc laìm tàng mæïc âäü thoía
maîn cuía ta âäúi våïi mäüt loaûi haìng hoïa naìo âoï seî
caìng luïc caìng khoï khàn hån khi tiãu duìng noï caìng
nhiãöu hån. Ta coï thãø tçm hiãøu kyî hån váún âãö naìy
thäng qua khaïi niãûm chi phê cå häüi âæåüc trçnh baìy
trong pháön tiãúp theo.
2 Sự di chuyển dọc và sự dịch chuyển của đường PPF
2.1 Sæû di chuyãøn doüc theo âæåìng giåïi haûn khaí
nàng saín xuáút
ÅÍ Âäö thë 1.1, taûi mäüt thåìi âiãøm nháút
âënh ta coï thãø choün phæång aïn A, B, C, D hay E
âãø saín xuáút. Khi chuyãøn tæì phæång aïn naìy
sang phæång aïn kia thç säú læåüng haìng hoïa
âæåüc saín xuáút ra cuîng thay âäøi theo. Muäún
tàng säú læåüng saín pháøm naìy lãn ta phaíi giaím
säú læåüng haìng hoïa kia xuäúng. Khi âoï, ta coï
sæû di chuyãøn doüc theo âæåìng giåïi haûn khaí
nàng saín xuáút. Vaìo mäüt thåìi âiãøm naìo âoï, khi
choün saín xuáút ra mäüt säú læåüng nháút âënh
caïc loaûi haìng hoïa cuía nãön kinh tãú nghéa laì ta
choün mäüt trong caïc táûp håüp nãu trãn.
2.2 Sæû dëch chuyãøn cuía âæåìng giåïi haûn khaí
nàng saín xuáút
Giaí sæí trong tæång lai, do tiãún bäü cäng nghãû, do
nàng suáút lao âäüng tàng lãn, v.v. mäüt quäúc gia coï
thãø saín xuáút nhiãöu hån våïi cuìng mäüt säú læåüng
taìi nguyãn. Khi âoï, âæåìng giåïi haûn khaí nàng saín
xuáút seî dëch chuyãøn ra ngoaìi. Âæåìng giåïi haûn khaí
nàng saín xuáút cuîng coï thãø dëch chuyãøn khi nguäön
taìi nguyãn âæåüc sæí duûng vaìo saín xuáút tàng lãn.
Khi âoï ta coï hiãûn tæåüng dëch chuyãøn cuía âæåìng
giåïi haûn khaí nàng saín xuáút. Træåìng håüp naìy
âæåüc minh hoüa trong Âäö thë 1.2. Træåìng håüp täøng
quaït cuía sæû dëch chuyãøn cuía âæåìng giåïi haûn khaí
nàng saín xuáút âæåüc minh hoüa båíi Âäö thë 1.2.
Træåìng håüp tiãún bäü cäng nghãû chè liãn quan âãún
saín xuáút vaíi âæåüc minh hoüa båíi Âäö thë 1.3.
Trong Âäö thë 1.3, säú læåüng taìi nguyãn duìng âãø
saín xuáút ra cuìng mäüt säú læåüng vaíi (chàóng haûn,
XA) seî êt âi vaì nhæ thãú säú læåüng taìi nguyãn däi ra
seî âæåüc sæí duûng âãø saín xuáút thãm læång thæûc.
Nhæ váûy, säú læåüng thæûc tàng lãn tæì YA thaình YA’.
Nãúu giæî nguyãn säú læåüng læång thæûc (chàóng
haûn, YA) thç do tiãún bäü cuía cäng nghãû saín xuáút vaíi
nãn våïi cuìng säú læåüng taìi nguyãn ta coï thãø saín
xuáút nhiãöu vaíi hån. Do váûy, säú læåüng vaíi tàng lãn
tæì XA thaình XA’’.
Læång thæûc (Y)
Sæû dëch chuyãøn cuía âæåìng giåïi haûn khaí nàng saín
xuáút
Sæû di chuyãøn doüc theo âæåìng
25
giåïi haûn khaí nàng saín xuáút
A
17
C
D
10
E
Vaíi (X)
17 24 30
9
Âäö thë 1.2: Sự dịch chuyển dọc theo đường gới hạn khả
năng sản xuất và sự dịch chuyển của đường gới hạn khả
năng sản xuất
Læång thæûc (Y)
Sæû dëch chuyãøn cuía âæåìng
giåïi haûn khaí nàng saín xuáút do
A’
YA’
A’’ tiãún bäü trong kyî thuáût saín
xuáút vaíi
YA
A
Vaíi (X)
XA XA’’
Âäö thë 1.3: Sæû dëch chuyãøn cuía âæåìng giới hạn
khả năng sản xuất
do tiãún bäü trong kyî thuáût saín xuáút vaíi
iii. BA VẤN ĐỀ CƠ BẢN VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ
TRƯỜNG
1. Ba vấn đề cơ bản của một nền kinh tế
Mọi xã hội điều phải tìm cách để đối phó với 3 vấn đề
kinh tế cơ bản và phụ thuộc lẫn nhau:
- Nên sản xuất những hàng hóa gì và với số lượng bao nhiêu?
Nghĩa là phải sản xuất ra bao nhiêu và sản xuất mặt hàng và
dịch vụ để thay thế nhau? Và bao giờ thì sản xuất? Chúng ta
nên sản xuất nhiều lương thực và ít vải vóc hoặc ngược lại?
- Hàng hóa cần được sản xuất như thế nào? Nghĩa là hàng
hóa cần sản xuất ra với những tài nguyên nào? Với hình thức
công nghệ nào? Sản xuất điện bằng dầu hỏa, than đá, bằng
thác nước, nguyên tử hay bằng năng lượng mặt trời…? Sản
xuất thủ công hay là sản xuất đồng loạt? Sản xuất trong các
Doanh nghiệp Nhà nước hay trong các doanh nghiệp tư nhân?
Nếu bằng tất cả các nguồn này thì mỗi thứ sẽ sản xuất với
số lượng bao nhiều?
- Hàng hóa được sản xuất ra cho ai? Nghĩa là ai sẽ được
hưởng và được lợi từ những hàng hóa – dịch vụ của đất
nước? Hay nói cách khác, hay nói cách khác sản phẩm quốc
dân sẽ được chia cho các cá nhân và gia đình như thế nào?
Ba vấn đề trên là ba vấn đề cơ bản và chung cho mọi
nền kinh tế, nhưng các hệ thống kinh tế khác nhau có những
cách giải quyết khác nhau. Nền kinh tế thế gới đã có 3 loại
hình kinh tế: kinh tế mệnh lệnh, kinh tế thị trường tự do và
kinh tế hỗn hợp.
Nền kinh tế mệnh lệnh hay nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung bao cấp là một xã hội mà ở đó Chính phủ đề ra một
quyết định và tiêu thụ. Cơ quan kế hoạch của Chính phủ
quyết định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất
cho ai. Sau đó có hướng dẫn để tất cả các cá nhân va tổ chức
trong xã hội tuân thủ.
Nền kinh tế thị trường tự do là nền kinh tế Chính phủ
không can thiệp vào sản xuất và tiêu thụ hàng hóa – dịch vụ
(thị trường tự điều tiết –“bàn tay vô hình”). Các cá nhân trên
thị trường, tùy khả năng của mình tự do theo đuổi quyền lợi
của mình bằng cách cố gắng làm càng nhiều cho mình càng
tốt, Chính phủ không giúp đỡ hoặc can thiệp vào. Ý tưởng
về một hệ thống như vậy có thể giải quyết các vấn đề sản
xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai là một
trong những chủ đề lâu đời nhất của kinh tế học. Thế nhưng
trên thị trường có những vấn đề mà trong đó “bàn tay vô
hình” có tác động tốt và cũng có những vấn đề mà trong đó
“bàn tay vô hình” không làm cho xã hội phân bổ các nguồn
lực một cách có hiệu quả. Lúc này sự can thiệp nào đó của
của Chính phủ có thể là sát đáng.
Thị trường tự do cho phép các cá nhân tự do theo đuổi
lợi ích riêng của mình mà không có sự khống chế nào của
Chính phủ. Kinh tế mệnh lệnh để cho tự do cá nhân một
phạm vi hạn hẹp, vì hầu hết các quyết định do Chính phủ
đưa ra từ trung ương. Giữa hai thái cực đó là khu vực kinh tế
hỗn hợp.
Trong nền kinh tế hỗn hợp, khu vực nhà nước và khu
vực tư nhân tương tác với nhau trong việc giải quyết các vấn
đề kinh tế. Nhà nước kiểm soát một phần sản lượng đáng
kể đánh thuế và kích thích tài chính của Nhà nước. Hệ thống
tư nhân thì kiểm soát thông qua sự chỉ huy vô hình của cơ
chế thị trường.
Trong một nền kinh tế hỗn hợp Nhà nước cũng có thể
đóng vai trò là người sản xuất các hàng hóa và dịch vụ mà tư
nhân chưa thể hoặc không thể sản xuất và cung cấp được.
Đa số các nước có nền kinh tế hỗn hợp, mức độ hoạt
động đáng kể của Chính phủ trong việc cung cấp hàng hóa
và dịch vụ công cộng, phân phối lại thu nhập thông qua đánh
thuế, trợ cấp và điều tiết thị trường.
2. Đầu vào và đầu ra
Các quá trình kinh tế gồm có đầu vào và đầu ra:
Đầu vào (hay một nhân tố sản xuất) là một hàng hóa
hay một dịch vụ mà các doanh nghiệp sử dụng trong quá trình
sản xuất của họ. Các đầu vào được kết hợp với nhau để sản
xuất ra các đầu ra.
Đầu ra bao gồm hàng loạt hàng hóa hoặc dịch vụ có ích
được tiêu dùng hoặc được sử dụng cho quá trình sản xuất.
Nhìn chung, đầu vào nằm trong ba nhóm: lao động, đất
đai và tài nguyên thiên nhiên,vốn và kỹ thuật.
Đất đai bao gồm đất dùng cho canh tác hay xây dựng
nhà cửa hoặc đường sá; tài nguyên thiên nhiên bao gồm nhiên
liệu như: than đá hoặc dầu lửa và các khoáng sản như cát
hoặc đồng và cây cối để lấy gỗ và làm giấy…
Lao động bao gồm thời gian của con người dùng cho
sản xuất, làm việc trong các công sở, nhà máy, đồng ruộng,
trường học…, Lao động là nhân tố không những rất quen
thuộc mà còn rất quan trọng đối với mọi nền kinh tế.
Hai nhân tố đầu vào của sản xuất là điều ai cũng biết,
nhân tố thư ba là vốn và kỹ thuật bao gồm các hàng hóa lâu
bền được nền kinh tế sản xuất ra để tiếp tục sản xuất các
hàng hóa khác. Những hàng hóa này là máy mọc, đường sá,
điện toán… Việc tích lũy các loại hàng hóa kỹ thuật cao có
vai trò thiết yếu đối với nhiệm vụ phát triển kinh tế.
3. Vai trò của thị trường
Thị trường là nơi gặp nhau của cả người bán và người
mua các hàng hóa và dịch vụ, người bán và người mua gặp
nhau trực tiếp. Trong những trường hợp khác, như thị trường
chứng khoán thì tiến hành mua bán thông qua môi giới là chủ
yếu.
Cơ chế thị trường là các quyết định lớn về giá cả và
phân phối hàng hóa được thực hiện tại thị trường.
Thị trường là sự biểu hiện thu gọn của quá trình mà
thông qua đó người mua và người bán một thứ hàng hóa tác
động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng
hóa.
Giá hàng hóa và giá các nguồn lực như lao động, máy
móc và đất đai được điều chỉnh để làm sao cho các nguồn
lực khan hiếm được sử dụng để sản xuất ra các hàng hóa và
dịch vụ phù hợp với nhu cầu của xã hội.
Trong hệ thống thị trường, cái gì cũng có giá, mỗi loại
hàng, mỗi loại dịch vụ điều có giá. Ngay cả các loại nhân lực
khác nhau cũng có giá. Cụ thể là các bậc lương và than
lương.
Nếu có một hàng hóa mà được người ta cần nhiều hơn,
thì sẽ có được nhiều đơn đặt hàng mới. Vì sẽ có nhiều khách
đén mua, người bán sẽ tăng giá để phân phối một lượng cung
hạn chế. Giá cao sẽ thúc đẩy sản xuất ra nhiều hàng hóa
hơn. Mặt khác một mặt hàng nào được bán ra với khối lượng
nhiều hơn, người ta cần mua với giá gần đây nhất trên thị
trường. Lúc đó người bán sẽ hạ giá. Vì giá hạ, người sản
xuất sẽ không sản xuất ra nhiều hàng. Như vậy sự cân bằng
giữa người mua và người bán sẽ khôi phục.
Ngày nay thị trường bao hàm: Thị trường hàng tiêu dùng,
thị trường các yếu tố sản xuất, thị trường tài chính. Đôi khi
các chức năng của thị trường được thực hiện qua trung gian –
môi gới.
Khi gộp tất cả các thị trường khác nhau lại, chúng ta có
một hệ thống thực nghiệm rộng lớn, đó là một hệ thống tạo
ra sự cân bằng giữa giá cả và sản xuất. bằng cách cân đối,
người bán và người mua trong mỗi một thị trường này, nền
kinh tế sẽ đồng thời giải quyết ba vấn đề: sản xuất hàng gì?
Sản xuất hàng hóa như thế nào? Hàng hóa sản xuất ra cho
ai?
- Sản xuất hàng gì là do người tiêu dùng bầu phiếu
bằng tiền, hàng ngày khi họ quyết định mua mặt hàng này,
chứ không phải mặt hàng kia.
Mặt khác động cơ của các doanh nghiệp là mong muốn
có lợi nhuận. Các doanh nghiệp bị lợi nhuận cao lôi cuốn vào
sản xuất những mặt hàng có mức cầu cao bỏ lại những khu
vực có lợi nhuận thấp. Như vậy chu kỳ này là một chu kỳ
khép kín.
- Sản xuất hàng hóa như thế nào được xác định bỡi
cạnh tranh giữa các nhà sản xuất. Cách duy nhất để nhà sản
xuất có thể cạnh tranh được về giá cả và tối đa hóa lợi
nhuận của mình là giảm chi phí đến mức tối thiểu bằng cách
áp dụng những phương pháp sản xuất hiệu quả nhất. Lợi
nhuận thúc đẩy người sản xuất bất cứ lúc nào, phương pháp
nào rẻ nhất cũng sẽ thay thế cho phương pháp tốn kém hơn.
- Hàng hóa sản xuất ra cho ai được xác định bởi mối
quan hệ cung cầu ở thị trường nhân tố sản xuất (đất đai, lao
động và vốn). Những thị trường này xác định mức lương,
tiền thuê đất, lãi suất và lợi nhuận, những thứ này đi vào thu
nhập của mọi người. Như vậy phân phối thu nhập trong dân
cư được xác định bởi số lượng các nhân tố có được và giá cả
các nhân tố đó.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, có những ảnh hưởng
bên ngoài thị trường xác định sự phân phối thu nhập. Tính
chất của sự phân phối này phụ thuộc rất nhiều vào việc phân
phối ban đầu về quyền sở hửu, vào khả năng bẩn sinh hoặc
khả năng có được do lao động học tập vào việc có hay không
có phân biệt nam nữ và phân biệt chủng tộc.
Nền kinh tế thị trường giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ
bản đã đạt được những thành tựu nhất định trong sự phát
triển kinh tế của xã hội loài người; nhất là ở các nước tư
bản phát triển. Như vậy thị trường là “bàn tay vô hình” dẫn
dắt đến chổ đạt được lợi ích cho mọi người.
Thế nhưng chúng ta không được quên rằng “bàn tay vô
hình” đôi khi cũng dẫn nền kinh tế đi lầm đường, lạc lối.
Nền kinh tế thị trường đôi khi cũng thất bại thị trường. Nó
có những khuyết tật không thể nào tránh khỏi. Những khuyết
tật đó là:
+ Dễ bị những đợt lạm phát
+ Thất nghiệp tái diễn
+ Phân phối thu nhập bất bình đẳng, có thể không chấp
nhận đựoc đối vơi đa số người lao động.
Để đối phó với những khuyết tật này của cơ chế “bàn
tay vô hình”, các nền kinh tế hiện đại hiện nay là sự hỗn hợp
giữa thị trường và bàn tay hữu hình đó là vai trò của Chính
phủ (thuế khóa, chi tiêu và luật lệ)
iv. VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ
Chính phủ là người đề ra luật , lệ, những chức năng
kinh tế có những tính chất đặt biệt.
Trong nền kinh tế thị trường, Chính phủ có ba chức
năng cơ bản, đó là: Hiệu quả, công bằng và ổn định.
1. Hiệu quả
Thực tế ở các nước có nền kinh tế thị trường có lúc đã
phải chịu thất bại thị trường. Ở hệ thống kinh tế cạnh tranh,
nhiều nhà sản sxuất đơn giản không biết được kỹ thuật sản
xuất rẻ nhất, nên chi phí sản xuất không hạ xuống mức tối
thiểu được. Trong thực tế một doanh nghiệp có thể có lãi
bằng cách giữ giá cao cung như bằng cách giữ mức sản xuất
cao. Thế nhưng, trong những lĩnh vực khác có rất nhiều tác
động bên ngoài như ô nhiểm môi trường, gây độc hại đối với
các doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.
Trong trường hợp này, thất bại thị trường là sản xuất
hoặc tiêu thụ không hiệu quả. Để khắc phục ở đây Chính
phủ đóng vai trò chữa bệnh.
Toàn bộ nền kinh tế là sự kết hợp các nhân tố độc
quyền và cạnh tranh. Một doanh nghiệp có thể tác động tới
giá cả sản phẩm của mình, nhưng cũng không đánh giá được
hàng hoá hoàn toàn theo ý muốn riêng mà vẫn có lãi. Doanh
nghiệp đó phải tính đến giá cả hàng hoá có thể thay thế cho
chính hàng hoá của mình.
Khi một doanh nghiệp lớn có khả năng tác động đến giá
cả ở một thị trường nào đó, thì giá cả cao hơn mức hiệu quả,
làm meo mó sản xuất và lợi nhuận. Những lợi nhuận này có
thể biến thành quảng cáo lừa đối thậm chí có thể mua ảnh
hưởng của sự bảo hộ.
Chính phủ không coi mọi hoat động của độc quyền là
tất yếu. Chính phủ ra luật chống độc quyền và luật lệ kinh
tế để tăng hiệu lực của hệ thống thị trường cạnh tranh.
Chính phủ phải sử dụng đến luật lệ điều tiết hành vi
kinh tế để ngăn chặng những tác động tiêu cực bên ngoài
như: ô nhiễm môi trường nước, không khí, khai thác cạn kiệt
nguồn tài nguyên … gây nguy hiểm cho xã hội.
Tuy không bao giờ giải quyết vấn đề tối ưu hoá về sự
can thiệp của Chính phủ. Nhưng mọi tác động gây nguy hại
bên ngoài phải được ngăn ngừa bởi bàn tay của Chính phủ.
Các hoạt động kinh tế mang lại lợi ích lớn hoặc nhỏ
cho cọng đồng dân cư,không thể giai phó cho kinh tế tư nhân
sản xuất. Như: khí tài quân sự, pháp luật, đài thọ cho giáo
dục, y tế…
Bằng việc mua hàng hoá công cộng, Chính phủ có hành
vi như bất cứ một cá nhân nào khác là phải chi tiêu tiền.
Bằng việc bỏ phiếu bằng tiền cho một số lượng hàng hoá
nào đó, Chính phủ đã làm cho tài nguyên chảy về những phía
đó.
Trên thực tế phân lơn những chi tiêu của Chính phủ
được trả bằng tiền thuế thu được. Và mỗi công dân điều
được hưởng hàng công cộng do Chính phủ cung cấp. Nhưng