Chủ nghĩa xã hội đi về đâu
Trong thế kỉ này chúng ta đã đến chỗ học được về quyền lực của các ý
tưởng kinh tế. Những quan điểm đối địch về xã hội phải được tổ chức
ra sao đã được tranh cãi không chỉ trong các phòng tranh luận của các
viện hàn lâm mà cả ở các chiến trường ở Triều Tiên, Việt nam,
Afghanistan, và Trung Mĩ. Chắc chắn, trong mỗi trường hợp, vấn đề
không đơn thuần chỉ là các ý tưởng kinh tế. Các du kích quân ở Việt
Nam hoặc Honduras chẳng quan tâm đến các cuộc tranh luận về lí
thuyết lao động về giá...
TỦ SÁCH SOS2
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
ĐI VỀ ĐÂU?
JOSEPH E. STIGLITZ
Whither Socialism?
Joseph E. Stiglitz
The MIT Press
Cambridge, Massachusetts
London, England
TỦ SÁCH SOS2
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
ĐI VỀ ĐÂU?
JOSEPH E. STIGLITZ
Người dịch: Nguyễn Quang A
2003
Các Bài giảng Wicksell
Năm 1958 Hội Bài giảng Wicksell [ The Wicksell Lecture Society],
với sự hợp tác của Viện Khoa học Xã hội thuộc Đại học Stockholm
[the Social Science Institute of Stockhol University], Trường Kinh tế
học Stockholm [the Stockholm School of Economics], và Hội Kinh tế
Thuỵ Điển [Swedish Economic Association], đã khai trương loạt các
bài giảng để tôn vinh và tưởng nhớ Knut Wicksell (1851-1926). Đến
1975 các bài giảng được trình bày hàng năm. Sau một thời kì tạm
dừng loạt bài giảng lại được Hội Kinh tế Thuỵ Điển khai trương lại
năm 1979. Bắt đầu với các bài giảng 1982, một tập các bài giảng được
trình bày hai năm một.
TỦ SÁCH SOS2
Đã xuất bản:
1. Kornai János: Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường
Hội Tin học Việt Nam, 2001
Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin 2002
2. Kornai János: Hệ thống Xã hội chủ nghĩa
Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin 2002
3. Kornai János, Karen Eggleston: Chăm sóc sức khoẻ công đồng
Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin 2002
Sắp xuất bản:
4. Hernando de Soto: Sự bí ẩn của Tư bản
5. Soros George: Giả kim thuật tài chính
6. Joseph E. Stiglitz: Chủ nghĩa xã hội đi về đâu?
7. Hayek F. A.: Con đường dẫn tới chế độ nông nô
MỤC LỤC
Lời giới thiệu ................................................................................... 8
Lời nói đầu ....................................................................................... 10
1 Lí thuyết về Chủ nghĩa xã hội và Quyền lực của
các Tư tưởng kinh tế .................................................................. 14
2 Tranh luận về Chủ nghĩa xã hội Thị trường:
Cách tiếp cận Cơ bản ................................................................. 29
3 Phê phán Định lí Căn bản Thứ Nhất
của Kinh tế học Phúc lợi .......................................................... 42
4 Phê phán Định lí Căn bản Thứ Hai ......................................... 61
5 Phê phán Định lí Lange-Lerner-Taylor: các Khuyến khích … 81
6 Phân phối Khẩu phần của Thị trường và các Phân bổ Phi Giá
cả trong nội bộ các Nền kinh tế Thị trường ............................ 99
7 Cạnh tranh .................................................................................. 125
8 Đổi mới ..................................................................................... 157
9 Tập trung hoá, Phi tập trung hoá, Thị trường ,
và Chủ nghĩa xã hội Thị trường ............................................. 172
10 Tư nhân hoá ............................................................................. 191
11 Thử nghiệm Xã hội chủ nghĩa: Đã Sai cái gì? ...................... 218
12 Cải cách các Thị trường Vốn .................................................. 227
13 Đặt Những Câu hỏi Đúng: Lí thuyết và Bằng chứng ......... 251
14 Năm Huyền thoại về Thị trường
và Chủ nghĩa xã hội Thị trường ............................................ 269
15 Vài Kiến nghị Sơ bộ ................................................................ 275
16 Những Suy ngẫm Triết học .................................................... 288
17 Những Kết luận ....................................................................... 299
Tài liệu tham khảo ........................................................................... 300
Chỉ mục ........................................................................................... 320
Chú thích ........................................................................................ 344
LỜI GIỚI THIỆU
Quyển sách này là quyển thứ 6 của tủ sách SOS2 do chúng tôi chọn và
dịch ra tiếng Việt. Nó được Joseph Stiglitz viết hơn mười năm trước,
vào những năm đầu của thời kì chuyển đổi, và được xuất bản đầu tiên
năm 1994. Ông là người có công chính trong phát triển kinh tế học
thông tin, và vì những cống hiến đó ông đã được giải Nobel kinh tế
năm 2001. Trong cuốn sách này ông dùng những kết quả nghiên cứu
của mình và của các cộng sự về kinh tế học thông tin để làm rõ hơn
những vấn đề tranh luận lâu đời về các mô hình kinh tế, các hệ thống
kinh tế, và trên cơ sở đó đưa ra những gợi ý chính sách cho các nền
kinh tế chuyển đổi hậu xã hội chủ nghĩa.
Ông phê phán các lí thuyết kinh tế tân cổ điển, mô hình xã hội chủ
nghĩa thị trường và mô hình thị trường cạnh tranh truyền thống dựa
trên lí thuyết đó, làm rõ hơn những điểm mạnh điểm yếu của các hệ
thống kinh tế. Ông gợi ý những chính sách kinh tế cho các nền kinh tế
chuyển đổi.
Phê phán và đánh giá của ông khá cân bằng và khách quan trên cơ
sở những kết quả mới nhất trong nghiên cứu kinh tế. Độc giả của tủ
sách SOS2 sẽ thấy cuốn sách này rất lí thú, nhất là sau khi đã đọc các
cuốn sách khác của tủ sách, đặc biệt là hai cuốn đầu của Kornai.
Joseph Stiglitz đã từng là cố vấn kinh tế của tổng thống Clinton, là
Phó Chủ tịch Ngân hàng Thế giới. Ông đã thường xuyên thảo luận các
vấn đề kinh tế chuyển đổi với các học giả và quan chức Trung Quốc
và các nước Đông Âu từ đầu những năm 1980, và cho các nhà hoạch
định chính sách những lời khuyên bổ ích. Việt Nam đã bắt đầu công
cuộc chuyển đổi hơn mười lăm năm nay. Từ giữa các năm 1990 Ông
đã vài lần đến Việt Nam; Chính phủ Việt Nam dường như đánh giá
cao những lời khuyên của Ông.
Với các độc giả Việt Nam cuốn sách vẫn có nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Nó không chỉ mang đến cho chúng ta những suy ngẫm sâu xa liên
quan đến nội dung các cuộc tranh luận lâu đời về các mô hình kinh tế,
những vấn đề học thuật uyên thâm, mà còn mang tính thời sự nóng hổi
cho công cuộc đổi mới đất nước. Trước hết nó, cũng như cuốn “Hệ
thống Xã hội chủ nghĩa” của Kornai, giúp chúng ta hiểu rõ hơn lịch sử
kinh tế của mình trong hơn nửa thế kỉ qua, hiểu rõ hơn những vấn đề
hiện tại, và hi vọng góp phần quan trọng trong định ra các bước đi
thích hợp trước mắt và lâu dài.
Cuốn sách không chỉ bổ ích cho các học giả, các nhà hoạch định
chính sách, mà cũng rất bổ ích cho các nhà doanh nghiệp, các nhà báo,
sinh viên và những người quan tâm khác.
Tuy bàn luận về những vấn đề lí thuyết sâu xa, song cuốn sách
không dùng đến những kiến thức toán học cao siêu, nên có thể dễ đọc
hơn với quảng đại bạn đọc. Tuy vậy, đây là cuốn sách chuyên khảo,
cần phải có những hiểu biết nhất định mới có thể hiểu được. Có một
vài thuật ngữ toán (kinh tế) có thể lạ tai đối với một số bạn đọc (thí dụ
như tính lồi [convexity], tính không lồi [nonconvexity], tuyến tính
[linearity], phi tuyến [nonlinearity], v.v) bạn đọc nên xem lại các khái
niệm toán sơ cấp hay cao cấp liên quan. Có một vài thuật ngữ kinh tế,
như rent [tiền thuê, tô] đôi khi được dịch nhất quán là “đặc lợi” cho
phù hợp với rents seeking [tìm kiếm đặc lợi]; hoặc polyarchy [(đa?)
thứ bậc] lại được dùng nhất quán là phi thứ bậc để đối lập với
hiearchy [hệ thống thứ bậc], có thể gây khó chịu cho một số độc giả.
Tất cả những điểm như vậy đều có đánh dấu sao (*) ở các chỗ thích
hợp. Mọi chú thích đánh số đều là của tác giả, các chú thích đánh dấu
sao (*) là của người dịch. Để tránh những khó khăn trên, và giúp việc
nghiên cứu được thuận tiện phần chỉ mục [index] tỉ mỉ về các khái
niệm, dẫn chiếu chúng tôi kèm cả thuật ngữ tiếng Anh để tiện dùng.
Do hiểu biết có hạn của người dịch, bản dịch chắc còn nhiều sai
sót, mong bạn đọc lượng thứ và chỉ bảo. Mọi góp ý xin gửi về Tạp chí
Tin Học và Đời Sống 25/B17 Hoàng Ngọc Phách [Nam Thành Công]
Hà Nội, [email protected], hoặc [email protected].
Hà nội 11-2003
Nguyễn Quang A
LỜI NÓI ĐẦU
Quyển sách này mở rộng các bài giảng Wicksel mà tôi đã trình bày ở
Trường Kinh tế học Stockhom tháng tư 1990. Khởi đầu tôi dự định
trình bày một tổng quan về hiện trạng của kinh tế học thông tin, tiêu
điểm của phần lớn nghiên cứu của tôi suốt hai thập kỉ qua. Nhưng
những sự kiện ở Đông Âu - sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tốc độ
hoàn toàn bất ngờ - đã đưa ra những vấn đề chính sách mới và khơi lại
các vấn đề lí thuyết cũ: Chuyển đổi sang một nền kinh tế thị trường bị
tác động ra sao? Những kinh nghiệm này có ý nghĩa gì với cuộc tranh
luận kéo dài liên quan đến sự lựa chọn các hệ thống kinh tế khả dĩ?
Những vấn đề này liên quan đến một vấn đề thứ ba: các mô hình
kinh tế truyền thống có ý nghĩa gì với những vấn đề kinh tế căn bản
như vậy? Kết luận mà tôi rút ra vượt quá sự phê phán rằng các mô
hình chuẩn chẳng có mấy ý nghĩa đối với các vấn đề này. Với tôi
dường như là, các mô hình chuẩn có lỗi một phần cho tình trạng tai
hại mà nhiều nước Đông Âu đã lâm vào. Trong một đoạn thường được
trích dẫn, Keynes viết:
Các ý tưởng của các nhà kinh tế và của các triết gia chính trị, cả khi họ đúng
lẫn khi họ sai, có quyền lực hơn là người ta thường vẫn tưởng. Thực vậy, thế
giới được cai trị bởi mấy ai khác. Những người thực tiễn, tin rằng mình
không bị bất kể ảnh hưởng trí tuệ nào, thường là nô lệ của nhà kinh tế học đã
chết nào đó. Những kẻ mất trí có quyền lực, nghe những lời nói viển vông,
đang chắt lọc sự điên cuồng của họ từ học giả bất tài nào đấy của mấy năm đã
qua. Tôi chắc chắn rằng quyền lực của những giới có thế lực đã tăng quá mức
so với xâm lấn dần dần của các ý tưởng.
Có thể biện hộ mạnh mẽ cho định đề rằng các ý tưởng về kinh tế học
đã dẫn gần một nửa dân số thế giới đến đau khổ không kể xiết.
Kinh tế học tân cổ điển thường tự cho mình là đối lập với kinh tế
học của Marx. Nhưng kinh tế học tân cổ điển, ít nhất ở dạng quen
thuộc trong cộng đồng Anh-Mĩ, thực tế đã không cung cấp một lựa
chọn khả dĩ có thể đứng vững. Nó cung cấp một mô hình về nền kinh
tế dường như quá xa những lực lượng cơ bản tạo sự ủng hộ cho kinh
tế học của Marx trong những giả thuyết, những mô tả, và những mối
quan tâm của nó. Bằng cách lập luận rằng dường như chúng ta là tốt
nhất trong mọi thế giới khả dĩ, chẳng khẳng định một cách thoả đáng
gì đối với nhu cầu của những người thấy sự khốn khó kinh tế ở khắp
nơi. Tồi hơn nữa, trong khi chỉ ra sức mạnh của các thị trường, nó
dường như đã lập luận rằng chủ nghĩa xã hội có thể hoạt động được:
Chủ nghĩa xã hội thị trường có thể sử dụng các thị trường, mà nền
kinh tế vẫn không có những đặc điểm tồi nhất của chủ nghĩa tư bản.
Kết luận này sai là điều dường như rõ ràng hiện nay. Nhưng vì sao
nó sai lại đáng là bài học. Nó nói cho chúng ta cái gì đó về cả nền kinh
tế lẫn các mô hình mà chúng ta đã dùng để nghiên cứu chủ nghĩa tư
bản. Một mục tiêu chính của các bài giảng này là kể lại câu chuyện ấy.
Sẽ không ngạc nhiên đối với những người đã theo dõi công trình
của tôi, rằng tôi coi thiếu sót cốt lõi trong mô hình tân cổ điển là ở các
giả thiết của nó liên quan đến thông tin. Trong các công trình trước
đây của tôi về kinh tế học thông tin, tôi đã chỉ ra rằng những sự xáo
động nhẹ trong các giả thiết chuẩn về thông tin làm thay đổi mạnh mẽ
tất cả các kết quả chủ yếu của lí thuyết chuẩn tân cổ điển: Lí thuyết
hoàn toàn không vững chút nào.
Tôi hi vọng rằng các bài giảng này vượt quá việc chê bai, nay đã
thành quen thuộc, đối với mô hình chuẩn, để chỉ ra xem hệ thuyết
(paradigm) lí thuyết thông tin mới có thể mang lại những cái nhìn mới
thế nào trong các vấn đề lí thuyết về nền kinh tế vận hành ra sao - thí
dụ, vai trò của cạnh tranh và phân quyền [phi tập trung hoá] - và trong
việc đưa ra các chính sách cho các vấn đề thực tiễn mà các nền kinh tế
chuyển đổi phải đối mặt. Tuy vậy tôi phải nhấn mạnh rằng, trong khi
các giả thiết về thông tin làm cơ sở cho lí thuyết chuẩn có lẽ chính là
điểm yếu cốt tử, là gót Achilles, của lí thuyết, nó chẳng vượt quá điểm
đó: Các giả thiết liên quan đến tính đầy đủ, đến tính cạnh tranh của
các thị trường, và sự thiếu vắng của đổi mới sáng tạo [trong lí thuyết
chuẩn] là ba [thiếu sót] mà tôi nhấn mạnh.
Xây dựng một hệ thuyết mới là một quá trình chậm. Cái mà tôi gọi
là lí thuyết chuẩn đã được trau chuốt liên tục qua các năm. Lí thuyết
bây giờ có thể được phát biểu với tính tổng quát toán học cao. Nhưng
tính tổng quát cao hơn đó không giúp gì cho tính thoả đáng của lí
thuyết. Vấn đề liệu lí thuyết cơ sở có bất kể ý nghĩa nào đối với nền
kinh tế của chúng ta chẳng hề dựa vào tính khả vi* của các hàm số liên
quan. Quá nhiều nguồn lực của giới chúng ta được dành cho việc trau
chuốt một mô hình có quá ít ý nghĩa với nền kinh tế, ngụ ý rằng có
một sự phi hiệu quả trên thị trường về các ý tưởng, cái ít nhất cũng lớn
như sự phi hiệu quả ở các thị trường vốn và lao động.
Các mô hình toán học hình thức nắm bắt một số khía cạnh của các
ý tưởng được trình bày ở các trang tiếp theo - thí dụ, vai trò của cạnh
tranh trong cung cấp thông tin, vai trò của phân quyền trong các tổ
chức nơi mỗi cá nhân có thông tin hạn chế, hoặc vai trò của chính phủ
can thiệp vào các nền kinh tế với các thị trường không hoàn hảo và
thông tin không hoàn hảo - đã được phát triển. Nhưng ở đây tôi không
có ý định điểm lại hoặc mở rộng các mô hình đó: Các độc giả quan
tâm có thể xem các tài liệu tham khảo. Thay vào đó, theo tôi nhiệm vụ
của một loạt bài giảng như loạt bài giảng này là đưa nhóm các ý tưởng
vào đúng viễn cảnh của nó. Nếu tôi thành công trong việc tạo ra
những nghi ngờ về hệ thuyết đang thịnh hành, nếu tôi thuyết phục
được độc giả rằng có một hệ thuyết lựa chọn khả dĩ đáng theo đuổi, và
nếu, vì lí do đó, mà có một sự tái phân bổ nhỏ nhoi các nguồn lực trí
tuệ của giới chúng ta, thì tôi đã đạt mục tiêu của mình. Nếu các bài
giảng tỏ ra có ích cho những người ở trong quá trình chuyển đổi, nếu
không phải trong việc đưa ra các câu trả lời, thì ít nhất trong việc giúp
tạo ra khuôn khổ cho thảo luận, thì tôi càng hài lòng hơn.
Tôi mang ơn sâu nặng đối với các sinh viên, các đồng nghiệp, và
đặc biệt với các đồng tác giả của tôi, những người mà tôi đã cùng thảo
luận nhiều ý tưởng trong cuốn sách này suốt hai thập kỉ qua. Những
ảnh hưởng của Richard Arnott, Avi Braverman, Partha Dasgupta,
Bruce Greenwald, Michael Rothschild, Barry Nalebuff, Steve Salop,
David Sappington, Carl Shapiro, và Andrew Weiss là đặc biệt rõ rệt.
Joshua Gans và Michael Smart đã trợ giúp nghiên cứu. Những bình
luận sâu sắc của họ đã cải thiện bản thảo cuối cùng rất nhiều. Jean
Koentop và Linda Handelman đã thực hiện công việc thư kí thường lệ
tuyệt vời của họ, biên tập bản thảo khi đánh máy.
Tôi cũng được lợi từ nhiều bình luận của các đồng nghiệp đã tham
dự các bài giảng ở Stockholm và các seminar ở Budapest, Praha, và
Roma ở những nơi các phiên bản của nhiều chương đã được trình bày.
Sự quan tâm của tôi đến các vấn đề của chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ
những ngày còn là sinh viên sau đại học, khi tôi đến Trường Thống kê
Trung ương ở Warsaw để nói chuyện với Lange, Kalecki và các môn
đồ của họ. Tôi thu được nhiều hiểu biết sâu sắc về lí thuyết và thực
tiễn của chủ nghĩa xã hội, và rất cảm kích trước lòng mến khách hào
hiệp của họ. Sự quan tâm của tôi về các vấn đề chuyển đổi đầu tiên
được gợi lên năm 1981, tại một cuộc gặp mặt được tài trợ bởi Viện
hàn lâm Khoa học Quốc gia [National Academy of Science] và Viện
hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc [Chinese Academy of Social
Science] ở Wingspreads, Wisconsin (ở đó tôi trình bày một phiên bản
ban đầu của một trong các chương của cuốn sách này), và một cuộc
viếng thăm đáp lại ở Bắc Kinh vào mùa hè tiếp theo. Từ khi đó, tôi đã
có may mắn tiến hành nhiều cuộc viếng thăm tới Hungary, Tiệp Khắc,
Rumani, và Trung Quốc, nhưng tôi không thể cho rằng mình là một
chuyên gia, trên cơ sở những cái nhìn thoáng qua này, về hàng loạt
các vấn đề mà các nước này đối mặt. Tôi hi vọng, và tin, rằng những
thấu hiểu lí thuyết có thể có giá trị nào đấy.
Tôi cảm ơn sự trợ giúp của nhiều tổ chức đã hỗ trợ tài chính và tạo
thuận lợi cho việc nghiên cứu nằm đằng sau các bài giảng này: Quĩ tài
trợ Khoa học Quốc gia [National Science Foundation], Quĩ tài trợ
Sloan [Sloan Foundation], Viện Hoover ở Đại học Stanford, Chính
phủ Rumani, Viện Cải cách Chính sách [Institute for Policy Reform],
Bộ Tài chính Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, và Ngân hàng Thế giới.
Quan trọng nhất, tôi muốn cảm ơn sự hỗ trợ của Đại học Stanford, đã
tạo ra một bầu không khí trong đó việc thảo luận tích cực về các ý
tưởng căn bản nhất đã được tiến hành một cách cởi mở và sôi nổi,
trường đã cho tôi các đồng nghiệp và các sinh viên mà hàng ngày tôi
học được rất nhiều từ họ.
1 Lí thuyết về Chủ nghĩa xã hội
và Quyền lực của các
Tư tưởng Kinh tế
Trong thế kỉ này chúng ta đã đến chỗ học được về quyền lực của các ý
tưởng kinh tế. Những quan điểm đối địch về xã hội phải được tổ chức
ra sao đã được tranh cãi không chỉ trong các phòng tranh luận của các
viện hàn lâm mà cả ở các chiến trường ở Triều Tiên, Việt nam,
Afghanistan, và Trung Mĩ. Chắc chắn, trong mỗi trường hợp, vấn đề
không đơn thuần chỉ là các ý tưởng kinh tế. Các du kích quân ở Việt
Nam hoặc Honduras chẳng quan tâm đến các cuộc tranh luận về lí
thuyết lao động về giá trị hoặc các giáo lí khác của kinh tế học của
Marx, ngay cả nếu họ hiểu rõ chúng. Mặc dù vậy những niềm tin vào
một hệ thống kinh tế khả dĩ có thể lựa chọn, hệ thống hứa hẹn một
cuộc sống tốt đẹp hơn trong thế giới này, có ảnh hưởng đến hành động
của họ chẳng kém những niềm tin vào các hệ thống tôn giáo khả dĩ
khác - hứa hẹn sự cứu rỗi vĩnh hằng trong hậu thế - ảnh hưởng tới
những người đã chiến đấu dữ tợn đến vậy trong các cuộc chiến tranh
tôn giáo do hậu quả của phong trào Cải cách [thế kỉ 16]. Những niềm
tin đã bị một cú đấm mạnh bởi các sự kiện ở Đông Âu trong vài năm
qua, đặc biệt với sự sụp đổ của của Chính phủ Xôviết trong năm qua.
Nhưng nếu chúng ta đi tìm thời điểm mà chủ nghĩa xã hội không
còn được coi là một lựa chọn khả dĩ so với chủ nghĩa tư bản, thì chúng
ta phải tìm trước sự giải phóng của các nước Đông Âu năm 1989. Bên
cạnh đó, sự từ chối chủ nghĩa xã hội của họ là một sự khẳng định
chính trị, từ chối một hệ thống kinh tế được kẻ chiếm đóng áp đặt lên
họ, cũng như là một sự tuyên bố về những tính ưu việt của hệ tư tưởng
đó. Tôi nghĩ, chúng ta phải ngó lại các cuộc tư nhân hoá ở Pháp bắt
đầu vào đầu các năm 1980, được tiến hành bởi một chính phủ công
khai thừa nhận là chính phủ xã hội (chủ nghĩa), đảo ngược lại hình
mẫu quốc hữu hoá mà chính phủ đó đã tiến hành mới ít năm trước. Đã
có những ám chỉ xa xôi rằng lòng tin vào hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa
có thể đã tan thành mây khói trong những năm trước đó: Thủ tướng
Hy Lạp Andreas Papandreou, một nhà xã hội chủ nghĩa công khai
khác, đã coi "xã hội hoá các doanh nghiệp quốc doanh" là một trong
những mục tiêu của chính phủ của ông, công nhận công khai rằng
quan điểm cũ, rằng quốc hữu hoá một doanh nghiệp sẽ đảm bảo cho
mục tiêu của doanh nghiệp ấy trùng hợp với "lợi ích quốc gia", bất
luận nó được xác định ra sao, đã chẳng có cơ sở trong thực tế, ít nhất
trong bối cảnh Hy Lạp. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội, với tư cách là
một hệ tư tưởng kinh tế, là đáng chú ý ở nhiều mặt cũng như sự sụp đổ
đồng thời của khối Xôviết, biểu trưng cho tột đỉnh của một cuộc thí
nghiệm kinh tế kéo dài nửa thế kỉ. Đó là một cuộc thí nghiệm được
tiến hành với suy tính đáng kể, dựa trên cơ sở của một hệ tư tưởng tồn
tại hơn một thế kỉ. Hệ tư tưởng đã đương đầu với sự xem xét kĩ lưỡng
của thời gian. Những hứa hẹn và kết luận của nó đã được tranh luận
rộng rãi, và trong hàng ngũ những người ủng hộ nó bao gồm một số
người có trí tuệ nhất suốt thời kì hơn một trăm năm. Ngay cả ngày nay
những tư tưởng và lí tưởng Marxist tạo cơ sở cho hệ tư tưởng kinh tế
vẫn còn sống động, không chỉ trong thế giới thứ ba mà cả ở các
chuyên ngành khác. Một miêu tả đầy đủ và nhất quán về sự nổi lên, sự
bền bỉ và sự sụp đổ một phần của tập các niềm tin này là rất hấp dẫn
nhưng sẽ dẫn tôi đi quá phạm vi của các bài giảng này. Nhưng một
luận đề mà tôi hi vọng trình bày là, gián tiếp hay không chủ ý, các mô
hình kinh tế tân cổ điển đã đóng một vai trò trung tâm trong truyền bá
và duy trì niềm tin vào chủ nghĩa xã hội thị trường - một trong những
biến thể chủ yếu của mô hình xã hội chủ nghĩa- như một lựa chọn khả
dĩ thay cho chủ nghĩa tư bản. Tôi lập luận trong các bài giảng này
rằng, nếu giả như mô hình tân cổ điển (hoặc những tiền thân của nó)
đã cung cấp một mô tả đúng của nền kinh tế, thì thật sự chủ nghĩa xã
hội thị trường đã có cơ hội thành công. Như vậy sự thất bại của chủ
nghĩa xã hội thị trường đưa ra một sự bác bỏ mô hình tân cổ điển
chuẩn hệt như nó bác bỏ lí tưởng xã hội chủ nghĩa thị trường. Trong
các bài giảng này tôi cố gắng giải thích chính xác hơn cái gì là sai với
mô hình đó và cung cấp những nội dung cơ bản của một hệ thuyết khả
dĩ khác (alternative paradigm).
Theo hầu hết đánh giá, kết quả của thí nghiệm chủ nghĩa xã hội là
không mập mờ: Cuộc thí nghiệm là một thất bại. Giống như hầu hết
các thí nghiệm xã hội nó không phải là một thí nghiệm được kiểm
soát, như thế có sự tranh cãi về chính xác phải dẫn chiếu đến cái gì -
các tư tưởng cơ bản (nếu không phải là các lí tưởng) của chủ nghĩa xã
hội sai ở mức độ nào và ở mức độ nào thất bại được cho là do cách
thực hiện các tư tưởng ấy gây ra, ở mức độ nào có thể viện dẫn như do
"các tính chất thiết kế đặc thù"?1
Đôi khi lỗi cũng được đổ cho hệ thống chính trị hà khắc đi kèm với
thí nghiệm xã hội chủ nghĩa: Chủ nghĩa xã hội thị trường dân chủ thực
ra đã chẳng bao giờ được thử nghiệm. Nhưng một biện hộ cũng có thể
được đưa ra rằng thí nghiệm xã hội đã thành công hơn so với trường
hợp không có áp bức Cộng sản: bởi vì, ở mức độ nhất định, hệ thống
chính trị áp bức đã cung cấp một cái thay thế - cái gậy- cho sự thiếu
vắng của củ cà rốt của những khuyến khích kinh tế. Có vấn đề tương
tự liệu có mối liên hệ nhân quả giữa hệ thống chính trị áp bức và hệ
thống kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nếu không phải là hệ quả không thể
tránh khỏi của việc cho nhà nước độc quyền trong sở hữu tư liệu sản
xuất, thì vẫn có thể có "xu hướng" tập trung quyền lực vào một lĩnh
vực dẫn đến sự tập trung quyền lực ở lĩnh vực khác.
Trong khi các học giả có thể suy xét về các chủ đề này, hầu hết các
nước liên quan dường như đã quyết tâm chuyển sang nền kinh tế thị
trường. Họ thấy sự thịnh vượng của các nước Tây Âu, Bắc Mĩ, và
Đông Á, và họ hi vọng bằng cách cố vươn tới nền kinh tế đó, họ cũng
sẽ đạt được sự thịnh vượng tương tự. Họ đối mặt với vấn đề chuyển
đổi khó khăn - đi thế nào từ vị trí hôm nay sang vị thế họ muốn trở
thành. Trong khi có sự tin chắc rằng họ muốn thành quả của một nền
kinh tế thị trường, có thể không có sự tin chắc như thế rằng họ muốn
cả giá phải trả - sự nghèo khổ cùng cực đặc trưng cho hầu hết các nền
kinh tế thị trường nghèo hơn, trong số đó các nước này chắc chắn phải
được tính đến2 - hoặc là họ sẵn lòng chịu chi phí của chuyển đổi. Cuối
cùng, các nền kinh tế thị trường có tính đa dạng về màu sắc và sắc
thái. Các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đối mặt với một tập các vấn đề
khó khăn trong quyết định loại hình thức nào họ muốn lấy. Thực vậy
không phải tất cả các nước nguyên xã hội chủ nghĩa cam kết đầy đủ
cho nền kinh tế thị trường. Một số thảo luận về một con đường thứ ba,
nhưng những người phê phán bác bỏ nó là không thể - như chủ đề
thường được diễn tả, bạn không thể có thai một chút được.
Đối với các nhà lí thuyết kinh tế các vấn đề đối mặt với các nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa là những thách thức. Ở đây chúng ta có một
nhóm các nước lao vào lựa chọn hệ thống kinh tế. Hẳn là lí thuyết
kinh tế phải cung cấp sự chỉ đạo đáng kể. Đáng tiếc - ít nhất cho đến
gần đây - khoa học kinh tế chẳng có thể nói mấy về những chủ đề căn
bản này, và thậm chí càng ít hơn về các vấn đề quan trọng của chuyển
đổi. Lời khuyên điển hình của nhà tư vấn tới thăm và tiến hành chuyến
đi một cách vội vã cho một nền kinh tế đi theo con đường chuyển đổi
là nhấn mạnh tầm quan trọng của các thị trường, một bài học dường
như bây giờ đã được học kĩ (mặc dù những người ủng hộ thị trường sẽ
nói rằng đó là bài học không thể nhắc lại quá nhiều lần và, đơn giản
như nó có vẻ, mà nội dung của nó dường như khó hấp thu - ngay cả ở
các nền kinh tế quen với thị trường đã lâu). Thực vậy dường như có sự
lôi cuốn tức thì giữa các nhà lí luận cũ của cánh tả và của cánh hữu.
Cả hai đều bị lôi cuốn bởi sự hăng say sùng đạo, chứ không phải bởi
phân tích duy lí. Do nhiều nhà lí luận đã từ chối hệ tư tưởng của Marx,
họ chấp nhận hệ tư tưởng thị trường tự do. Có một chuyện đùa rằng
Milton Friedman là nhà kinh tế học được kính trọng rộng rãi nhất ở
Liên Xô - mặc dù sách và các bài viết của ông thì còn phải đọc. Ông là
một biểu tượng của một hệ tư tưởng, và đó là một hệ thống niềm tin
khả dĩ khác mà họ tìm kiếm.
Tất nhiên có nhiều loại thuộc về bằng chứng giai thoại - sự thực là
các nền kinh tế thị trường đã hoạt động tốt liên tục được thuật lại.
Chứng cứ giai thoại – cho dù chắc chắn tốt hơn không có chứng cớ gì-
chỉ là cọng rơm yếu ớt để đặt cơ sở cho sự lựa chọn một hệ thống kinh
tế. Chứng cứ giai thoại của mười lăm năm trước đã đưa nhiều người
viết sách giáo khoa (kể cả Paul Samuelson) gợi ý rằng có thể có sự
đánh đổi nào đó giữa quyền tự do và tăng trưởng - rằng các nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa thực ra đã tăng trưởng nhanh hơn các nền kinh tế
thị trường. Những thảo luận được ưa chuộng của thời đại đã gợi ý
rằng dân chủ và quyền tự do có thể là những thứ xa xỉ mà chỉ nước
giàu mới có thể đủ sức: Những nước đã cam kết cho tăng trưởng
nhanh có lẽ phải chọn con đường xã hội chủ nghĩa, ngay cả nếu dường
như có mối tương quan (tất yếu hoặc không) giữa con đường đó và sự
mất quyền tự do. Ngay cả các nước không chấp nhận hoàn toàn mô
hình Xôviết hà khắc đã được thuyết phục rằng một số đặc tính của nó
- kế hoạch hoá tập trung, công nghiệp hoá mạnh mẽ, sở hữu công cộng
đối với các tư liệu sản xuất cơ bản, tỉ lệ tiết kiệm bắt buộc cao – đã là
những thành tố quan trọng của bất kể chương trình phát triển thành
công nào. Ngày nay – nhìn từ phối cảnh lịch sử hiếm có của vài năm
muộn hơn - tất cả những xét đoán kinh nghiệm đó đều bị nghi ngờ.
(Tất nhiên có nhiều nhà kinh tế học chẳng bao giờ nao núng trong
niềm tin của họ với thị trường, bây giờ những người ấy nói “tôi đã bảo
mà”. Nhưng một số trong số họ cũng giống như các nhà phân tích
chứng khoán luôn tiên đoán các thị trường giá xuống hoặc thị trường
giá lên. Ngày vàng son của họ cuối cùng đã đến, nhưng điều này
không thể được cho là hoặc do sự nhạy bén của họ hoặc do tính
nghiêm túc của phân tích của họ). Hơn nữa, chứng cứ giai thoại còn
xa mới rõ ràng liên quan đến tiến trình hành động nào các nước này
phải tiến hành: Một lí giải thường dùng cho sự thần kì Á Châu - sự
tăng trưởng nhanh của Nhật bản, Hàn Quốc, Singapore, và Đài Loan-
là chính phủ đã đóng một vai trò thiết yếu trong “chi phối thị trường”.3
Khi tôi hỏi, “Liệu khoa học kinh tế có đóng góp nhiều cho những
thảo luận này?” tôi muốn nhiều hơn việc thuật lại chứng cứ giai thoại
và sự lặp đi lặp lại niềm tin của các nhà kinh tế học vào thị trường:
Liệu có “các định lí” nào chỉ cho chúng ta rằng các nền kinh tế thị
trường sẽ nhất thiết làm tốt hơn các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, hoặc
liệu tư nhân hoá sẽ cải thiện tính hiệu quả của các doanh nghiệp quốc
doanh? Liệu có các kết quả giải tích nào cho chúng ta biết chút gì đó
về sự cân đối và vai trò của chính phủ và khu vực tư nhân – vì hầu hết
các trường hợp thành công liên quan đến các nền kinh tế hỗn hợp với
các chính phủ lớn. Chuyển đổi sang một nền kinh tế thị trường không
đòi hỏi làm héo tàn nhà nước mà là sự tái xác định vai trò của nó.
Khoa học kinh tế phải cung cấp sự chỉ dẫn nào cho các chủ đề này?
Trong suốt nửa thế kỉ qua một hệ thuyết đơn giản đã chi phối
nghành kinh tế học - được nhắc đến một cách khác nhau như hệ thuyết
cạnh tranh (competitive paradigm), hoặc tân cổ điển, hoặc mô hình
Walras. Phát biểu chính xác nhất của hệ thuyết ấy được cung cấp bởi
mô hình của Arrow và Debreu (1954; xem cả Arrow 1951b; Debreu
1959). Nó đưa ra định đề về số đông các xí nghiệp tối đa hoá lợi
nhuận với các khách hàng duy lí, tối đa hoá thoả dụng trong một nền
kinh tế trong đó có một tập đủ của các thị trường cạnh tranh hoàn hảo
– cho mọi hàng hoá, trong mọi giai đoạn, trong mọi trạng thái tự nhiên
(cho mọi rủi ro), ở mọi địa điểm. Hầu hết những người, cho rằng mô
hình có nhiều điều nói về thế giới thực, đều tin rằng những kết luận
của nó là vững chãi đối với việc giảm các giả thiết chính xác được
Arrow và Debreu sử dụng (thí dụ, liên quan đến tính đầy đủ của các
thị trường).
Tôi muốn lập luận trong các bài giảng này rằng hệ thuyết cạnh
tranh không những không cung cấp mấy chỉ dẫn cho vấn đề cốt tử về
lựa chọn các hệ thống kinh tế, mà “lời khuyên” nó cung cấp thường là
sai lạc. Các quan niệm về thị trường tạo cơ sở cho phân tích đã mô tả
sai đặc điểm của nó; những phân tích chuẩn đánh giá thấp những điểm
mạnh – và điểm yếu - của các nền kinh tế thị trường, và như thế cung
cấp các tín hiệu sai cho sự thành công tiềm năng của các khả năng lựa
chọn khác và cho việc thị trường có thể được cải thiện. Cũng như thế,
không thể dựa vào hệ thuyết đó để đưa ra những chỉ dẫn cho các nền
kinh tế nguyên xã hội chủ nghĩa khi họ tìm cách xây dựng các hệ
thống kinh tế mới.
Vấn đề cơ bản với mô hình tân cổ điển và mô hình tương ứng tạo
cơ sở cho chủ nghĩa xã hội thị trường4 là chúng không tính đến một
loạt vấn đề nảy sinh do sự thiếu vắng thông tin hoàn hảo và chi phí để
kiếm thông tin, cũng như sự thiếu vắng hoặc sự bất hoàn hảo trong
những thị trường vốn và thị trường rủi ro [bảo hiểm] chủ yếu. Sự thiếu
vắng hoặc bất hoàn hảo của các thị trường này, đến lượt chúng, đa
phần lại có thể lí giải bởi các vấn đề thông tin. Trong mười lăm năm
qua, một hệ thuyết mới, đôi khi được nhắc tới như cách tiếp cận lí
thuyết thông tin đối với kinh tế học (hoặc, nói gọn, hệ thuyết thông
tin),5 đã được phát triển. Hệ thuyết này công khai quan tâm đến những
vấn đề này.6 Hệ thuyết này đã cho chúng ta cái nhìn thấu hiểu vào
kinh tế học phát triển7 và kinh tế học vĩ mô.8 Nó cấp cho chúng ta một
tân kinh tế học phúc lợi mới,9 một lí thuyết mới về doanh nghiệp,10 và
một sự hiểu biết mới về vai trò và sự hoạt động của các thị trường
vốn. Nó cho chúng ta sự thấu hiểu mới liên quan đến các vấn đề
truyền thống, như thiết kế các cơ cấu khuyến khích.
Những mối quan tâm lí thuyết thông tin này đã không chỉ làm giàu
và thay đổi các câu trả lời cho các vấn đề kinh tế truyền thống; chúng
cũng dẫn đến các vấn đề mới phải đặt ra. Đối với ba vấn đề cổ điển
của kinh tế học - phải sản xuất cái gì, phải sản xuất ra sao, và phải sản
xuất cho ai – bây giờ chúng ta đưa thêm vấn đề thứ tư – các quyết
định này phải được tiến hành ra sao và ai phải ra các quyết định đó.
Trong nền kinh tế của Joan Robinson (hoặc Arrow và Debreu), các
nhà ra quyết định, và cơ cấu của việc ra quyết định, không đóng vai
trò nào. Joan Robinson mô tả công việc của nhà quản lí của một doanh
nghiệp chỉ đơn thuần là ngó vào cuốn sách kế hoạch ở trang thích hợp
tương ứng với giá cả các yếu tố sản xuất hiện thời (và tương lai).
Trang đó sẽ cho biết công nghệ nào tối thiểu hoá chi phí với các giá cả
yếu tố ấy. Cuộc sống thật đơn giản! Tất nhiên, nếu giả như cuộc sống
đơn giản thế, làm một nhà quản lí sẽ thực sự là một việc nhàm chán,
đáng để nhà hàn lâm Anh khinh, và việc thiếu quan tâm của Lange,
Lerner, và Taylor đến những khuyến khích quản lí sẽ chẳng mấy quan
trọng: về cơ bản họ [nhà quản lí] có thể được thay bằng các automat
[máy tự động].
Tóm lại, trong cuốn sách này tôi muốn chỉ ra những triển vọng của
hệ thuyết thông tin mới này có thể cung cấp ít nhất một sự thấu hiểu
hạn chế ra sao vào các vấn đề căn bản đối mặt các nền kinh tế nguyên
xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra tôi muốn đề cập một số vấn đề cơ bản, lâu
dài trong lí thuyết về tổ chức kinh tế: tôi muốn chứng tỏ rằng phần lớn
của cuộc tranh luận cũ đã qua về sự đáng khát khao của chủ nghĩa xã
hội thị trường đã lầm lạc; nó đã dựa trên sự hiểu biết sai lầm về các thị
trường cạnh tranh hoạt động ra sao, một sự hiểu lầm mà mô hình
Walras có thể đã góp phần không nhỏ. (Những người Áo, tôi tin, đã
cảm nhận điều này, và họ đã cố gắng tạo ra một viễn cảnh khả dĩ khác
về nền kinh tế thị trường. Nhưng họ đã chẳng thành công trong diễn tả
và hình thức hoá các quan điểm của họ ở dạng hoàn toàn thoả mãn với
tư cách là một hệ thuyết nhất quán thay cho hệ thuyết Walras, và như
thế, ngoài một số dẫn chiếu chú thích đôi khi, họ vẫn ở ngoài trào lưu
chính, ít nhất ngoài trào lưu Mĩ/Tây Âu. Tôi sẽ có nhiều điều để nói về
quan hệ giữa các ý tưởng trình bày ở đây và truyền thống Áo muộn
hơn trong cuốn sách này.11)
Sau khi giải thích những hạn chế của các lí thuyết và tranh luận ban
đầu, tôi sẽ cố gắng diễn đạt cái tôi xem là các vấn đề cơ bản, những sự
thấu hiểu có thể lượm lặt được từ cái mà chúng ta đã học trong mười
lăm năm qua, và các vấn đề vẫn còn phải giải quyết. Tôi sẽ kết thúc
cuốn sách với một số nhận xét gắng thử áp dụng các bài học đã học
được vào các vấn đề chuyển đổi đang đối mặt các nước Đông Âu.12
Những kết quả truyền thống về các Hệ thống Kinh tế So sánh
Khoảng chừng mười hoặc mười lăm năm trước khoa kọc kinh tế đã có
ba nhóm kết quả để hướng dẫn những ai muốn lựa chọn các hệ thống
kinh tế khả dĩ.
Các Định lí Cơ bản của Kinh tế học Phúc lợi và Bàn tay Vô hình
của Adam Smith
Đầu tiên, đã có các định lí cơ bản của kinh tế học phúc lợi (Arrow
1951b; Debreu 1959), phát biểu lí lẽ nổi tiếng của Adam Smith về bàn
tay vô hình. Smith lập luận rằng không chỉ các cá nhân được dẫn dắt
bởi bàn tay vô hình thông qua chạy theo tư lợi để theo đuổi lợi ích
quốc gia, mà chính sự chạy theo tư lợi này là cách cách tin cậy hơn
nhiều để đảm bảo rằng lợi ích công cộng được phục vụ so với bất kể
lựa chọn khả dĩ nào khác - chắc chắn tốt hơn việc dựa vào nhà lãnh
đạo chính phủ nào đấy, dẫu cho nhà lãnh đạo ấy có ý định tốt đến đâu.
Lí lẽ của Smith tạo ra nền tảng để dựa vào các nền kinh tế thị trường.
Các định lí cơ bản của kinh tế học phúc lợi chính xác hoá ý nghĩa
và các điều kiện theo đó các thị trường có hiệu quả. Định lí thường
được nhắc tới như định lí cơ bản thứ nhất của kinh tế học phúc lợi chỉ
ra rằng dưới những điều kiện nhất định mọi cân bằng cạnh tranh là có
hiệu quả Pareto - tức là, một trạng thái tới hạn trong đó không ai có
thể khá giả hơn mà không làm cho ai đó bị tệ hơn. Cái thường được
nhắc tới như định lí thứ hai của kinh tế học phúc lợi đưa ra các điều
kiện theo đó bất kể phân bổ nguồn lực có hiệu quả Pareto nào đều có
thể được thực hiện thông qua các cơ chế thị trường. Các định lí cơ bản
của kinh tế học phúc lợi tạo nền tảng của cách tiếp cận “khuyết tật thị
trường” cho can thiệp của chính phủ.13 Các thị trường không hoạt
động hoàn hảo khi có những ảnh hưởng ngoại lai quan trọng, và vì thế
có lí do căn bản cho các loại thuế ô nhiễm. Các thị trường không cung
cấp các hàng hoá công cộng, và vì thế có lí do căn bản cho chi tiêu