Chiều hướng phát triển dân số và học sinh, hiện tại và tương lai
Bài viết này nằm trong dự án nghiên cứu chung về giáo dục. Vì số học sinh, sinh viên và do đó vấn đề ngân sách cần cho giáo dục trong tương lai có mối quan hệ chặt chẽ với dự báo dân số, bài này nhằm phân tích dự báo dân số trong các độ tuổi đi học, để từ đó đánh giá tình hình giáo dục hiện nay và khả năng sắp tới. Từ thông tin cơ sở này, bài tiếp theo sẽ đi vào phân tích việc tài trợ cho chiến lược phát triển giáo dục......
thời đại mới
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU & THẢO LUẬN
Số 13 - Tháng 3/2008
Chiều hướng phát triển dân số và học
sinh,
hiện tại và tương lai
Vũ Quang Việt
Bài viết này nằm trong dự án nghiên cứu chung về giáo dục. Vì số học sinh, sinh
viên và do đó vấn đề ngân sách cần cho giáo dục trong tương lai có mối quan hệ
chặt chẽ với dự báo dân số, bài này nhằm phân tích dự báo dân số trong các độ
tuổi đi học, để từ đó đánh giá tình hình giáo dục hiện nay và khả năng sắp tới. Từ
thông tin cơ sở này, bài tiếp theo sẽ đi vào phân tích việc tài trợ cho chiến lược
phát triển giáo dục trong đó bao gồm ngân sách nhà nước và học phí. Cũng nhờ
cơ sở số liệu xây dựng trong bài này, có thể rút ra những kết luận như sau:
Mặc dù dân số Việt Nam nhìn chung tăng từ 77,6 triệu năm 2000 lên 84,2 năm
2006 nhưng dân số trong độ tuổi 6-10 đã giảm mạnh, từ trên 9 triêu năm 2000 con
̣ ̀
6,8 triêu năm 2006, tức là giảm 25% trong khi đó, số học sinh còn giảm mạnh hơn,
̣
ở mức 28% từ 9,7 triệu xuống 7 triệu. Giảm dân số là lý do chính cho hiện tượng
giảm số học sinh nhưng bỏ học cung là vân đê.
̃ ́ ̀
1. Cấp tiểu học: Từ năm 2006 trở đi, dân số nói chung sẽ tiếp
tục tăng, đạt con số gần 104 triệu năm 2030, nhưng dân số ở
tuổi tiểu học sẽ tiếp tục giảm xuống 6,5 triệu vào năm 2020,
và 6,3 triệu vào năm 2030.
2. Cấp trung học: Sau năm 2006, số dân đến tuổi học trung học
sẽ giảm mạnh, từ 12,8 triệu năm 2006 sẽ chỉ còn 10,4 triệu
năm 2015 và tiếp tục ở mức thấp này sau đó.
3. Nói chung học sinh cấp phổ thông kể cả trung học và tiểu học
nếu tính từ 2006 đến năm 2020, sẽ giảm hơn 3 triệu và sau đó
vẫn còn giảm nhẹ.
4. Cấp đại học: Số dân ở độ tuổi đi học đại học vừa qua vẫn
tăng, trung binh 1,5% từ năm 2000 đến năm 2006, nhưng
̀
tương lai sẽ khác. Nếu so với hiện nay, số dân ở độ tuổi đại
học sẽ thấp hơn hiện nay 10% vào năm 2015, 20% vào năm
2020 và 24% vào năm 2030. Vì giảm dân số như thế cho nên
nếu tổng số sinh viên đại học chỉ bằng như ngày nay thì tỷ lệ
đi học vẫn tăng lên mức 26% so với hiện nay là 20,5%. Do đó
cả hai kế hoạch của Bộ:
(a) Tăng số học sinh đại học mỗi năm trung bình 10%, thì vào
năm 2020 số sinh viên kế hoạch sẽ bằng 97% số dân ở tuổi
học đại học và đến năm 2030 số sinh viên kế hoạch sẽ
bằng 265% số dân ở tuổi học đại học. Cả hai tỷ lệ này
đều hoàn toàn phi thực tiễn.
(b) Tăng số sinh viên trên tỷ lệ dân số lên 4,5% vào năm 2020
tức là đạt được4,4 triệu sinh viên. So với số dân ở độ tuổi
học đại học, tỷ lệ đi học trong kế hoạch như thế sẽ đạt
67% (so với mức 20% hiện nay) tương đương với tỷ lệ mà
các cường quốc đạt được hiện nay.
Theo đánh giá của bài này, cần xem xét lại chiến lược mà Bộ giáo dục đề ra,
thường có những chỉ tiêu duy ý chí và phi thực tiễn. Đánh giá này cũng không khác
mấy đánh giá của Ngân hàng Thế giới, cho rằng Chiến lược Đổi mới của Bộ
2006-2020 rất tham vọng, tăng lượng sinh viên gấp 3, 4 lần hiện nay nhưng nó còn
sơ lược(still incipient) và tuy đưa ra mục tiêu muốn đạt nhưng lại không bàn gì
đến cách làm sao thực hiện chúng.[1] Thực tế cho thấy áp lực ngân sách chi cho
giáo dục ở cấp phổ thông sẽ giảm vì số luợng học sinh giảm. Điều này cho phép
nhà nước tập trung vào nâng cao chất lượng thay vì phải chạy theo việc đáp ứng
nhu cầu của số lượng.
Dự báo về giáo dục các cấp không thể không gắn với dự báo về phát triển dân số
theo độ tuổi. Sẽ rất lãng phí và người có trách nhiệm về giáo dục không thể đặt
đúng mục tiêu, thậm chí vẽ voi, khi chính sách hoạch định về giáo dục không dựa
trên nghiên cứu dự báo về dân số nhiều năm trước mắt. Nếu như trong tương lai
số trẻ em tăng thì việc lo lắng nhằm có tài chính, giáo viên, trường sở để đảm
đảm cho trẻ em được học hành là điều ưu tiên, nhưng nếu số trẻ đến tuổi đi học
giảm thì việc thuần túy chạy theo các biện pháp nhằm mở rộng cơ sở tiếp nhận
số lượng người đi học khi số dân ở độ tuổi đi học giảm không những lãng phí và
có thể tạo ra đội quân có bằng cấp thất nghiệp. Cho đến nay hình như thiếu vắng
các nghiên cứu này ở Việt Nam; và nếu có thì những nghiên cứu như thế này chưa
thấy xuất hiện trên báo chí, đặc biệt là chưa bao giờ được Bộ Giáo dục và Đào
tạo (GĐT) nêu lên, làm cơ sở cho các chính sách cải cách giáo dục của Bộ.
Cho nên thông tin dự báo phải được coi là thông tin nền tảng cho bất cứ một
chương trình cải cách giáo dục có tầm nhìn phóng chiếu 10 hay 20 năm về phía
trước. Phần viết này, có tính khỏi động, đặt nền móng số liệu cho những nghiên
cứu tiếp theo. Những tính toán trong bài này tất nhiên không phải hoàn hảo, do đó
tác giả hy vọng những tác giả khác sẽ tiến hành nghiên cứu nhằm cung cấp số
liệu cơ bản hoàn hảo hơn.
I. Dự báo dân số đến năm 2030
Dân số Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng cho đến năm 2030. Số dân sẽ tăng từ
84,1 triệu lên gần 104 triệu năm 2030. Điều quan trọng là tỷ lệ tăng dân số hàng
năm giảm dần; mức tăng hàng năm từ trên 1,2% sẽ giảm dần xuống 0,5% vào năm
2030. Sự kiện này phản ánh chiều hướng biến động hiện nay trong dân số: (a) tỷ
suất sinh giảm, mặc dù có tăng đôi chút vào năm 2001 và đặc biệt là năm 2003 do
lòng tin tử vi sinh con vào năm tốt; (b) tỷ suất tử giảm nhanh so với các nước láng
giềng, có thể vì đời sống được nâng cao góp phần nâng cao sức khoẻ và chi tiêu
cho bảo vệ sức khoẻ. Cơ cấu dân số chuyển từ nông thôn sang thành thị cũng góp
phần làm giảm số sinh.
Kết quả dự báo này (coi thêm phụ lục 1 về chi tiết và phương pháp luận) cho thấy
những nét điển hình sau:
Bảng 1. Cơ cấu dân số theo nhóm tuổi, 2000-2030 (%)
Độ Tổng
tuổ 10- 15- 20- 25- 30- 35- 40- 45- 50- 55- 60-
i 0-4 5-9 14 19 24 29 34 39 44 49 54 59 64 65+
200
0 9,4 11,8 11,9 10,8 9,1 8,6 7,9 7,3 6,0 4,1 2,8 2,3 2,3 5,8 100
200
6 7,5 8,2 10,6 10,8 8,8 7,8 7,7 7,6 7,3 6,4 4,8 3,3 2,2 7,0 100
201
0 7,1 7,3 9,0 9,8 8,5 8,5 7,8 7,8 7,2 6,8 6,0 4,1 2,7 7,2 100
201
5 6,9 6,9 7,7 8,0 7,7 8,4 8,6 8,1 7,5 6,7 6,8 5,5 3,7 7,4 100
202
0 6,7 6,8 7,4 7,0 6,4 7,7 8,5 8,9 7,8 7,1 6,8 6,3 4,9 7,7 100
203
0 5,5 6,1 7,1 6,7 5,4 5,7 6,6 8,3 8,8 8,4 7,7 6,8 5,8 11,0 100
Chú thích: Nhóm độ tuổi ở đây là theo chuẩn báo cáo của LHQ, có khác với
nhóm độ tuổi trong Bảng Phụ lục vì Bảng Phụ lục đã được tác giả chuyển
đổi sang nhóm độ tuổi phù hợp với các cấp học ở Việt Nam để có thể tính
toán so sánh.
• Dân số ở tuổi 5-9, 10-14, 16-19 sẽ giảm mạnh về tỷ lệ dân số và giảm cả
về lượng. Đặc biệt là nhóm tuổi 15-19, tuổi học trung học phổ thông; số
lượng giảm từ 9 triệu năm 2006 xuống 7 triệu năm 2030.
• Dân số ở tuổi 20-24, tuổi đi học đại học sẽ giảm mạnh về cả tỷ lệ và
lượng; số lượng giảm từ 7 triệu năm 2006 xuống 5,6 triệu năm 2030.
• Dân số ở tuổi 60-64 và 65 trở lên sẽ tăng mạnh cả về tỷ lệ lẫn số lượng.
Đây là tuổi về hưu. Như thế tỷ lệ những người trong độ tuổi này là 8,1%
vào năm 2006 sẽ tăng lên 16,8% vào năm 2030. Những người này sẽ phải
dựa vào lương hưu hoặc con cái, và là vấn đề mà xã hội phải quan tâm để
có chính sách phù hợp.
II. Ảnh hưởng thay đổi dân số trên lượng học sinh, sinh
viên trong thời gian 2000-2006
Mẫu giáo
Mẫu giáo theo tiêu chuẩn quốc tế thường không được coi là giáo dục cưỡng
báchvì nhiều năm mẫu giáo mang chỉ là nhà trẻ, chủ yếu tạo sự dễ dàng cho cha
mẹ tham gia vào thị trường lao động, và đồng thời giúp trẻ em tham gia sinh hoạt
với trẻ em đồng tuổi nhằm phát huy các tiềm nămg giao tiếp xã hội. Khi ra khỏi
nhà trẻ để đi vào hệ tiểu học, học sinh không cần biết nhiều hơn là đánh vần và
đếm số, cho nên chỉ có năm cuối cùng của mẫu giáo dạy đánh vần và đếm số mới
mang tính giáo dục phổ cập vì cần thiết cho việc vào tiểu học.
Do đó tùy chính sách xã hội và khả năng kinh tế của từng nước mà mẫu giáo mang
tính phổ cập và thuộc trách nhiệu tài chính của nhà nước hay không. [2] Một số
nước tiên tiến như Úc, New Zealand, Nam Triều Tiên, Ireland cũng chỉ có chương
trình mẫu giáo một năm. Nhiều nước châu Âu có chương trình kéo dài 3 năm, Nga
và các nước Đông âu thậm chí có chương trình kéo dài 4 năm. Tỷ lệ ở độ tuổi đi
học do đó rất khác nhau, khó có nền tảng so sánh. Thí dụ ở Mỹ là 60%, Canada
65%, Anh 77%, Nhật 84%, Thụy Sĩ 93%, Úc 100%, Pháp 113%, Mã Lai 99%, Thái
Lan 92%, Trung Quốc 36%, Indonesia 22%.[3] Việt Nam hiện nay là 63%.
Ở Việt Nam, chương trình mẫu giáo kéo dài 3 năm, mà nhiều cha mẹ coi đó là bệ
phóng “thiên tài”, nên ngay từ tuổi nhỏ này đã bị nhồi nhét. Trong thời điểm kỳ
giữa năm 2000-2006, số lượng trẻ trong độ tuổi mẫu giáo đã giảm (coi bảng 3),
nhưng số lượng học sinh mẫu giáo vẫn tăng mạnh, từ 2,1 lên 2,6 triệu, tức là 24%,
đưa tỷ lệ trong độ tuổi đi học tăng từ 47% lên 63%. Số chi ngân sách cho mẫu giáo
là 4.096 tỷ đồng gần bằng ngân sách nhà nước (NSNN) chi cho đại học 4.881 tỷ
đồng. Nếu tính theo đầu học sinh thì NSNN chi cho mỗi học sinh mẫu giáo cao
hơn chi cho một học sinh trung học phổ thông là 38%. Đấy là chưa kể cha mẹ còn
phải trả học phí và phụ phí xây trường rất cao, có nơi lên tới 200 ngàn đồng một
tháng. Bộ GDĐT không công bố về số liệu phân bổ giữa nông thôn và thành thị,
nhưng chỉ quan sát sơ lược ta cũng có thể kết luận là NSNN chi tiêu chủ yếu phục
vụ người thành phố.
Bảng 2. số học sinh, sinh viên hai năm 2000, 2006
Mẩu Phổ Tiểu Trung
giáo thông học học THCS THPT Đại học
Năm/Tu
ổi 3-5 6-17 6-10 11-14 15-17 18-22
2000 2.113.57417.776.1009.741.1008.035.0005.863.6002.171.400 918.228
2006 2.617.16716.256.6007.029.4009.227.2006.152.0003.075.2001.666.200**
Số sinh viên là theo TCTK, cao hơn 100 ngàn so với số của Bộ GDĐT vì bộ chưa
tính sinh viên hệ khác cho năm 2006.
Bảng 3. dân số theo nhóm tuổi, 2000-2030
Dân số theo nhóm tuổi theo Tổng cục Thống kê và dự báo của tác giả
3-5 6-17 6-10 11-17 11-14 15-17 18-22
2000 4.463.854 21.717.410 9.045.916 12.671.494 7.377.955 5.293.539 7.386.302
2006 4.134.217 19.949.483 7.106.005 12.843.478 7.344.182 5.499.296 8.127.069
2015 4.194.699 16.872.401 6.415.414 10.456.987 5.929.887 4.527.100 7.348.098
2020 4.238.850 16.555.043 6.530.957 10.024.086 5.893.065 4.131.021 6.492.855
2030 3.764.385 16.659.383 6.350.359 10.309.024 6.095.466 4.213.558 6.202.966
Tỷ lệ thay đổi (%)
2000
-06 -7,4 -8,1 -21,4 1,4 -0,5 3,9 10,0
2000
-30 -15,7 -23,3 -29,8 -18,6 -17,4 -20,4 -16,0
2006
-30 -8,9 -16,5 -10,6 -19,7 -17,0 -23,4 -23,7
Tiểu học
Cũng như mẫu giáo, số trẻ đến tuổi đi học tiểu học giảm mạnh, từ 9 triệu xuống
còn 7 triệu, từ năm 2000 đến 2006. Nếu so với dân số trong độ tuổi thì số trẻ đi
học tiểu học (6 đến 10 tuổi) còn giảm mạnh hơn, từ 9,7 triệu xuống 7 triệu. Tỷ lệ
đi học do đó giảm từ 107,7%[4] xuống còn 98,9% (coi bảng 4), tức là giảm 8,8%
trong vòng 6 năm. Tỷ lệ giảm này cho ta thấy có hiện tượng học sinh bỏ học ở
Việt Nam trong thời gian qua, hoặc vì lý do không muốn đi học hoặc vì lý do
không có tiền đi học. Nếu tỷ lệ này tiếp tục giảm trong tương lai thì rõ ràng có
hiện tượng bỏ học. Dù sao, tỷ lệ đi học trong độ tuổi này ở Việt Nam là tỷ lệ có
thể so sánh với với hầu hết các nước trên thế giới.
Bảng 4. Tỷ lệ đi học theo độ tuổi 2000-2030
Tỷ lệ đi học năm 2000, 2006, 2015 và 2030 (%)
Mẩu Tiểu Trung
giáo Phổ thông học học THCS THPT Đại học
3-5 6-17 6-10 11-17 11-14 15-17 18-22
2000 47,3 81,9 107,7 63,4 79,5 41,0 12,4
2006 63,3 81,5 98,9 71,8 83,8 55,9 20,5
Tỷ lệ đi học nếu không tăng số học sinh/sinh viên
2015 62,4 96,4 109,6 88,2 103,7 67,9 22,7
2020 61,7 98,2 108,8 92,1 104,4 74,4 25,7
2030 69,5 115,1 110,7 89,5 100,9 73,0 26,9
Tỷ lệ đi học nếu tăng số sinh viên 5% năm
2015 35,2
2020 50,8
2030 86,6
Số sinh viên nếu tăng 5% năm
2015 2.584.823
2020 3.298.962
2030 5.373.662
Trung học
Khác với độ tuổi mẫu giáo và tiểu học bị tác động giảm sinh mạnh những năm sau
này, độ tuổi 11-17 giảm nhẹ hoặc không tăng, nhưng rõ ràng đã báo hiệu tình
trạng giảm trong tương lai. Đối với cấp trung học phổ thông, số học sinh tăng, do
đó tỷ lệ đi học tăng từ 41% lên gần 56% từ năm 2000 đến 2006. Nếu so với nhiều
nước trên thế giới thì tỷ lệ đi học trung học ở Việt Nam dù còn thấp so với các
nước phát triển cao, đã bằng hoặc trội hơn so với các nước đang phát triển có thu
nhập đầu người cao hơn (coi bảng 5). Tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đi học trung
học phổ thông (15-17 tuổi) ở Việt Nam cao hơn nhiều so với Trung Quốc.
Bảng 5. Tỷ lệ đi học trung học phổ thông (%)
Việt Nam 56* Nhật 102
Thái Lan 65 Úc 2343
Indonesia 46 Đức 96
Philippines 66 Pháp 111
Trung Quốc 36* Mỹ 87
Mã Lai 52 Anh 223 N
guồn: UNESCO, Global Education Digest 2006: Comparing Education Statistics
Across the World.
*Tỷ lệ của Việt Nam và TQ thuộc năm 2006 là do tác giả tự tính và không
cộng trung cấp chuyên nghiệp, các nước khác cũng thế. Số liệu TQ là từ
China Statistical Yearbook 2007. Các nước khác là số liệu năm 2004. Nếu
kể thêm trung học chuyên nghiệp (THCN) thì tỷ lệ của VN là 65%, và TQ là
47%. Điều này cho thấy tỷ lệ học sinh THCN ở VN chỉ bằng 14% học sinh
TH, nhưng TQ là 23,4%.
Đại học
Ở độ tuổi đi học đại học, tỷ lệ đi học tăng rất nhanh, từ 12,4% năm 2000 lên
20,5% năm 2006. Tỷ lệ này vào cùng năm 2006 ở TQ chỉ là 18%[5]. Người ta có
thể hiểu được là tỷ lệ đi học đại học tăng vọt vì TQ chỉ mở cửa tuyển vào đại
học vào đầu năm cuối những năm 1970 và đầu1980 khi Mao mất năm 1976. Nếu
so với các nước ở châu Á, dù có thu nhập GDP bình quân đầu người thấp hơn
nhiều, thì tỷ lệ đi học đại học ở Việt Nam trong độ tuổi 18-22 không phải là thấp
(coi bảng 6). Tất nhiên so với các nước tư bản phát triển Việt Nam còn rất thấp.
Tuy nhiên sự khác biệt giữa các nước cho phép ta rút ra vài nhận xét sau:
• Những nước có tỷ lệ học đi học đại học cao không nhất thiết có thu nhập
đầu người cao hơn các nước có tỷ lệ đi học thấp hơn. Điều này phản ánh
tỷ lệ thấp hơn ở Nhật, Thụy Sĩ và Pháp so với Úc, Mỹa
• Các nước có khuynh hướng xã hội (hay từng theo xã hội chủ nghĩa) thường
có tỷ lệ đi học đại học rất cao so với các nước có cùng mức thu nhập đầu
người, và tỷ lệ này tương đương hoặc thậm chí cao hơn các nước tư bản
phát triển. Như vậy tỷ lệ đi học đại học cao không nhất thiết đưa đến phát
triển kinh tế.
Bảng 6. Tỷ lệ đi học đại học (%) và GDP bình quân đầu người (USD)
GDP đầu người GDP đầu người Tỷ lệ GDP đầu người Tỷ lệ
2006 2006 đi học 2006 đi học
Việt Nam 21* Nhật 54 Thụy Điển 82
$675 $34661 $42170
Thái Lan 41 Úc 72 Nga $ 68
$3251 $37924 6877
Indonesia 16 Thụy Sĩ $50247 47 Ukraine $ 66
$1592 2287
Philippines 29 Pháp 56 Hungary 52
$1356 $35375 $11134
Trung Quốc $2055 18* Mỹ 82 Ba Lan $8801 59
$43562
Mã Lai 29 Anh 60 Cuba** 33
$5704 $39207 $4050
Nguồn: UNESCO, Global Education Digest 2006: Comparing Education Statistics
Across the World
*Tỷ lệ đi học của các nước là cho năm 2004. Riêng của Việt Nam và TQ
thuộc năm 2006 là do tác giả tự tính. Số liệu TQ là từ China Statistical
Yearbook 2007.
**Số liệu của Cuba là dựa vào hối suất phi thị trường do nhà nước quyết
định nên không mang tính so sánh với các nước phát.
Mặc dù bảo đảm mọi người được đi học tiểu học và rồi trung học phổ thông là
mục tiêu cần thực hiện vì nó đã được minh chứng rõ là điều kiện cần thiết cho
phát triển kinh tế. Việt Nam vẫn còn xa mới tới mức được coi là đạt được mục
đích phổ cập giáo dục trung học phổ thông. Tuy nhiên, cũng như nhiều nước, Việt
Nam đã đang tham dự vào cuộc chạy đua về phổ cập đại học. Tuy nhiên cũng như
kết quả nhiều nước đạt được, đó là sự xuống cấp nhanh chóng của chất lượng
đại học. Điều này sẽ được bàn them ở một bài khác.
III. Nhìn về phía trước
Có thể nói, Việt Nam gần như đã phổ cập cấp tiểu học, dù chưa nhưng không cần
cố gắng lắm vẫn có thể đạt được việc phổ cập cấp trung học cơ sở, nhưng sẽ
phải cố gắng nhiều mới có thể đạt được sự phổ cập trung học phổ thông.
Nhìn tới phía trước đến năm 2015, 2020 và 2030, ta có thể thấy như sau:
Ở cấp mẫu giáo (3-5 tuổi), số lượng trẻ đến tuổi đi học cấp này sẽ giảm hẳn về
số lượng, từ 4,1 triệu xuống 3,7 triệu. Dù số trẻ em đi học được giữ nguyên như
hiện nay, tỷ lệ đi học sẽ tăng từ 63% hiện nay lên 70% năm 2030.
Cấp tiểu học là gia đoạn đầu của giáo dục cưỡng bách. Hiện nay có thể nói là
Việt Nam đã đạt mức phổ cập dù có hiện tượng bỏ học như đã phân tích ở trên.
Do việc giảm số lượng dân trong độ tuổi đi học, từ 7,1 triệu hiện nay xuống 6,3
triệu vào năm 2030, số dân như vậy thấp hơn cả số học sinh đang đi học tiểu học
hiện nay là 7 triệu. Số lượng học sinh hiện nay sẽ bằng 110,7% dân số ở tuổi đi
học vào năm 2030 (coi bảng 4). Khả năng rất lớn là phải giảm số lượng học sinh,
lượng giáo viên và cơ sở giáo dục so với lượng học sinh tiểu học hiện nay.
Cũng tương tự như tiểu học, dân số đến tuổi trung học cơ sở (11-14 tuổi) sẽ giảm
mạnh, khoảng 1,3 triệu từ 7,3 triệu hiện nay xuống 6 triệu ngay vào năm 2015 và
cho đến 2030 vẫn giữ nguyên như thế. Hiện nay giáo dục phổ thông cơ sở coi như
phổ cập. Trong tương lai, giáo viên, có sở giáo dục có thể nói là không cần tăng về
số lượng vẫn có thể đạt mức phổ cập cấp.
Giáo dục trung học phổ thông (15-17 tuổi) vẫn cần phải tăng về số lượng để đạt
mức phổ cập. Tuy nhiên dù không tăng số lượng học sinh thì tỷ lệ học sinh đi học
vẫn tăng từ 60% năm 2006 lên 68% năm 2015, và 74% năm 2020. Việc phổ cập
giáo dục cho đến hết cấp phổ trung học phổ thông là điều cần thiết cho phát triển
kinh tế và sở nước ta ẽ không tốn kém như người ta tưởng.
Giáo dục đại học như đã nói ở trên đạt tỷ lệ 20,5% số người ở tuổi 18-22 vào năm
2006, và dù số lượng sinh viên không tăng trong tương lai, tỷ lệ cũng tự tăng lên
23% năm 2015, 26% năm 2020, và 27% năm 2030. Nếu số sinh viên hàng năm tăng
5% thì tỷ lệ ở tuổi 18-22 đi học sẽ là 35% năm 2015, 51% năm 2020 và 87% năm
2030. Như vậy chỉ tăng 5% một năm thì đến năm 2020, Việt Nam đã có thể so sánh
với rất nhiều nước phát triển cao về số lượng. Câu hỏi cần đặt ra là: chúng ta cần
chạy theo số lượng hay chất lượng? Bài viết tới sẽ phân tích nguyên nhân sự
xuống cấp của nền giáo dục đại học Việt Nam và qua đó bàn đến các giải pháp.
5 tháng 1, 2008
Phụ lục
Dự báo dân số
Phương pháp
Dự báo dân số ở đây dựa vào mô hình dự báo của Cục Thống kê Mỹ (US Bureau
of Census) về dân số Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả cũng đã điều chỉnh mô hình của
Cục Thông kê Mỹ nhằm đem vào thêm các thông tin về cơ cấu dân số theo tuổi
dựa trên điều tra biến động dân số năm vào 1/4/2005 của Tổng cục Thống kê
(TCTK). Tháp tuổi năm 2000 là dựa vào tháp tuổi năm 1999, kết quả của cuộc
Tổng điều tra dân số của TCTK năm đó.[6]
Mô hình của Cục Thống kê Mỹ dựa vào phương pháp dự báo nhóm - tuổi và giới
tính - (cohort component projection). Đây là phương pháp cũng được LHQ và Ngân
hàng Thế giới sử dụng. Liên quan đến Việt Nam, sau khi so sánh số liệu của LHQ
và Mỹ, tác giả quyết định dùng mô hình Mỹ, với điểm khởi đầu là năm 2000, vì
kết quả cho đến năm 2006 đi gần với số liệu hàng năm của Việt Nam. Phương
pháp này dựa nhiều vào đánh giá chuyên gia về tương lai, nhất là về số sinh, số tử
trong các nhóm tuổi và cho phép đưa các thông số mới nhất vào dự báo dựa vào
điều tra chọn mẫu hàng năm.
Việc tác giả dùng mô hình Mỹ thay vì tạo dựng một mô hình riêng có ba lý do là:
(a) việc làm này đòi hỏi thời gian và sự hiểu biết sâu về dân số, ngoài khả năng
của tác giả; (b) sự cần thiết có thông tin ngay để sử dụng trong dự án đánh giá nền
giáo dục Việt Nam, (c) tính khả tín về chuyên môn của Cục Thống kê Mỹ, một cơ
quan chuyên môn hàng đầu của thế giới về dân số hiện nay. Điều này không có
nghĩa là các chuyên gia Việt Nam không có thể có dự báo riêng thay thế dự báo
này. Phương pháp chỉnh lý của tác giả cũng khá đơn giản:
• Sử dụng số liệu dân số năm 2006 của TCTK, áp dụng nhóm độ tuổi theo
điều tra biến động vào tháng 4 năm 2005 cho số liệu dân số 2006.
• Sử dụng tốc độ tăng theo nhóm độ tuổi của mô hình Mỹ vào số liệu cho
năm 2006 để tính các năm tương lai.
• Sử dụng tốc độ tăng cho toàn dân số của mô hình Mỹ để tính cho các năm
sau đó. Sự khác biệt về cách tính ở trên và các tính ở dưới, dù không phải
là nhiều được đưa vào dân số độ tuổi từ 65 trở lên, với giả định là tuổi
thọ của nhóm tuổi này dài hơn.
Ngoài những chỉnh lý trên, một chỉnh lý quan trọng khác là đưa các nhóm độ tuổi
theo truyền thống báo cáo cho LHQ: 0-4, 5-9, 10-14, 15-19, 20-24, 25-29, 30-34, 35-
39, 40-44,45-49, 50-54, 55-59, 60-64, 65+ về nhóm độ tuổi tương đương với các
nhóm độ tuổi các bậc học của Việt Nam: 0-5, 6-10, 11-14, 15-17, 18, 22, 23-24.
Các nhóm tuổi khác không cần chuyển đổi. Cách chuyển đổi là sử dụng tỷ lệ từng
tuổi trong nhóm độ tuổi chi tiết của năm 2006 áp dụng cho các năm khác. Đối với
năm 2000 (không năm trong bảng dự báo kèm theo) vì không có tỷ lệ chi tiết, tác
giả dùng tỷ lệ đồng đều để phân bổ, sau khi thấy tỷ lệ trong nhóm độ tuổi nhỏ
của năm 2006 không khác nhau là bao nhiêu.
Bảng dự báo dân số theo độ tuổi từ 2006-2030
Nă
m 0-5 6-10 11-14 15-17 18-22 23-24 25-29 30-34 35-39 40-44 45-49 50-54 55-59 60-64 65+ Tổng
200 7.682.7 7.106.00 7.344.1 2.868.17 6.564.1 6.479.9 6.395.8 6.143.3 5.385.9 4.039.4 2.777.1 1.851.4 5.890.90 84.155.8
6 89 5 82 5.499.2968.127.069 2 52 97 41 73 71 78 41 28 6 00
200 7.631.1 6.937.00 7.159.3 5.522.7978.190.527 2.898.58 6.676.1 6.592.9 6.519.9 6.334.7 5.491.3 4.388.0 2.936.2 1.891.8 6.022.31 85.192.9
7 15 4 78 7 30 10 02 68 92 78 60 29 2 88
200 7.605.7 6.791.04 6.942.8 2.906.84 6.969.3 6.641.3 6.728.4 6.300.8 5.686.4 4.688.0 3.180.4 1.994.8 6.168.62 86.217.0
8 53 4 66 5.453.7708.158.538 7 10 31 08 48 64 16 10 59 4 86
200 7.593.5 6.668.77 6.707.3 2.894.54 7.276.2 6.756.5 6.814.0 6.347.2 5.868.5 5.032.2 3.389.3 2.158.0 6.262.30 87.227.3
9 96 3 83 5.372.4538.085.998 5 63 95 47 18 91 13 25 17 1 18
201 7.581.2 6.574.19 6.502.9 2.899.42 7.522.5 6.904.1 6.899.2 6.362.3 6.004.9 5.315.4 3.656.3 2.368.9 6.381.07 88.222.9
0 96 0 90 5.241.6258.008.319 1 76 94 74 18 36 60 31 06 7 13
201 7.579.7 6.505.72 6.328.4 2.911.47 7.711.8 6.947.2 7.044.8 6.473.3 6.022.8 5.689.0 3.854.0 2.610.4 6.471.85 89.203.1
1 52 0 08 5.110.4077.941.739 6 88 20 53 28 98 64 60 34 9 03
201 7.597.2 6.459.96 6.181.3 2.924.52 7.796.0 7.068.1 7.168.8 6.600.1 6.211.5 5.801.3 4.187.9 2.760.5 6.547.98 90.167.1
2 94 4 33 4.982.4447.878.851 0 07 96 90 65 58 66 61 85 7 24
201 7.629.6 6.436.94 6.068.3 2.888.44 7.820.3 7.381.8 7.223.1 6.812.9 6.179.7 6.009.9 4.477.0 2.993.1 6.636.71 91.114.2
3 16 2 45 4.832.2927.723.777 9 18 01 59 44 36 49 13 72 0 22
201 7.670.0 6.425.83 5.987.0 2.845.82 7.789.1 7.710.0 7.350.6 6.901.2 6.227.4 6.204.9 4.808.4 3.191.5 6.712.76 92.043.6
4 59 1 98 4.668.8697.549.676 6 03 58 84 42 98 27 56 59 0 46
201 7.714.6 6.415.41 5.929.8 2.776.90 7.804.0 7.973.7 7.513.7 6.989.2 6.244.8 6.352.2 5.082.7 3.446.8 6.835.09 92.954.6
5 74 4 87 4.527.1007.348.098 1 72 38 53 95 25 15 58 29 7 56
201 7.756.8 6.414.52 5.895.2 2.707.73 7.838.2 8.176.5 7.562.8 7.139.1 6.356.4 6.374.1 5.443.1 3.636.7 6.979.15 93.846.5
6 13 5 32 4.406.0977.159.695 5 39 81 65 32 46 35 07 66 3 20
201 7.790.1 6.429.89 5.879.8 2.640.24 7.874.8 8.267.6 7.697.0 7.267.0 6.483.5 6.575.8 5.551.9 3.953.3 7.016.43 94.718.5
7 11 7 31 4.304.2556.986.453 8 53 15 15 31 55 87 39 98 1 17
201 7.810.0 6.457.96 5.882.0 2.560.93 7.778.9 8.295.1 8.041.4 7.324.2 6.695.2 6.544.6 5.754.9 4.230.0 7.158.00 95.569.9
8 86 8 85 4.226.1636.810.006 6 30 54 26 83 38 70 16 69 7 38
201 7.812.1 6.492.87 5.890.1 2.474.57 7.665.2 8.263.6 8.401.7 7.455.9 6.784.2 6.598.5 5.944.6 4.546.6 7.262.61 96.400.0
9 26 0 52 4.170.2036.636.852 4 56 06 60 65 72 45 75 16 2 82
202 7.795.8 6.530.95 5.893.0 2.399.72 7.480.5 8.280.9 8.691.3 7.623.8 6.872.9 6.620.2 6.089.5 4.810.8 7.494.31 97.208.2
0 75 7 65 4.131.0216.492.855 0 71 90 90 07 63 91 76 72 3 67
202 7.761.2 6.567.18 5.901.3 2.335.90 7.295.1 8.318.5 8.914.3 7.675.8 7.022.9 6.741.9 6.114.1 5.155.6 7.705.42 97.993.8
1 39 0 23 4.107.5696.376.586 2 98 81 41 50 46 25 20 39 1 20
202 7.709.8 6.596.64 5.923.4 2.282.26 7.114.2 8.358.6 9.015.1 7.814.1 7.151.0 6.879.8 6.309.5 5.259.7 7.958.72 98.756.0
2 57 1 58 4.097.5476.285.190 6 53 98 37 59 16 33 70 39 1 85
202 7.643.4 6.615.54 5.955.7 2.241.24 6.901.3 8.258.0 9.046.8 8.166.3 7.209.6 7.107.4 6.282.3 5.456.1 8.288.52 99.494.4
3 59 1 90 4.099.8306.221.787 7 31 06 91 86 95 04 43 94 0 23
202 7.563.1 6.619.95 5.994.5 2.211.99 6.669.3 8.138.4 9.014.1 8.534.8 7.341.7 7.204.4 6.337.7 5.639.6 8.652.34 100.208.
4 39 1 08 4.106.1576.179.630 0 78 49 08 55 52 98 90 55 9 209
202 7.470.6 6.609.50 6.038.1 2.191.66 6.468.4 7.943.3 9.034.7 8.831.3 7.509.5 7.301.1 6.362.6 5.781.9 9.095.58 100.896.
5 33 3 34 4.108.8786.149.255 6 83 79 54 11 60 46 40 16 1 838
202 7.368.0 6.583.79 6.078.2 2.179.71 6.297.3 7.747.5 9.077.3 9.059.6 7.563.2 7.463.5 6.483.3 5.809.6 9.598.32 101.559.
6 73 4 83 4.115.3256.134.548 0 77 09 23 59 66 23 14 96 3 722
202 7.258.1 6.543.87 6.107.2 2.174.89 6.153.7 7.556.2 9.122.6 9.163.6 7.701.9 7.602.2 6.619.3 5.997.1 9.926.22 102.196.
7 48 8 43 4.131.4626.137.463 5 61 92 45 18 34 75 22 31 6 293
202 7.144.9 6.491.04 6.121.5 2.176.61 6.044.2 7.331.0 9.014.1 9.197.9 8.051.9 7.667.5 6.841.5 5.974.5 10.438.7 102.806.
8 89 8 56 4.154.7206.155.368 7 17 37 87 78 87 03 49 23 24 003
202 7.032.6 6.426.06 6.117.6 2.180.48 5.966.4 7.085.5 8.885.1 9.166.7 8.418.2 7.810.9 6.937.9 6.032.0 10.949.3 103.371.
9 09 8 51 4.182.4296.179.568 1 52 46 79 38 12 17 65 89 25 228
203 6.923.2 6.350.35 6.095.4 2.182.42 5.912.8 6.873.0 8.673.5 9.189.9 8.713.1 7.992.4 7.033.8 6.060.9 11.473.2 103.891.
0 62 9 66 4.213.5586.202.966 8 19 82 90 15 99 91 16 87 59 197
[1] World Bank, Vietnam: Higher Education and Skills for Growth, Draft for
comments, September 10, 2007, trang xi-xii.
[2] Ở Mỹ giáo dục cưỡng bách (phụ huynh hoàn toàn không phải chi trả học phí,
sách giáo khoa và tiền ăn trưa nếu thu nhập của bố mẹ ở dưới mức chuẩn) tùy
thuộc vào chính sách của Bang, thường bắt đầu từ 5 tuổi và kéo dài đến 18 tuổi,
gồm hai cấp: cấp tiểu học (primary education) và trung học (secondary
education). Cấp mẫu giáo (pre-primary education) thường là hai năm: 1 năm pre-
kindergarten không cưỡng bách và 1 năm kindergarten thường cưỡng bách. Cha
mẹ học sinh được quyền chọn cho con cái theo học ở trường tư, trường công
hoặc ở nhà dạy theo chuẩn của Bang (thường do cha mẹ tự dạy). Nhiều nơi,
Bang trả tiền và cho phép cha mẹ học sinh tự chọn nơi học. Coi:
http://en.wikipedia.org/wiki/Education_in_the_United_States.
[3] UNESCO, Global Education Digest 2006: Comparing Education Statistics
Across the World
[4] Tỷ lệ cao hơn 100% có nghĩa là có số học sinh ở độ tuổi cao hơn 10 tuổi vẫn
còn học tiểu học, hoặc là đi học muộn hoặc là bị ở lại lớp. Ở các nước không
chú trọng đến giáo dục, tỷ lệ này rất thấp, hoặc khi mới phát động chương trình
giáo dục hoặc sau chiến tranh tỷ lệ này lại rất cao, như Gabon (130%), Siera
Leone (145%)- theo UNESCO, Global Education Digest 2006: Comparing
Education Statistics Across the World.
[5] Tác giả tự tính dựa vào số liệu của TQ trong China Statistical Yearbook 2007.
[6] Có thể xem Tổng cục Thống kê: http://www.gso.gov.vn/default.aspx?
tabid=437&idmid=4
© Thời Đại Mới