CHIẾN LƯỢC KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
Chiến lược kinh doanh có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp. Nó định ra được các mục tiêu lớn, theo đó cần phải huy động hợp lý các nguồn lực cả ngắn hạn và dài hạn.
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ NHỮNG ƯU NHƯỢC ĐIỂM CỦA NÓ
1. Khái niệm kinh tế thị trường:
- Nền kinh tế được coi như một hệ thống các quan hệ kinh tế. Khi các quan hệ
kinh tế giữa các chủ thể biểu hiện qua mua, bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường
(người bán cần tiền, người mua cần bán và họ phải gặp nhau trên thị trường) thì nền
kinh tế đó gọi là nền kinh tế thị trường.
- Kinh tế thị trường là cách tổ chức nền kinh tế - xã hội, trong đó các quan hệ
kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua quan hệ mua, bán hàng
hoá, dịch vụ trên thị trường và thái độ cư xử của từng thành viên chủ thể kinh tế là
định hướng vào việc tìm kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị
trường.
- Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao. Khi tất cả các
quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất xã hội đều được tiền tệ hoá, các yếu tố
của sản xuất như: đất đai và tài nguyên, vốn bằng tiền và vốn vật chất, sức lao động,
công nghệ và quản lý, các sản phẩm dịch vụ tạo ra, chất xám đều là đối tượng mua -
bán và hàng hoá.
2. Những ưu điểm (đặc trưng) của kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự do cạnh tranh. Doanh nghiệp muốn
đứng vững được trên thị trường phải luôn luôn đổi mới về sản phẩm, về tổ chức
quản lý. Do vậy, nó luôn tạo ra lực lượng sản xuất cho xã hội, tạo ra sự dư thừa hàng
hoá để cho phép thoả mãn nhu cầu ở mức tối đa.
Ưu điểm:
Kinh tế thị trường luôn tạo ra cơ hội cho mọi người sáng tạo, luôn tìm cách để
cải tiến lối làm việc và rút ra những bài học kinh nghiệm về thành công hay thất bại
để phát triển không ngừng.
Kinh tế thị trường tạo ra cơ chế đào tạo, tuyển chọn, sử dụng người quản lý kinh
doanh năng động, có hiệu quả và đào thải các nhà quản lý kém hiệu quả.
Kinh tế thị trường tạo ra môi trường kinh doanh tự do, dân chủ trong kinh tế bảo
vệ lợi ích người tiêu dùng.
3. Những khuyết tật của kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có năng
suất, chất lượng và hiệu quả cao, dư thừa và phong phú hàng hóa. Dịch vụ được mở
rộng và coi như là hàng hoá. Thị trường năng động, luôn luôn đổi mới mặt hàng, công
nghệ.
Song ngoài những ưu điểm nêu trên, kinh tế thị trường còn tồn tại một số khuyết
tật sau:
- Kinh tế thị trường chú trọng đến những nhu cầu có khả năng thanh toán, không
chú ý đến những nhu cầu cơ bản của xã hội.
- Kinh tế thị trường, đặt lợi nhuận lên hàng đầu , cái gì có lãi thì làm, không có
lãi thì thôi nên nó không giải quyết được cái gọi là “hàng hoá công cộng” (đường xá,
các công trình văn hoá, y tế và giáo dục .v.v.)
- Trong nền kinh tế thị trường có sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt: giàu ít, nghèo
nhiều, bất công xã hội.
Do tính tự phát vốn có, kinh tế thị trường có thể mang lại không chỉ có tiến bộ
mà còn cả suy thoái, khủng hoảng và xung đột xã hội nên cần phải có sự can thiệp của
Nhà nước.
Sự can thiệp của Nhà nước sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự vận động của thị
trường được ổn định, nhằm tối đa hoá hiệu quả kinh tế, bảo đảm định hướng chính trị
của sự phát triển kinh tế, sửa chữa khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị
trường, tạo ra những công cụ quan trọng để điều tiết thị trường ở tầm vĩ mô. Bằng
cách đó Nhà nước mới có thể kiềm chế tính tự phát của kinh tế thị trường, đồng thời
kính thích đối với sản xuât thông qua trao đổi hàng hoá dưới hình thức thương mại.
KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
1. Khái niệm kinh doanh - nguyên tắc kinh doanh
2. Những đòi hỏi của kinh tế thị trường đối với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp
o Nhiệm vụ của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
o Điều kiện tồn tại và phát triển của các loại hình doanh nghiệp
trong cơ chế thị trường
1. Khái niệm kinh doanh - nguyên tắc kinh doanh
Kinh doanh là việc đầu tư tiền của, sức lực, trí tuệ, kỹ thuật và công nghệ vào
một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, hàng
hoá và dịch vụ theo nhu cầu của thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Như vậy, mục tiêu chính của kinh doanh là nhằm tạo ra lợi nhuận. Nhưng vì
mỗi doanh nghiệp thường có rất nhiều nhu cầu và không đòi hỏi phải có sự phân loại
các nhu cầu- có nghĩa là cần có sự lựa chọn mục tiêu. Doanh nghiệp cần đặt lên hàng
những mục tiêu nào gần nhất, có khả năng thực hiện lớn nhất. Vì vậy, việc lựa chọn
mục tiêu này cũng như việc lựa chọn mục tiêu lâu dài nhất đòi hỏi phải được thực
hiện trong những khoảng thời gian dài hơn.
Đối với doanh nghiệp thương mại hoạt động trong lĩnh vực phân phối và lưu
thông hàng hoá thường có 5 mục tiêu cơ bản như: lợi nhuận, thoả mãn các nhu cầu
cho khách hàng, chất lượng, giá cả, dịch vụ và cạnh tranh.
Để có thể thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh doanh, các doanh nghiệp thương
mại hoạt động trên thương trường đều phải tuân thủ những nguyên tắc sau:
1. Sản xuất, kinh doanh những hàng hoá dịch vụ có chất lượng tốt,
đáp ứng nhu cầu của khách hàng (kinh doanh cái mà thị trường cần).
2. Trong kinh doanh trước hết phải thu hút được khách hàng, rồi
sau đó mới nghĩ đến cạnh tranh.
3. Trong kinh doanh khi làm lợi cho mình đồng thời phải làm lợi
cho khách hàng.
4. Phải luôn tìm kiếm thị trường đang lên và chiếm lĩnh thị trường
một cách nhanh chóng.
5. Tích cực đầu tư tài năng và nguồn lực để tạo ra nhiều giá trị sản
phẩm.
6. Phải nhận thức và nắm cho được nhu cầu của thị trường để đáp
ứng một cách đầy đủ.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ bao
giờ cũng tuân theo cơ chế thị trường và thông qua hoạt động của doanh nghiệp.
2. Những đòi hỏi của kinh tế thị trường đối với hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp
a. Nhiệm vụ của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đều có nhiệm vụ chung sau:
o Hoạt động kinh doanh đáp ứng yêu cầu của thị trường.
o Thực hiện đầy đủ các cam kết với khách hàng về sản phẩm,
dịch vụ. Giải quyết thoả đáng các quan hệ lợi ích với các chủ thể kinh
doanh theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi.
o Chăm lo đời sống của người lao động trong doanh nghiệp.
o Bảo toàn và tăng trưởng vốn, mở rộng trong doanh nghiệp.
o Bảo vệ môi trường, bảo vệ sản xuất, bảo đảm an ninh, an toàn
trật tự xã hội.
o Chấp hành luật pháp, thực hiện chế độ hạch toán thống kê
thống nhất và các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
b. Điều kiện tồn tại và phát triển của các loại hình doanh nghiệp trong cơ
chế thị trường.
Để các doanh nghiệp có thể thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ
chế thị trường đòi hỏi phải có những điều kiện về tầm vi mô và vĩ mô.
Về tầm vĩ mô:
Doanh nghiệp phải có tư cách pháp nhân đầy đủ, doanh nghiệp phải thành lập
một cách hợp pháp (được cấp giấy phép kinh doanh) và có đủ số vốn pháp định.
Các doanh nghiệp cần phải xác định cho mình một chiến lược kinh doanh thích
hợp.
Phần lớn các doanh nghiệp hiện nay chưa có chiến lược phát triển dài hạn, kể
cả các doanh nghiệp có mục tiêu kinh doanh rõ ràng, nếu có chăng cũng chỉ là mục
đích mang tính định hướng chứ chưa có một phương án cụ thể.
Đối với các doanh nghiệp, việc xác định một chiến lược lâu dài có ý nghĩa rất
lớn. Nó sẽ giúp doanh nghiệp không những thích nghi được với những biến động của
thị trường mà còn chủ động thay đổi và hạn chế các biến động xấu.
Chiến lược của doanh nghiệp bao gồm nhiều nội dung trong đó đáng chú ý là
việc phân tích và xác định hiệu quả kinh tế - xã hội cần phải đạt tới, đổi mới nâng cao
chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, quan hệ với khách hàng và thu hút thêm
nguồn vốn với nước ngoài.
Nói chung, nội dung của chiến lược là phải trả lời câu hỏi: doanh nghiệp cần
phải làm gì để tồn tại và phát triển trong tương lai? Để cho việc xác định chiến lược
phát triển có căn cứ khoa học, doanh nghiệp cần phải đánh giá đúng hiện trạng của
mình trong sản xuất kinh doanh, cần phải có các thông tin cần thiết từ thị trường. Nhà
nước cũng cần hỗ trợ các thông tin cần thiết để giúp cho các doanh nghiệp định hướng
chiến lược của mình cũng như ổn định các chính sách chế độ đối với doanh nghiệp
trong thời kỳ nhất định.
Trong nền kinh tế thị trường, cùng việc thực hiện tốt các nhiệm vụ đã nêu trên
thì trong kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải chú ý đến 3 vấn đề cơ bản sau:
* Một là: Phải xây dựng chiến lược kinh doanh đúng
Chiến lược kinh doanh là phương hướng hoạt động của doanh nghiệp, nó quy
định sản phẩm hoặc dịch vụ mà doanh nghiệp đảm nhận, quy mô kinh doanh, các
nguồn lực của sản xuất, khả năng sinh lời cũng như triển vọng phát triển của doanh
nghiệp.
Trong chiến lược kinh doạnh, bộ phận quy định mục tiêu cần đạt về tài chính,
hiệu quả kinh tế xã hội trong kinh doanh, tốc độ tăng trưởng, phương thức và quy mô
kinh doanh. Các vấn đề liên quan đến tổ chức nội bộ và quan hệ với bên ngoài, các
quyết định liên quan đến lao động và thu nhập của người lao động... là bộ phận chiến
lược quan trọng nhất của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng trong nền kinh tế thị trường, hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp là hoạt động hướng tới cầu, hướng tới khách hàng và
cạnh tranh trên thị trường. Vì thế, trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp phải
bao gồm cả chiến lược khách hàng, chiến lược đối tượng cạnh tranh.
Việc xác định mục tiêu của chiến lược kinh doanh có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
và thông thường mục tiêu chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm:
+ Lợi nhuận.
+ Tạo thế lực trong cạnh tranh.
+ An toàn, tránh rủi ro trong kinh doanh.
Mục tiêu của chiến lược kinh doanh sẽ được điều chỉnh tuỳ thuộc vào bối cảnh
cụ thể của môi trường kinh doanh. Để thực hiện chiến lược đã được hoạch định,
doanh nghiệp cần phải xây dựng và thực hiện một số chính sách: chính sách sản
phẩm, chính sách giá cả, chính sách phân phối, chính sách giao tiếp, quảng cáo... và
cũng cần phải có kế hoạch cụ thể để triển khai chiến lược kinh doanh.
* Hai là: Phải nắm vững môi trường kinh doanh
Hoạt động kinh doanh được thực hiện trong những môi trường cụ thể, mức sinh
lời phụ thuộc trước hết vào khả năng phân tích và sự am hiểu môi trường kinh doanh
của các doanh nghiệp. Từ đó hoạch định chiến lược kinh doanh và thực hiện chiến
lược kinh doanh một cách nhất quán, năng động linh hoạt, không thụ động trước
những rủi ro.
Môi trường kinh doanh là một thực thể khách quan bao gồm tất cả các chủ thể
kinh doanh trên thị trường và tổng thể các yếu tố, các mối quan hệ tác động, chi phối
mọi hành vi hoạt động của họ. Môi trường kinh doanh có thể chia làm 2 nhóm:
Nhóm 1: Gồm những yếu tố và các mối quan hệ mà các chủ thể kinh doanh có
thể kiểm soát được. Để làm chủ được các mối quan hệ này, các nhà doanh nghiệp
phải hiểu được các loại hình thái thị trường cũng như quan hệ tương ứng của nó, từ
đó dự đoán tình huống, các rủi ro có thể xảy ra và có phương pháp ứng phó thích hợp.
Trong điều kiện cạnh tranh, sự thảnh bại của hoạt động kinh doanh phụ thuộc rất lớn
vào khả năng nắm bắt và làm chủ các yếu tố, các mối quan hệ của thị trường.
Nhóm 2: Gồm những yếu tố, những mối quan hệ nằm ngoài khả năng kiểm soát
của các nhà doanh nghiệp như các yếu tố về chính trị, luật pháp, lạm pháp, tập quán,
tôn giáo... Nhà doanh nghiệp phải tìm hiểu cặn kẽ để có phương thức xử lý thích hợp,
đặc biệt, phải nghiên cứu, nắm vững luật pháp để thực hiện đúng, đảm bảo quyền lợi
và trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh trước pháp luật.
* Ba là: Có cách ứng xử phù hợp với từng hình thái thị trường
Đối với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, mức cung, cầu và giá cả thị trường hoàn
toàn do thị trường quyết định. Vì thế, các doanh nghiệp phải chấp nhận giá cả hình
thành trên thị trường, đồng thời phải xác định lượng hàng bán ra sao cho có lợi nhất.
Muốn xác định lượng hàng bán ra đạt lợi nhuận cao nhất, cần phải xác định điểm hoà
vốn, phân tích được các loại chi phí, thu nhập... làm căn cứ tính toán, sao cho số lượng
hàng hoá kinh doanh trên thị trường phải dừng ở mức độ đạt hiệu quả cao nhất, nếu ít
hơn số lượng đó, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp sẽ giảm đi.
Đối với thị trường độc quyền, thường là người bán quyết định giá cả. Nhà doanh
nghiệp với tư cách là người bán phải tìm mức giá cả lợi cho mình, nhưng nếu muốn
tăng lượng hàng hoá bán ra để có tổng doanh số và tổng lợi nhuận cao, nhà doanh
nghiệp buộc phải giảm giá trên mỗi đơn vị hàng hoá.
Ở thị trường vừa có cạnh tranh, vừa có độc quyền để bán được hàng hoặc để
giành được ưu thế trong cạnh tranh dịch vụ, doanh nghiệp phải: cải tiến nâng cao chất
lượng hàng hoá, dịch vụ; hạ giá thành sản phẩm; đổỉ mới các phương pháp mua bán,
thanh toán giao tiếp... nâng cao trình độ văn minh thương nghiệp; tăng cường quảng
cáo và các dịch vụ khi bán hàng.
VAI TRÒ VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA
CHIẾN LƯỢC KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
1. Khái niệm chiến lược kinh doanh
2. Ưu điểm của chiến lược kinh doanh
Chiến lược kinh doanh là bộ phận quan trọng nhất trong toàn bộ chiến lược của
doanh nghiệp. Các bộ phận khác của chiến lược chung phải căn cứ vào chiến lược
kinh doanh để xây dựng và hiệu chỉnh. Chiến lược kinh doanh có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp. Nó định ra được các mục tiêu
lớn, theo đó cần phải huy động hợp lý các nguồn lực cả ngắn hạn và dài hạn. Nó đảm
bảo cho các kế hoạch không bị lạc hướng. Chiến lược kinh doanh được xây dựng tốt
giúp cho doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận, có chỗ đứng vững chắc an toàn trong
kinh doanh, chủ động thích ứng với môi trường kinh doanh.
Chính vì những lý do trên mà trong hoạt động kinh doanh của mình, các doanh
nghiệp cần phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp với từng điều
kiện và hoàn cảnh cụ thể, đây chính là yêu cầu cần thiết đối với bất cứ một doanh
nghiệp nào.
1. Khái niệm chiến lược kinh doanh
Chiến lược kinh doanh là phương hướng hoạt động của doạnh nghiệp, nó quy
định loại sản phẩm hoặc dịch vụ mà doanh nghiệp đảm nhận, quy mô kinh doanh, các
nguồn lực sản xuất, khả năng sinh lợi cũng như triển vọng phát triển của doanh
nghiệp.
2. Ưu điểm của chiến lược kinh doanh
Như vậy, ta có thể thấy chiến lược của doanh nghiệp là một sản phẩm kết hợp
những gì môi trường có? Những gì doanh nghiệp có thể? Những gì doanh nghiệp
muốn? Nói chung, trong đời sống của doanh nghiệp, chiến lược là một nghệ thuật
thiết kế tổ chức các phương tiện nhằm đạt tới các mục tiêu dài hạn (ở đây là mục tiêu
kinh tế), các mối quan hệ với một môi trường biến đổi và cạnh tranh.
Xác định chiến lược là một công việc cần thiết đối với sự tồn tại và phát triển
của bất cứ doanh nghiệp nào, bởi vì để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường,
cần phải biết rõ môi trường tồn tại của doanh nghiệp.
Chiến lược được hiểu như là một kế hoạch tổng hợp toàn diện thống nhất của
doanh nghiệp. Nó đưa ra các xu hướng phát triển trong thời gian dài, khẳng định mục
tiêu chủ yếu của doanh nghiệp, phác hoạ những nguồn lực cơ bản của doanh nghiệp,
nó gợi ý những phương cách đối phó với những thay đổi bất trắc thường dễ gặp nhất
của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh. Vì vậy chiến lược là một kế hoạch cơ
bản, nền tảng, có nhiệm vụ xác định (định vị) các nguồn lực, tạo ra sự thống nhất các
nguồn lực tập trung vào các mục tiêu, sử dụng sức mạnh của tổ chức để thực hiện các
mục tiêu đó.
Chiến lược cạnh tranh giúp các doanh nghiệp thương mại nắm bắt được các cơ
hội thị trường và tạo được lợi thế cạnh tranh trên thị trường bằng cách vận dụng các
nguồn lực có hạn của doanh nghiệp với kết quả cao nhằm đạt được mục tiêu đề ra,
giúp cho doanh nghiệp phải xem xét và xác định nên đi theo hướng nào?
Môi trường kinh doanh biến đổi nhanh luôn tạo ra các cơ hội và nguy cơ trong
tương lai (chiến lược kinh doanh sẽ giúp các doanh nghiệp tận dụng tốt các cơ hội và
giảm bớt các nguy cơ liên quan đến môi trường kinh doanh).
Chiến lược kinh doanh giúp cho doanh nghiệp chuẩn bị tốt hơn để đối phó và
làm chủ các diễn biến của thị trường.
Chiến lược kinh doanh còn giảm bớt rủi ro và tăng cường khả năng của các
doanh nghiệp trong việc tận dụng các cơ hội kinh doanh khi chúng xuất hiện.
NỘI DUNG CHIẾN LƯỢC
1. Chiến lược mặt hàng kinh doanh và dịch vụ
2. Chiến lược thị trường
3. Chiến lược vốn kinh doanh
4. Chiến lược cạnh tranh
5. Chiến lược Marketing
6. Chiến lược con người
1. Chiến lược mặt hàng kinh doanh và dịch vụ
Chiến lược mặt hàng kinh doanh và dịch vụ của doanh nghiệp cần phải được
xác định một cách cụ thể, từ đó doanh nghiệp có thể xây dựng được một chiến lược
phù hợp làm định hướng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong suốt một
thời kỳ hay một thời điểm nào đó. Việc xác định những mặt hàng kinh doanh và dịch
vụ cụ thể cũng nhằm tạo được lợi ích cho doanh nghiệp, cho khách hàng trên thị
trường.
Khi xây dựng chiến lược mặt hàng kinh doanh và dịch vụ, các doanh nghiệp cũng
nên đưa ra các điều kiện ưu đãi đối với khách hàng về những mặt hàng và dịch vụ mà
doanh nghiệp kinh doanh, những ưu đãi có thể về: giá cả, các hình thức bảo vệ, hỗ trợ
các hình thức dịch vụ sau bán hàng...
- Về giá cả: Doanh nghiệp có thể cung cấp cho khách hàng những mặt hàng kinh
doanh hoàn toàn tương tự về tính năng tác dụng mà thị trường đang có hoặc chưa có
với giá cả có thể thấp hơn hoặc cao hơn giá thị trường và hoàn toàn không làm ảnh
hưởng đến những mặt hàng khác trên thị trường.
- Sự khác biệt của sản phẩm: Dựa vào lợi thế này của doanh nghiệp mà có thể
cung cấp cho khách hàng những sản phẩm có sự khác biệt về tính kỹ thuật, về hình
thức thoả mãn nhu cầu của họ, về hình thức mẫu mã, danh tiếng cũng như uy tín của
doanh nghiệp hoặc bất kỳ một tiêu thức nào mà khách hàng quan tâm. Sự khác biệt
của mặt hàng kinh doanh mà doanh nghiệp lựa chọn nếu được khách hàng quan tâm,
chú ý sẽ có thể trở thành tiêu thức về chất lượng và là nhân tố giữ vững thị trường mà
doanh nghiệp nên phát huy.
- Về tốc độ cung ứng: Doanh nghiệp cần đáp ứng một cách tốt nhất độ thoả
mãn của khách hàng bằng cách đưa đến cho khách hàng những mặt hàng kinh doanh và
dịch vụ trong thời gian ngắn nhất. Điều này là hết sức quan trọng đối với những sản
phẩm có sự nhạy cảm trên thị trường đối với khách hàng. Do đó doanh nghiệp càng
đáp ứng tốt những đòi hỏi đó sẽ càng có lợi hơn.
2. Chiến lược thị trường:
Chiến lược thị trường là khâu cơ bản của doanh nghiệp. Mặt khác có thể thúc
đẩy khả năng hoà nhập giữa sản xuất và tiêu dùng.
Chiến lược về thị trường dựa trên việc xác định một cách đúng đắn nhu cầu của
khách hàng (có thể dự liệu kế hoạch và chu kỳ sản xuất). Nếu không xác định được
đúng nhu cầu của khách hàng, không đưa ra được sản phẩm có khả năng nuôi dưỡng
nhu cầu đó của khách hàng thì nhất định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp sẽ
bị loại bỏ. Điều này dẫn đến mất thị trường tiêu thụ hoặc khả năng đầu tư của doanh
nghiệp.
Để có thể dự liệu đúng nhu cầu của khách hàng, doanh nghiệp cần nghiên cứu
và xem xét thị trường trên những lát cắt cơ bản sau:
- Phân loại và xác định đối tượng phục vụ của doanh nghiệp trong quá trình sản
xuất kinh doanh (phân loại khách hàng).
- Xác định những biến động do doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tác động vào
đối tượng tiêu dùng mà doanh nghiệp đang hướng tới để từ đó xây dựng chiến lược
cạnh tranh với bạn hàng khác.
Trong điều kiện của quá trình sản xuất kinh doanh, không có một nhà doanh
nghiệp nào lại có thể đơn độc sống mà hoạt động có hiệu quả đem lại lợi nhuận cho
con người và giá trị tuyệt hảo cho khách hàng nếu không chịu liên doanh liên kết với
các chủ thể kinh doanh khác. Một thực tế đặt ra đối với các nhà doanh nghiệp là có
thể họ phải thực hiện liên doanh ở từng khâu trong tất cả các mặt hoạt động. Sự liên
kết, liên doanh như vậy là tiền đề tất yếu để tồn tại và thắng lợi trong cạnh tranh.
Chiến lược thị trường đòi hỏi phải xây dựng một kế hoạch có khả năng thích
ứng được với toàn bộ nhu cầu của khách hàng. Kế hoạch này được phân chia thành
những đơn vị kế hoạch chiến lược. Chúng có nhiệm vụ nắm chắc nhu cầu của khách
hàng, phỏng đoán các khả năng cạnh tranh để có thể khắc phục, tránh điểm yếu và
giành được thế mạnh.
3. Chiến lược vốn kinh doanh
Vốn kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại có vai trò hết sức quan trọng,
nó quyết định đến việc thành lập, hoạt động và phát triển của từng loại hình doanh
nghiệp. Nó là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất cho sự ra đời, tồn tại và phát triển
các doanh nghiệp. Do đó, tuỳ theo số vốn kinh doanh mà doanh nghiệp sẽ lựa chọn các
loại hình kinh doanh cho phù hợp. Mặt khác, vốn kinh doanh của doanh nghiệp lớn hay
nhỏ là một trong những điều kiện xếp doanh nghiệp vào loại hình kinh doanh theo quy
mô lớn, trung bình hay nhỏ. Nó cũng là một trong những điều kiện để sử dụng các
nguồn tiềm năng hiện có và tương lai về sức lao động, để mở rộng kinh doanh, phát
triển thị trường, mở rộng lưu thông hàng hoá.
Trong cơ chế kinh tế mới, trong điều kiện mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm trong sản xuất kinh doanh, việc doanh nghiệp có vốn và tích luỹ, tập trung
được vốn nhiều hay ít có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc đẩy mạnh kinh doanh.
Tuy nhiên nó là một nguồn lực quan trọng để phát huy tài năng của ban lãnh đạo doanh
nghiệp, nó là một điều kiện để thực hiện các chiến lược, sách lược kinh doanh...
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại là yếu tố về giá trị. Nó chỉ phát
huy tác dụng khi nguồn vốn này được bảo tồn và tăng lên được sau mỗi chu kỳ kinh
doanh. Nếu vốn kinh doanh không được bảo tồn và tăng lên sau mỗi chu kỳ kinh doanh
thì có thể doanh nghiệp sẽ phải chịu những thiệt hại lớn, có thể phải phá sản, do vốn
kinh doanh đã không được sử dụng một cách hiệu quả.
Tóm lại, trong chiến lược kinh doanh, các doanh nghiệp cần hết sức chú trọng
vấn đề vốn kinh doanh, phải xây dựng được các chính sách, biện pháp để bảo tồn
vốn. Tiến hành phân tích kỹ danh mục vốn đầu tư để từ đó xác định được danh mục
vốn đầu tư thích hợp cho từng loại hình kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc phân tích danh mục vốn đầu tư cho doanh nghiệp có thể phân tích theo quy
trình sau:
- Chọn cấp quản lý trong tổ chức để phân tích.
- Xác định được đơn vị phân tích.
- Lựa chọn phương án đầu tư vốn.
- Thu thập và phân tích số liệu.
- Dựng và phân tích các ma trận vốn đầu tư.
- Xác định danh mục vốn đầu tư thích hợp.
4. Chiến lược cạnh tranh
Trong chiến lược kinh doanh nói chung cũng như trong chiến lược cạnh tranh
của doanh nghiệp cần xác định được lĩnh vực, ngành kinh doanh và cách thức cạnh
tranh. Chiến lược cạnh tranh chủ yếu gồm 3 yếu tố cấu thành:
a. Lựa chọn sản phẩm thị trường:
Sự lựa chọn này nhằm giải đáp được câu hỏi: sản phẩm gì doanh nghiệp cần
kinh doanh, thị trường nào doanh nghiệp cần khai thác?. Thông thường, doanh nghiệp
nên lựa chọn phương pháp ma trận như sau để xác định sự lựa chọn sản phẩm thị
trường:
Sản phẩm đang có Sản phẩm mới
Thị trường đang có Tiếp tục thâm nhập sâu vào thị trường Phát triển sản phẩm
b. Lựa chọn phương thức cạnh tranh:
Có 3 phương thức lựa chọn để cạnh tranh trong phạm vi lĩnh vực kinh doanh trên
thị trường.
- Chỉ đạo về chi phí - giá cả: Một đối thủ cạnh tranh mạnh là người có khả năng
lãnh đạo về chi phí giá cả, nghĩa là đạt được chi phí thấp bằng cách tiết kiệm, kinh
nghiệm hoặc nhờ những nhân tố chi phí thấp…
- Nổi bật (khác biệt hóa): Doanh nghiệp muốn cạnh tranh hữu hiệu là doanh
nghiệp có thể mời chào người tiêu dùng những lợi thế nổi bật của doanh nghiệp như
công nghệ tốt hơn, dịch vụ tốt hơn, phân phối thuận lợi hơn hay uy tín tốt hơn.
- Trọng tâm chú ý: Doanh nghiệp cạnh tranh mạnh là doanh nghiệp có khả năng
tập trung thoả mãn các nhóm tiêu thụ cao cấp. Song với việc dùng chi phí thấp có thể
phát triển cả chiến lược nổi bật trong phạm vi hẹp.
c. Lựa chọn hành động cạnh tranh
Tức là doanh nghiệp phải xác định được cách thức mà doanh nghiệp phải đối
phó trong kinh doanh. Có thể doanh nghiệp cần có những hoạt động chính như:
- Hội nhập cạnh tranh: Trong kinh doanh, doanh nghiệp là người tìm thị trường
mới (doanh nghiệp là người bắt đầu) hay doanh nghiệp là người nhập cuộc.
- Chống lại: Doanh nghiệp sẽ phải đối phó như nào (trực tiếp hay gián tiếp)
hoặc là liên minh với những đối thủ cạnh tranh khác hoặc với những người ngoài cuộc
để chống lại đối thủ.
- Đầu tư: Đối với sản phẩm trên thị trường hiện tại, doanh nghiệp sẽ làm gì để
đầu tư thêm hay doanh nghiệp vẫn giữ nguyên mức độ, khai thác thêm hay có ý định
bỏ cuộc…
- Phát triển nội bộ - đối ngoại: Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh dự định phát
triển trên cơ sở tự lực, lôi kéo thêm các doanh nghiệp khác hay sát nhập với những
doanh nghiệp đó?
- Triển vọng về thời gian: Các doanh nghiệp cần xác định cho được hành động
kinh doanh nào là tạm thời, là ngắn hạn và hành động nào là lâu dài…
5. Chiến lược Marketing
Chiến lược Marketing bao gồm việc lựa chọn các khu vực thị trường, các mục
tiêu và xác định các phương pháp để đạt được điều đó thông qua các thủ thuật
Marketing hỗn hợp. Chiến lược Marketing bao gồm: chiến lược thâm nhập thị trường,
chiến lược phát triển thị trường, phát triển sản phẩm và đa dạng hoá kinh doanh.
Trong quá trình thành lập chiến lược Marketing, các doanh nghiệp cần tiến hành
thăm dò, thử nghiệm rất nhiều yếu tố bằng cách là nêu lên những câu hỏi, những vấn
đề thường xuyên có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc suy nghĩ kỹ càng về nhiệm vụ kinh doanh của doanh nghiệp thực chất là
đặt ra câu hỏi: “ Công việc kinh doanh của doanh nghiệp là gì và nó nên được làm như
thế nào?”. Việc đặt ra câu hỏi như vậy mới dẫn doanh nghiệp đến việc đặt ra các
mục tiêu, đến việc phát triển chiến lược và kế hoạch phát triển kinh doanh.
Chiến lược Marketing bao gồm việc lựa chọn các mục tiêu trên thị trường, và
xác định các phương pháp để đạt được các mục tiêu đó thông qua các biện pháp
Marketing đúng đắn, điều này sẽ dẫn đến sự hài lòng của người tiêu dùng và lợi
nhuận cho doanh nghiệp. Trong chiến lược Marketing việc thâm nhập thị trường buộc
doanh nghiệp phải có “âm mưu” cố gắng mở rộng hơn nữa tỷ trọng chiếm lĩnh thị
trường bằng cách lôi kéo, chiếm đoạt người tiêu dùng những sản phẩm của đối thủ
cạnh tranh. Muốn phát triển thị trường thì doanh nghiệp sẽ phải tập trung mọi nỗ lực
của mình vào những khu vực thị trường nào mà trước đây mình chưa có chỗ đứng.
Cùng với nó là việc doanh nghiệp không ngừng phát triển sản phẩm và tạo ra
được những sản phẩm mới. Khi đã sáng tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới thì doanh
nghiệp mới bành trướng được trên thị trường. Đó chính là chiến lược đa dạng hoá
kinh doanh trong chiến lược Marketing chung của doanh nghiệp (đa dạng hoá là việc
doanh nghiệp bành trướng ra thị trường bằng các sản phẩm, dịch vụ mới mà từ trước
đến nay doanh nghiệp chưa tiến hành kinh doanh).
Việc lựa chọn chiến lược Marketing phụ thuộc vào rất nhiều các nhân tố lớn
như: Sự phát triển của thị trường, sự phát triển của công nghệ, các hành động cạnh
tranh… các hành động của Nhà nước, các cơ sở sản xuất và các yêu cầu sản xuất, các
điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp, tài năng quản lý, các chính sách sản phẩm,
thể loại ngành kinh doanh, sự trợ giúp về tài chính…
Khi thành lập và thực hiện các quyết định chiến lược Marketing có thể cho thấy
rằng trong hoạt động kinh doanh của mình, chiến lược Marketing là một kế hoạch
hành động toàn diện. Nó được thành lập là để đáp ứng những đòi hỏi của một doanh
nghiệp nhất định. hoạt động trong một ngành kinh doanh nhất định và trong một môi
trường nhất định.
Môi trường Marketing của một doanh nghiệp trong bất cứ một ngành kinh doanh
nào đều luôn luôn thay đổi và sự thách thức đối với doanh nghiệp là phải hiệu chỉnh
các hoạt động của mình cho phù hợp với những yêu cầu mới, đòi hỏi mới và điều kiện
mới.
Những doanh nghiệp nào không làm được việc đó sẽ bị loại ra khỏi vòng kinh
doanh. Nếu một doanh nghiệp nào đó không phân tích một cách cẩn thận, kỹ càng tình
hình hiện tại và không dự đoán được điều kiện tương lai một cách thực tế thì sự sống
còn của nó trong thị trường luôn luôn biến động là một điều rất đáng ngờ. Khi phân
tích tình hình hiện tại, có những vấn đề sau cần được đặt ra đối với doanh nghiệp:
1. Doanh nghiệp đang kinh doanh cái gì?
2. Vị trí của doanh nghiệp trong ngành kinh doanh này là như thế nào?
3. Ai là khách hàng của doanh nghiệp? Thị trường của doanh nghiệp ở đâu?
4. Uy tín của doanh nghiệp trong con mắt của khách hàng như thế nào.v.v.
Và để dự đoán tình hình trong tương lai, doanh nghiệp cũng có thể đặt ra một số
câu hỏi như:
o Doanh nghiệp muốn kinh doanh cái gì trong thời gian tính từ khi doanh
nghiệp bắt đầu kinh doanh.
o Doanh nghiệp muốn chiếm lĩnh tỷ trọng thị trường là bao nhiêu?
o Doanh nghiệp có thể đầu tư tài chính cho sự phát triển của mình như
thế nào?
o Những loại khách hàng nào sẽ tạo lập thành thị trường của doanh
nghiệp?
Lập kế hoạch chiến lược Marketing có nghĩa là doanh nghiệp sẽ phải tổ chức
xác lập các biện pháp tổng hợp được kế hoạch hoá để phát triển một chiến lược, một
kế hoạch hành động rất toàn diện. Có rất nhiều các hành động tạo thành quá trình đó,
chúng bao gồm: Phân tích những cơ hội thị trường, đáp ứng những yêu cầu của thị
trường bằng cách thực hiện những thay đổi cần thiết trong sản phẩm và trong dịch vụ,
tiến hành những biện pháp giá cả và những biện pháp thúc đẩy, quảng cáo cần thiết,
đánh giá những kênh phân phối…
Bất cứ một kế hoạch chiến lược Marketing nào bao giờ cũng phải có các mục
tiêu chung và các chính sách chung. Có thể có rất nhiều cơ hội thị trường hấp dẫn
trong môi trường, nhưng chúng có thể không phù hợp với những gì mà doanh nghiệp
đang tiến hành. Chúng ta đều biết, khi doanh nghiệp tham gia vào ngành kinh doanh
hoàn toàn mới lạ thì có nguy cơ dẫn đến sụp đổ. Do đó, việc doanh nghiệp cần cân
nhắc sắp đặt các mục tiêu và chính sách của mình với các cơ hội của thị trường là
việc làm đòi hỏi một trách nhiệm rất cao, rất nặng nề đối với những ai nhận phần
phân tích các cơ hội có ở trên thị trường.
Sự phân tích cơ hội thị trường đòi hỏi phải có sự đánh giá chi tiết các xu hướng
quan trọng và những xu hướng hiện tại liên quan đến môi trường và hoạt động của
các doanh nghiệp. Một sự đánh giá phân tích như vậy phải thể hiện được tính quan
trọng và ảnh hưởng lâu dài của chúng.
Việc phân tích sâu sắc các cơ hội của thị trường và các xu hướng sẽ là tiền đề
cần thiết để doanh nghiệp tiến hành lập kế hoạch chiến lược . Tất nhiên việc này yêu
cầu thành lập những định đề cơ sở chính xác trước khi lập chiến lược Marketing.
Những định đề, luận điểm đó sẽ là cơ sở để lập kế hoạch chiến lược Marketing cho
thời gian tới của doanh nghiệp. Một khi chiến lược Marketing đã được xác lập thì các
kế hoạch hành động cùng với các hướng dẫn thi hành cũng cần phải được soạn thảo.
Kế hoạch hành động này khi được đem vào thực tế áp dụng sẽ dẫn đến kết quả là đạt
được các mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra trong hoạt động kinh doanh.
Điều hết sức quan trọng là những kế hoạch và chương trình như vậy phải được
liên hệ, liên kết với việc đạt được mục tiêu đã đề ra. Cần phải có những nỗ lực phối
hợp để làm sao các kế hoạch này là cụ thể và toàn diện.
Chiến lược Marketing cần phải được kiểm tra, dù chiến lược đó là chiến lược
phân chia khu vực thị trường, thâm nhập thị trường hay là phát triển để củng cố thị
trường. Sự kiểm tra sát sao là rất quan trọng vì nó giúp cho các chiến lược liên kết
thành một khối thống nhất.
6. Chiến lược con người
Để chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện tốt, có tính khả thi
cao thì cùng với việc hoạch định chiến lược, các doanh nghiệp cần phải coi trọng và
xây dựng một chiến lược có tính khoa học cao nhằm làm cho kế hoạch chiến lược
kinh doanh đạt được mục tiêu đã đề ra, đó chính là “chiến lược con người”.
Ở đây, chiến lược con người mà doanh nghiệp vạch ra chính là hệ thống cơ chế
quản lý con người trong doanh nghiệp, cơ chế này có ảnh hưởng trực tiếp đến tình
hình hoạt động kinh doanh theo định hướng chiến lược của doanh nghiệp cũng như nó
có ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng ở lại hoặc ra đi của những người hiện tại và
tương lai trong nội bộ doanh nghiệp. Chính vì vậy, nó là cơ chế mạnh mẽ nhất và
hiệu quả nhất trong việc định hình bối cảnh nội dung và việc thực hiện chiến lược
kinh doanh.
Về bối cảnh tổ chức:
Những ảnh hưởng mà bộ máy tổ chức gây tác động tạo nên một số thông số đặc
thù cho doanh nghiệp, đó là: tập hợp các niềm tin, tiêu chuẩn, cách thức làm việc.v.v.
và các khả năng này là các lực lượng, động lực cho việc thực hiện chiến lược của
doanh nghiệp. Các lĩnh vực của bối cảnh tổ chức bị tác động ảnh hưởng của bộ máy
tổ chức:
+ Sự rõ ràng của chiến lược:
Đó là mức độ giác ngộ mà những người trong doanh nghiệp nhận thức được cái
gì là quan trọng cần phải làm để có thể thành công về mặt chiến lược. Sự rõ ràng về
chiến lược có thể được đặc trưng bởi tính phổ cập chiến lược (mọi người có nhận
thức được nó không) và bản thân sự rõ ràng của chiến lược (các mục tiêu chiến lược
và bản thân chiến lược có rõ ràng không).
+ Sự sẵn có của thông tin:
Thể hiện ở chỗ người ra quyết định và người hành động có sẵn thông tin ở mức
độ nào.
+ Kỹ năng, khả năng độc lập:
Đó là mức độ các nhân viên có đủ trình độ cần thiết để thực hiện các nhiệm vụ
của mình hay không, điều này bị ảnh hưởng mạnh và chủ yếu bởi cơ chế quản lý con
người (tuyển, bổ nhiệm…)
+ Mức độ sáng tạo:
Đó là mức độ con người có thể tích cực hoá các hoạt động, ứng dụng các ý
tưởng mới, các phương pháp làm việc mới.
+ Mức độ hợp tác:
Là mức độ con người hoặc các đơn vị tổ chức trong doanh nghiệp có thiên
hướng hành động một cách cô lập, khép kín hay có xu hướng sẵn sàng hợp tác lẫn
nhau.
+ Nhận thức:
Đó là mức độ con người hiểu được cái gì quan trọng dưới lập trường của doanh
nghiệp, điều này gần tương tự với sự rõ ràng chiến lược mặc dù không hoàn toàn như
vậy. Sự khác biệt ở đây thể hiện sự rõ ràng về chiến lược là muốn chỉ ra sự rõ ràng
về các hành động, các mục tiêu chiến lược, còn nhận thức liên quan đến các tiêu
chuẩn, các giá trị. Điều này bị ảnh hưởng quan trọng, đặc biệt bởi hệ tư tưởng và cơ
chế quản lý con người.
+ Động lực:
Là mức độ con người được kính động vì lợi ích của doanh nghiệp hoặc họ áp
dụng một lập trường thụ động.
Qua đây có thể nhận thấy trong chiến lược kinh doanh chung của doanh nghiệp
thì vấn đề cần hết sức chú trọng là chiến lược con người. Do đó các doanh nghiệp
cần: sử dụng tối đa năng lực của những người trong doanh nghiệp, không ngừng đào
tạo chuyên môn cho họ và cũng cần có những biện pháp quản lý nhân viên trong doanh
nghiệp nhằm đáp ứng được yêu cầu của việc kinh doanh.
QUY TRÌNH XÂY DỰNG
CHIẾN LƯỢC KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
• Bước 1: Tìm kiếm cơ hội kinh doanh và dự báo nhu cầu thị trường
• Bước 2: Xây dựng (hoạch định) chiến lược kinh doanh
• Bước 3: “Lựa chọn và quyết định chiến lược kinh doanh”
Ở Việt Nam, trong thời kỳ chuyển đổi sang cơ chế thị trường, bất kỳ một doanh
nghiệp nào, nếu không có được một chiến lược kinh doanh thích hợp thì sẽ khó đứng
vững được trong môi trường kinh doanh đầy biến động. Đặc biệt là tính cạnh tranh
trong cơ chế thị trường hiện nay ngày càng trở nên gay gắt và khốc liệt hơn. Thực tế
thành công trên thương trường đã chứng tỏ một điều: các doanh nghiệp thịnh vượng
ngày càng lớn mạnh, có tiềm năng kinh tế lớn hơn là nhờ sự năng động, nhanh nhạy
trong môi trường cạnh tranh và có một chương trình hành động toàn diện đúng đắn,
tận dụng được những cơ hội kinh doanh, hạn chế được những rủi ro trên cơ sở phát
huy được lợi thế, khắc phục được những điểm yếu kém của doanh nghiệp mình.
Để xây dựng chiến lược kinh doanh, thông thường một doanh nghiệp cần phải
trải qua 3 bước: Tìm kiếm các cơ hội kinh doanh; xây dựng các chiến lược kinh doanh;
lựa chọn và quyết định “Chiến lược kinh doanh”.
* Bước 1: Tìm kiếm cơ hội kinh doanh và dự báo nhu cầu thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, do tính chất tự do cạnh tranh đã làm cho thị phần
của doanh nghiệp có xu hướng thu hẹp nhưng cũng nảy sinh những cơ hội mới.
Nhu cầu của khách hàng và khả năng sản xuất của các doanh nghiệp là muôn vẻ.
Vì thế cơ hội kinh doanh không phải là khan hiếm. Các doanh nghiệp sẽ phát hiện ra
nhu cầu chưa được đáp ứng cho thị trường, nếu biết cách tiếp cận, phân tích và tìm
hiểu nó.
Các doanh nghiệp phải có một quá trình nghiên cứu trong một khoảng thời gian
nhất định để phát hiện ra nhu cầu của thị trường v à từ đó có thể đáp ứng đòi hỏi của
thị trường. Các doanh nghiệp có thể nghiên cứu trực tiếp tại hiện trường hoặc nghiên
cứu gián tiếp tại văn phòng. Phương pháp nghiên cứu tại thị trường sẽ tạo cho doanh
nghiệp nắm bắt được chi tiết hơn về nhu cầu của thị trường: thị trường có sự thay
đổi (biến động) không? nhu cầu của thị trường cần phải thoả mãn đối với những loại
hàng hoá nào, các phương thức dịch vụ sau khi đáp ứng nhu cầu ra sao?... để từ đó
doanh nghiệp sẽ có định hướng kinh doanh nhằm đáp ứng những nhu cầu cần thiết
của thị trường.
Tuy nhiên khi thực hiện phương pháp nghiên cứu này, doanh nghiệp sẽ phải tốn
rất nhiều chi phí cho việc nghiên cứu thị trường. Ngoài việc phải mất chi phí, doanh
nghiệp sẽ phải giành khá nhiều thời gian cho công việc này. Khi sử dụng phương pháp
nghiên cứu tại văn phòng, các thông tin từ thị trường mà doanh nghiệp năm bắt, tiếp
cận không được rõ và chính xác lắm, nhưng với doanh nghiệp sẽ tốn ít chi phí cũng
như thời gian nghiên cứu hơn và do đó các quyết định có tính chiến lược trong hoạt
động kinh doanh được đưa ra sẽ thích ứng nhanh hơn với thị trường.
Dựa trên cơ sở đã hiểu biết về thị trường, các doanh nghiệp sẽ kết hợp với sở
thích kinh doanh của mình, khả năng tài chính, xem xét mức độ rủi ro... để chọn ra cơ
hội kinh doanh cho mình.
Các bước trong việc tìm kiếm cơ hội kinh doanh với các doanh nghiệp bao gồm:
Thứ nhất: Doanh nghiệp phải thống kê được đầy đủ tất cả các cơ hội kinh
doanh đã được phát hiện bằng quan sát, thu lượm thông tin phân tích thị trường và học
hỏi kinh nghiệm các doanh nghiệp khác.
Thứ hai: Doanh nghiệp cần phải phân loại các cơ hội kinh doanh trên thành các
nhóm, xếp những cơ hội kinh doanh gần giống nhau vào cùng một nhóm để tiện theo
dõi khả năng thực hiện các cơ hội đó.
Thứ ba: Xem mỗi nhóm như một cơ hội kinh doanh để tìm ra đặc trưng cho mỗi
nhóm. Sau đó chọn một số nhóm phù hợp với khả năng của doanh nghiệp để hướng
tới việc hoạch định chiến lược kinh doanh.
Đây có thể nói là khâu khó khăn và quan trọng nhất trong quá trình đi tìm kiếm
cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Bước này đòi hỏi nhà doanh nghiệp cần phải tư
duy và tầm nhìn chiến lược.
* Bước 2: Xây dựng (hoạch định) chiến lược kinh doanh
Để có chiến lược kinh doanh hiệu quả như mong muốn, khi xây dựng chiến
lược kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải đạt được những yêu cầu
sau:
Phải tăng được thế mạnh của doanh nghiệp, giành ưu thế cạnh
tranh trên thị trường.
Tính đến và xây dựng được vùng an toàn trong kinh doanh, phải
hạn chế độ rủi ro tới mức tối thiểu và nâng độ an toàn tới mức tối đa.
Cần phải xác định được phạm vi kinh doanh, mục tiêu then chốt
và những điều kiện cơ bản về vật chất kỹ thuật và lao động để đạt
được mục tiêu đó. Ngoài ra, những mục tiêu đó phải đi liền với hệ
thống chính sách và biện pháp thực hiện mục tiêu.
Cần phải có khối lượng thộng tin và tri thức đủ mạnh, phải có
phương pháp tư duy đúng đắn để có được những cái nhìn thực tế, sáng
suốt và nhạy bén trong dự báo môi trường kinh doanh.