logo

Chế độ kế toán Hành chính sự nghiệp & chuẩn mực kế toán công quốc tế:Khoảng cách và những việc cần làm

Hệ thống chuẩn mực kế toán (CMKT) công quốc tế do Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFA) ban hành làm cơ sở cho việc lập và trình bày báo cáo tài chính (BCTC) ở các đơn vị trực thuộc khu vực công
Chế độ kế toán Hành chính sự nghiệp & chuẩn mực kế toán công quốc  tế:Khoảng cách và những việc cần làm Tạp chí kế tóan, 05­10­2008. Số lần xem: 1987 Hệ thống chuẩn mực kế toán (CMKT) công quốc tế do Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFA) ban hành làm cơ  sở cho việc lập và trình bày báo cáo tài chính (BCTC) ở các đơn vị trực thuộc khu vực công. Theo đó,  BCTC của từng đơn vị trong lĩnh vực công và BCTC hợp nhất của Chính phủ đối với các đơn vị thuộc lĩnh  vực công đều phải lập và trình bày theo một khuôn mẫu thống nhẩt cho phù hợp với hệ thống CMKT công  quốc tế. Chế độ kế toán hành chính sự nghiệp (HCSN) Việt Nam được xây dựng trên cơ sở Luật Ngân  sách Nhà nước (NSNN) , Luật Kế toán  và các chính sách tài chính áp dụng cho đơn vị HCSN vẫn còn  nhiều điểm khác biệt so với hệ thống CMKT công quốc tế. Thứ nhất , về hệ thống BCTC. Theo CMKT công quốc tế (IPSAS ) , các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực  công hàng năm phải lập BCTC  là những đơn vị kinh tế có thể sử dụng kinh phí NSNN nhưng chịu sự kiểm  soát của Chính phủ hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.Các đơn vị kinh tế thuộc lĩnh vực công phải  lập BCTC theo IPSAS là các đơn vị hoạt động theo nguyên tắc tự cân đối thu chi . Chênh lệch gữa các  khoản thu ( bao gồm cả kinh phí NS cấp ) đã sử dụng trong quá trình hoạt động là thặng dư hoặc thâm  hụt thuần (doanh nghiệp gọi là lãi, lỗ) của đơn vị trong kỳ kế toán . Theo đó , IPSAS quy định các đơn vị  thuộc lĩnh vực công hàng năm phải lập 4 BCTC để công khai là : Bảng cân đối kế toán để phản ánh tình  hình  tài chính ; Báo cáo kết quả hoạt động để phản ánh quá trình hoạt động và xác định thặng dư hoặc  thâm hụt của đơn vị trong kỳ kế toán;Báo cáo lưu chuyển tiền tệ ; Thuyết minh BCTC. Còn ở Việt Nam, chế độ kế toán HCSN quy định , các đơn vị HCSN ( là đơn vị thụ hưởng NSNN chứ chưa  phải là đơn vị kinh tế theo IPSAS và các đơn vị HCSN khác) phải lập 6 báo cáo. Đó là, bảng cân đối tài  khoản (mẫu B01­H) thực chất là một phương pháp kiểm tra của kế toán.Bảng cân đối tài khoản không  phản ánh được tình hình tài chính , thực trạng , tài sản , nguồn vốn của đơn vị như đối với bảng cân đối kế   toán.Do vậy, người sử dụng thông tin không thấy được tài sản và nợ phải trả theo hai loại ngắn hạn và dài  hạn cũng như cơ cấu tài sản , nguồn vốn (phân theo 2 loại nợ phải trả và VCSH )của đơn vị.Báo cáo  “Tổng hợp tình hình kinh phí và quyết toán kinh phí đã sử dụng “ (Mẫu B02­H ) ; “Báo cáo thu, chi hoạt  động sự nghiệp và hoạt động SXKD”(Mẫu B03­H ) đế phản ánh tình hình hoạt động của đơn vị HCSN. Theo qui định tại IPSAS  , đơn vị thuộc lĩnh vực công phải lập báo cáo kết quả hoạt động để phản ánh  thu, chi phát sinh trong quá trình hoạt động để xác định thặng dư hoặc thâm hụt thuần của đơn vị trong kì  kế toán.Còn theo Chế độ kế toán HCSN , toàn bộ các khoản kinh phí đơn vị đã tiếp nhận và sử dụng  trong kì kế toán được phản ánh riêng ở báo cáo B02­H. Nếu thực hiện theo IPSAS , toàn bộ các khoản thu bao gồm cả số kinh phí đã tíêp nhận và các khoản chi  bao gồm cả số kinh phí đã sử dụng phát sinh trong kỳ được phản ánh vào báo cáo kết quả hoạt động.Còn  ở Việt Nam , toàn bộ các khoản thu , chi của đơn vị HCSN  được phản ánh ở 2 báo cáo riêng biệt trong đó  , kinh phí đã tiếp nhận và sử dụng phản ánh ở báo cáo B02­H; Các khoản thu , chi hoạt động sự nghiệp  và hoạt động SXKD phản ánh ở báo cáo B03­H . Theo IPSAS , các đơn vị thuộc lĩnh vực công phải xác  định thặng dư hoặc thâm hụt thuần trên cơ sở so sánh chênh lệch các khoản thu , chi phát sinh trong  kỳ .Cũng theo IPSAS , các khoản thu chi phát sinh trong quá trình hoạt động cuả đơn vị được phản ánh  theo nguyên tắc cơ sở dồn tích .Còn theo qui định của Chế độ kế toán HCSN , toàn bộ quá trình tiếp nhận  và sử dụng kinh phí NSNN và các khoản thu , chi của hoạt động sự nghiệp được phản ánh về cơ bản theo  nguyên tắc cơ sở tiền mặt , các khoản thu , chi của hoạt động SXKD được phản ánh theo nguyên tắc cơ  sở   dồn   tích. Có thể nói , chỉ các nước phát triển mới có khả năng áp dụng ngay IPSAS vì bộ chuẩn mực này được xây  dựng trên cơ sở nền tài chính công ở các quốc gia phát triển ở mức độ cao, trong đó , quan hệ NSNN với  các đơn vị SN được thực hiện theo đơn đặt hàng , hoạt động sự nghiệp của đơn vị này được coi là các dịch  vụ công thực hiện theo đơn đặt hàng của Nhà nước và khi hoàn thành nghiệm thu sẽ được Nhà nước  thanh toán.Các đơn vị thuộc lĩnh vực công ở các nước này là các đơn vị hoạt động theo nguyên tắc hạch  toán kinh tế , tự cân đối thu, chi. Quy định cuả IPSAS cho khu vực công là hoàn toàn phù hợp với các nước có nền kinh tế phát triển , cũng  như hệ thống CMKT quốc tế áp dụng cho khu vực tư nhân hoàn toàn phù hợp với các nước có nền kinh tế  thị trường phát triển ở mức độ cao với loại hình DN chủ yếu là công ty cổ phần niêm yết.Trong khu vực  công , thể chế chính trị , quan hệ cấp phát , thanh toán giữa NSNN với các đơn vị thuộc lĩnh vực công và  tài chính công giữa các quốc gia còn nhiều khác biệt. Thực tế ở Việt Nam , hệ thống BCTC của đơn vị HCSN  theo qui định hiện hành đã đáp ứng được yêu cầu  quản lý nhà  nước  , phù  hơp với Luật NSNN và  các chính  sách  quản  lý tài chính  đối với các đơn vị  HCSN.Tuy nhiên , BCTC của đơn vị HCSN  hiện nay mới chỉ là 1 bộ phận cấu thành để tổng hợp vào báo  cáo quyết toán ngân sách nhằm phục vụ điều hành ngân sách của Quốc hội .BCTC của đơn vị HCSN  hiện nay chưa phải là BCTC của 1 đơn vị kinh tế bị kiểm soát , phục vụ cho việc hợp nhất BCTC của  Chính phủ để công khai nhằm cung cấp đầy đủ thông tin giúp cho tất cả công dân có thể kiểm tra , giám  sát , đánh giá năng lực tài chính và kết quả hoạt động của quốc gia trong từng năm tài chính. Trong hệ thống BCTC của đơn vị HCSN hiện nay chưa có Báo cáo lưu chuyển tiền tệ .Do đó , để thực  hiện được IPSAS  thì việc đầu tiên bắt buộc phải tiến hành , đó là các quy định về quản lý ngân sách và  tài chính công phải được nghiên cứu , xem xét để ban hành cho phù hợp với thong lệ chung của các nước.  Tiếp đó , Việt Nam cần phải nghiên cứu nắm vững IPSAS , học tập kinh nghiệm , cách làm các nước để  nghiên cứu , ban hành Hệ thống CMKT công sao cho phù hợp với thể chế chính trị , tính chất nhà nước ,   với đặc điểm và yêu cầu quản lý kinh tế của Việt Nam. Thứ hai , về đặc điểm đơn vị HCSN  ở Việt Nam . Các đơn vị HCSN ở Việt Nam hiện đang thực hiện nhiều  hoạt động SXKD và đầu tư tài chính dưới nhiều hình thức khác nhau, chưa được qui định đầy đủ , nên  không có cơ sở để qui định về kế toán . Các hoạt động SXKD và đầu tư tài chính đang diễn ra ở các đơn  vị HCSN chưa có hướng dẫn như: kế toán doanh thu cung cấp dịch vụ (đặc biệt là các dịch vụ liên quan  đến nhiều kỳ như dịch vụ KHKT… ) ; kế toán chi phí đi vay , hang tồn kho , thuê tài sản , các khoản dự  phòng , công cụ tài chính. Thông tư số 71/2006/TT­BTC ngày 9/8/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 43/2006/ NĐ­CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quỳên tự chủ , tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm  vụ , tổ chức bộ máy , biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập quy định : Đơn vị HCSN của   các hoạt động liên doanh, liên kểt cần thực hiện theo qui định Chuẩn mực số 07­Kế toán các khoản đầu tư  vào công ty liên kết, Chuẩn mực 08 – Thông tin tài chính về các khoản vốn góp liên doanh ( ban hành  theo Quyết định số 234/2003/QĐ­BTC ngày 30/12/2003 của Bộ tài chính) là Chuẩn mực kế toán doanh  nghiệp nên không phù hợp với CMKT số 07,08 hướng dẫn về hoạt động liên doanh , liên kết của IPSAS  áp dụng cho khu vực công. Từ việc quy định gượng ép như vậy nên các đơn vị HCSN thực hiện không thống nhất , các cơ quan nhà  nước không có căn cứ xử lý khi kiểm tra , kiểm toán.Do vậy , trong thời gian sớm nhất , Việt Nam cần  nghiên cứu , xây dựng để ban hành ngay 1 số Chuẩn mực kế toán công trên cơ sở IPSAS nhưng phù hợp  với điều kiện của Việt Nam làm cơ sở pháp lý cho việc hướng dẫn kế toán như : Chuẩn mực kế toán hàng  tồn kho , doanh thu bán hang và cung cấp dịch vụ , hơp đồng xấy dựng , thuê tài sản , chi phí đi vay , kế  toán các khoản đầu tư vào công ty liên kết , thông tin tài chính về các khoản vốn góp lien doanh. Thứ ba , về lập báo cáo tài chính hợp nhất.Theo chuẩn mực kế toán công quốc tế , đơn vị kinh tế (đơn vị  báo cáo )là một hoặc một nhóm đơn vị kiểm soát và một hoặc nhiều đơn vị bị kiểm soát : đơn vị kiểm soát  phải lập BCTC hợp nhất của các đơn vị bị kiểm soát. Để lập BCTC hợp nhất , đơn vị kiểm soát phải xác  định các đợn vị bị kiểm soát.Theo IPSAS , kiểm soát là quyền chi phối các chính sách tài chính và hoạt  động của đơn vị nhằm thu được lợi ích từ hoạt động của các đơn vị đó và đơn vị phải có quyền kiểm soát  theo qui định của pháp luật hoặc theo những thoả thuận chính thức , như : Đơn vị có thẩm quyền quyết  định thành lập và chi phối các chính sách tài chính và hoạt động ; có quyền giải thể , thu hồi , xử lý tài sản  và có trách nhiệm về các khoản nợ phải trả của các đơn vị khi giải thể . Như vậy theo IPSAS , chính phủ và từng Bộ , ngành , tỉnh , thành phố … đều là các đơn vị kinh tế , đều  phải lập BCTC trên cơ sở hệ thống CMKT công . BCTC của Chính phủ theo IPSAS  phải được hợp nhất từ  BCTC  của tất cả các đơn vị trung gian do Chính phủ kiểm soát , trong đó , bào gồm cả đơn vị được hoặc  không được Nhà nước cấp kinh phí , vốn ; đơn vị có thể hoạt động độc lập không được Chính phủ hoặc cơ  quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập hoặc giải thể… Các đơn vị chịu sự kiểm soát của  Chính phủ phải được hợp nhất vào BCTC của Chính phủ. Trong xu thế hội nhập , các quốc gia phải lập BCTC  hợp nhất cho toàn bộ lĩnh vực công theo khuôn mẫu  thống nhất của IPSAS để phản ánh tình hình tài chính , kết quả hoạt động và xác định thặng dư , thâm  hụt cho từng năm để có thể so sánh trên phạm vi toàn cầu theo 1 tiêu chí chung nhất . BCTC của từng  quốc gia không phù hợp với CMKT công quốc tế thì không thể so sánh và khó có thể thừa nhận của quốc  tế đối với quốc gia . Điều này không chỉ là sự cần thiết , yêu cầu của hoạt động kinh tế , đầu tư đa quốc ga  mà quan trọng hơn là việc công bố các thông tin minh bạch sẽ tạo ra lợi thế cho các khoản đi vay , cho  vay giữa các quốc gia và với các tổ chức quốc tế . Tuy nhiên , ở Việt Nam , việc lập Báo cáo quyết toán NS để phục vụ điều hành ngân sách của Quốc hội  đã quá quen thuộc , cong việc lập BCTC cho toàn bộ khu vực công theo hệ thống CMKT công còn quá xa  lạ . Các khái niệm về khu vực công và sử dụng trong CMKT   công còn quá xa lạ và phức tạp với Việt  Nam .Như đơn vị kinh tế trong lĩnh vực công phải lập BCTC ; BCTC hợp nhất ; đơn vị kiểm soát ; đơn vị bị  kiểm soát ; kiểm soát vì mục đích BCTC ; lợi ích và sở hữu của cổ đông thiểu số ; hoạt động liên doanh  liên kết giữa các chính phủ của các nước ; hoạt động đầu tư , kể cả đầu tư của Nhà nước đã vượt ra ngoài  biên giới quốc gia. Khoảng cách giữa chế độ Kế toán HCSN Việt Nam với CMKT  công quốc tế là khá lớn.Do đó , ban hành  CMKT công là việc cần phải làm ngay. Để làm được điều đó phải chuyển biến về nhận thức; phải đổi mới  phương thức quản lý NSNN. TS Hà Thị Ngọc Hà­Bộ Tài chính (Tạp chí Kế toán)
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net