Câu Chuyện Triết Học
Nếu bạn nhìn vào một bản đồ của Âu châu, bạn sẽ thấy rằng Hy Lạp giống như một bàn tay chìa các ngón ra
biển Địa trung hải. Phía nam là hòn đảo Crète hình như nằm gọn trong các ngón tay, ngàn năm trước Tây lịch
(tTL) đó là nơi khởi đầu của văn minh nhân loại. Về phía đông là lãnh thổ thuộc về Á châu tuy ngày nay có vẻ
lạc hậu nhưng dưới thời Platon là một lãnh thổ rất trù phú với một nền thương mãi, kỹ nghệ cực thịnh và...
Câu Chuyện Triết Học
1
Chương 1 :
Nguyên tác : The Story of Philosophy - Will Durant PLATON
1. BỐI CẢNH:
Nếu bạn nhìn vào một bản đồ của Âu châu, bạn sẽ thấy rằng Hy Lạp giống như một bàn tay chìa các ngón ra
biển Địa trung hải. Phía nam là hòn đảo Crète hình như nằm gọn trong các ngón tay, ngàn năm trước Tây lịch
(tTL) đó là nơi khởi đầu của văn minh nhân loại. Về phía đông là lãnh thổ thuộc về Á châu tuy ngày nay có vẻ
lạc hậu nhưng dưới thời Platon là một lãnh thổ rất trù phú với một nền thương mãi, kỹ nghệ cực thịnh và một
nền văn hoá phong phú. Về phía tây là nước Ý giống như một toà lâu đài ở giữa biển, các đảo Sicile và nước
Y-pha-nho (Tây Ban Nha). Tại những nơi đó có những nhóm người Hy lạp sinh sống; cuối cùng là xứ Gibraltar,
nơi đầy nguy hiểm cho các thuỷ thủ mỗi khi muốn vượt eo biển này. Về phía bắc là những xứ man rợ như
Thessaly, Epirus và Macédonie. Từ những xứ ấy nhiều bộ lạc xuất phát và mở những cuộc tấn công về phía
nam, những trận đánh do những văn nhân Hy lạp như Homère kể lại mà những chiến sĩ như Périclès chỉ huy.
Hãy nhìn một lần thứ hai vào bản đồ, bạn sẽ thấy nhiều chỗ lồi lõm ở bờ biển và núi đồi trong đất liền, đâu đâu
cũng có những vịnh nhỏ và những mỏm đá trồi ra biển. Nước Hy lạp bị chia cắt và cô lập bởi những chướng
ngại thiên nhiên đó. Sự đi lại và liên lạc ngày xưa khó khăn hơn bây giờ rất nhiều. Do đó mỗi vùng tự phát triển
lấy nền kinh tế, tự thành lập lấy nền hành chánh chính trị, tự phát huy tôn giáo, văn hoá và ngôn ngữ của mình.
Những quốc gia như Locris, Etolia, Phocis, Béothia v.v.
Hãy nhìn vào bản đồ một lần thứ ba và quan sát vị trí của tiểu quốc Athènes: đó là một tiểu quốc nằm về phía
cực đông của Hy lạp. Đó là cửa ngõ của Hy lạp để giao thiệp với các quốc gia thuộc vùng Á châu, đó là cửa
ngõ để Hy lạp thu nhận những sản phẩm và ánh sáng văn hoá từ bên ngoài. Ở đây có một hải cảng rất tiện
lợi, hải cảng Pirus, rất nhiều tàu bè đến trú ẩn để tránh những lúc sóng to gió lớn. Ngoài ra Pirus còn là nơi
xuất phát một hạm đội chiến tranh hùng mạnh.
Vào khoảng năm 490 trước Tây lịch, hai tiểu quốc Sparte và Athènes quên mối hận thù để hợp lực cùng nhau
đánh đuổi quân xâm lăng Ba Tư lăm le biến Hy lạp thành một thuộc địa của mình. Trong cuộc chiến tranh này,
Sparte cung cấp lục quân và Athènes cung cấp thuỷ quân. Khi chiến tranh chấm dứt, Sparte giải ngũ quân đội
và chịu sự khủng hoảng kinh tế do sự giải ngũ này sinh ra. Trong khi đó thì Athènes khôn ngoan hơn, biến hạm
đội tàu chiến thành một hạm đội tàu buôn và trở nên một nước buôn bán giàu mạnh nhất thời thượng cổ.
Sparte điêu tàn trong nghề canh nông và bị cô lập với thế giới bên ngoài, trong khi Athènes trở nên thịnh vượng
và là một nơi giao điểm của nhiều chủng tộc, nhiều nguồn tư tưởng, văn hoá, sự chung đụng nảy sinh sự so
sánh, phân tích và suy nghiệm.
Những truyền thống, lý thuyết gặp gỡ nhau, chống đối nhau, tự đào thải nhau và được cô đọng lại. Trong khi
có hàng ngàn tư tưởng chống đối nhau, người ta có khuynh hướng hoài nghi tất cả những tư tưởng ấy. Có lẽ
những thương gia là những người nhiều hoài nghi nhất vì họ thấy quá nhiều, bị tuyên truyền quá nhiều, họ có
khuynh hướng coi người khác nếu không phải là những người ngu thì cũng là những người lưu manh, họ hoài
nghi tất cả những nguồn tư tưởng. Theo với thời gian họ phát triển khoa học; toán học nảy sinh nhờ sự giao
hoán, thiên văn học nảy sinh với nhu cầu hàng hải. Với sự phát triển nền kinh tế, con người có nhiều thì giờ
nhàn rỗi, được hưởng nhiều tiện nghi trong một không khí trật tự và an ninh. Đó là những điều kiện tiên quyết
để nghiên cứu và suy tư. Người ta nhìn vào các ngôi sao trên trời không những để tìm phương hướng cho chiếc
tàu đang lênh đênh trên mặt biển mà còn để tìm bí mật của vũ trụ: những triết gia Ha lạp đầu tiên là những nhà
thiên văn. Aristote nói rằng sau khi thắng cuộc chiến tranh, các người Hy lạp tìm cách phát huy chiến quả và
mở rộng nỗ lực vào nhiều lãnh vực khác. Người ta cố tìm những lời giải đáp cho những bài toán trước kia được
giao phó cho các thần linh quản trị, những tế lễ tà thuyết nhường bước cho khoa học, triết lý bắt đầu từ đó.
Khởi đầu triết lý là một môn học có tính cách vật lý, người ta quan sát thế giới hữu hình với hy vọng tìm thấy
yếu tố khởi thuỷ của tất cả vạn vật. Một lối giải đáp tự nhiên là thuyết duy vật của Démocrite (460 - 360 tTL).
Démocrite nói rằng: "trong vũ trụ chỉ có nguyên tử và hư không", đó là nguồn tư tưởng chính của Hy lạp, người
ta lãng quên nó trong một thời gian nhưng nó lại được sống dậy với tư tưởng của Epicure (342-279 tTL) và
Lucrèce (98-55 tTL). Tuy nhiên khía cạnh quan trọng nhất và đặc sắc nhất của nền triết học Hy lạp được thể
hiện trong tư tưởng của những nguỵ luận gia đó là những người đi lang thang rày đây mai đó để tuyên truyền
cho chủ nghĩa của mình, họ gắn bó với tư tưởng của mình hơn tất cả mọi vật trên đời. Phần đông họ là những
người rất thông minh hoặc rất thâm thuý, họ bàn cãi về tất cả những vấn đề mà người đương thời thắc mắc,
họ đặt câu hỏi cho tất cả các vấn đề, họ không sợ đụng chạm đến các tôn giáo hoặc các tư tưởng chính trị
của các vua chúa, họ mạnh dạn chỉ trích tất cả các định chế xã hội hoặc lý thuyết chính trị trước công luận. Về
mặt chính trị họ được chia làm hai phái. Một phái giống như Rousseau cho rằng thiên nhiên là tốt, văn minh xã
hội là xấu, trong thiên nhiên tất cả mọi người đều bình đẳng và con người trở nên bất bình đẳng với các định
chế xã hội, luật lệ là những phát minh của những kẻ mạnh để trói buộc và thống trị kẻ yếu. Một nhóm khác
giống như Nietzsche cho rằng thiên nhiên vượt ra ngoài phạm vi của cái xấu và cái tốt, trong thiên nhiên con
người đã mất bình đẳng, luân lý là một phát minh của kẻ yếu để giới hạn và doạ nạt kẻ mạnh, sức mạnh là
nền đạo đức tối thượng và sự ao ước tối thượng của con người, và chế độ chính trị cao đẹp nhất hợp thiên
nhiên nhất là chế độ quý tộc.
Sự tấn công tư tưởng dân chủ là phản ảnh của sự thịnh vượng của một nhóm người giàu có ở Athènes họ tự 2
lập một đảng gọi là lực lượng những người ưu tú. Đảng này chỉ trích tư tưởng dân chủ là vô hiệu lực. Thật ra
Chương 2
Nguyên tác : The Story of Philosophy - Will Durant ARISTOTE ( 384 – 322 tTL )
1. MỘT CHÚT LỊCH SỬ:
Aristote sinh tại Stagira tại tiểu quốc Macédoine cách Athènes 200 dặm, vào năm 384 tTL. Cha của ông
làm nghề thầy thuốc, bạn thân của quốc vương Macédoine Amyntas. Ông này là tổ phụ của Alexandre đại
đế. Hình như Aristote là đoàn viên của một y sĩ đoàn danh tiếng thời ấy, ông có tất cả những cơ hội thuận
tiện để học hỏi và phát triển tri thức.
Có hai giả thuyết về thời kỳ niên thiếu của Aristote. Một giả thuyết cho rằng ông là một thiếu niên thích ăn
chơi, phung phí tiền của đến nỗi trở nên nghèo nàn đói rách, không có nghề sinh nhai phải vào lính trong
một thời gian. Mãi đến năm 30 tuổi mới đến xin học và trở thành môn đệ của Platon (427 – 348 tTL) . Giả
thuyết thứ hai không chấp nhận thời kỳ ăn chơi và phung phí tiền của. Theo giả thuyết này Aristote đến
Athènes từ lúc 18 tuổi và trở thành môn đệ của Platon bắt đầu từ đó.
Ông học với Platon vào khoảng từ 8 đến 20 năm, con số 20 năm có lẽ đúng hơn nếu ta xét ảnh hưởng của
Platon trong các tác phẩm của Aristote. Người ta có thể tưởng tượng rằng thời kỳ sống với Platon là một
thời kỳ lý tưởng trong cuộc đời Aristote. Một môn đệ thông minh xuất chúng được ở gần một giáo sư toàn
năng. Sự thật thì mối liên quan giữa hai thầy trò không phải luôn luôn tốt đẹp. Platon lớn hơn Aristote gần
50 tuổi (43 tuổi – chú thích của người đánh máy !), chỉ sự cách biệt ấy cũng không làm dễ dàng sự thông
cảm. Platon công nhận rằng Aristote là một môn đệ thông minh xuất chúng, hiếu học vì Aristote là một
trong những người đầu tiên trong lịch sử nhân loại biết sưu tầm những tài liệu viết tay thời bấy giờ để lập
thành một thư viện. Nhà của Aristote được Platon gọi là nhà đọc sách, nhiều người cho đó là một lời khen,
nhưng cũng có người cho đó là một lời chê có ý ám chỉ đến tinh thần quá chú trọng vào sách vở của
Aristote. Một sự bất hoà khác quan trọng hơn xảy ra vào cuối đời Platon. Aristote có vẻ chống lại tư tưởng
của Platon và nhiều khi không đồng ý với Platon. Thái độ này làm Platon rất bất bình coi Aristote như một
đứa con vô ơn. Một vài học giả cho rằng Aristote lập một trường hùng biện. Trong số các môn sinh có
Hermias sau này thành người cầm quyền tiểu quốc Atarneus. Để tỏ lòng nhớ ơn thầy cũ, Hermias mời
Aristote về sống tại triều đình và năm 344 tTL, Hermias giới thiệu người chị của mình làm vợ Aristote. Cuộc
hôn nhân là một sự thành công mỹ mãn. Sau đó một năm quốc vương Macédoine là Philippe mời Aristote
về triều đình để dạy cho thái tử Alexandre. Đó là một vinh dự rất lớn cho Aristote, vì Philippe cũng như
Alexandre là những vị vua danh tiếng và hùng mạnh nhất trong lịch sử nhân loại. Philipe chinh phục Thrace
năm 356 tTL để chiếm những mỏ vàng vô cùng phong phú gấp 10 lần số vàng của Athènes. Thần dân của
Philippe là những nông dân khoẻ mạnh, những chiến sĩ dũng cảm biết chịu đựng gian khổ. Nhờ những yếu
tố ấy Philippe và Alexandre đã thôn tính hàng trăm tiểu quốc và thực hiện được sự thống nhất Hy lạp.
Philippe không ưa chủ nghĩa cá nhân đương thời mặc dù chủ nghĩa này có kết quả tốt đẹp đối với nghệ
thuật và đời sống tinh thần của dân Hy Lạp. Philippe cho rằng chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc của sự đồi
truỵ kinh tế cũng như chính trị. Chính dựa vào chủ nghĩa này mà những kẻ lưu manh chính trị có thể lơi
dụng sự tin tưởng quá dễ dãi của dân chúng để mặc tình thao túng chính trường gây nên bè phái, giai cấp,
âm mưu chống đối nhau. Philippe quyết chấm dứt tình trạng trên để thực hiện một nước Hy Lạp thống
nhất và hùng mạnh xứng đáng là trung tâm chính trị của thế giới thời bấy giờ. Trong thời niên thiếu Philippe
đã học quân sự tại Thèbes. Năm 338 tTL ông chiến thắng tại Athènes và thực hiện được sự thống nhất
của nước Hy Lạp. Ông mong mỏi sẽ cùng người con là Alexandre tiếp tục cuộc chinh phục thế giới nhưng
giấc mộng của ông bị tan vỡ vì ông bị ám sát.
Khi Aristote đến nhận việc thì Alexandre là một cậu bé 13 tuổi bồng bột và ốm yếu, ưa cưỡi ngựa và tập
ngựa. Những cố gắng của Aristote để làm dịu sự bồng bột của Alexandre hình như không đem lại nhiều
kết quả. Theo một vài sử gia Alexandre coi Aristote như cha ruột của mình và về phần Alexandre cũng đã
từng tuyên bố muốn học hỏi và coi trọng sự hiểu biết hơn là chinh phục thế giới. Nhưng đó chỉ là những lời
lẽ xã giao vì không đúng với sự thật. Alexandre luôn luôn là một chiến sĩ thích chinh phục, sau khi thọ giáo
2 năm với Aristote, Alexandre nối ngôi cha và bắt đầu chinh phục thế giới. Sự thành công của Alexandre có
lẽ một phần nào do ảnh hưởng của Aristote và người ta thường so sánh thiên tài của Aristote trong lãnh
vực triết lý với thiên tài của Alexandre trong lãnh vực chính trị. Cả hai vĩ nhân này đều có công với nhân
loại: một bên thống nhất thế giới, một bên thống nhất triết lý.
Sau khi cất quân chinh phục Á châu, Alexandre để lại ở Hy Lạp những chính phủ trung thành với ông
nhưng không được dân chúng ủng hộ. Truyền thống dân chủ của người Hy Lạp không thể một sớm một
chiều bị lu mờ trước sức mạnh của đội quân Alexandre. Tại những chính phủ này, những đảng lên cầm
quyền được mệnh danh là đảng Macédoine hay là đảng thân Alexandre. Năm 334 tTL Aristote trở về
Athènes sau một cuộc du hành và lẽ cố nhiên không dấu cảm tình đối với đảng Macédoine tại đó. Công
3
trình khảo cứu khoa học, triết lý, chính trị của Athènes tuy rất bao la nhưng không phải là hoàn toàn theo
đuổi trong sự yên tĩnh. Nhiều biến cố chính trị luôn luôn đe doạ Aristote và nhóm cộng sự viên, công trình
này hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự thành công của Alexandre trên lãnh vực chính trị. Những nhận xét trên đây
còn cho phép chúng ta hiểu rõ tư tưởng chính trị của Aristote.
2. CÔNG VIỆC CỦA ARISTOTE:
Mặc dù ở trong một tiểu quốc đang sôi sục vì những biến cố chính trị, Aristote đã thành công trong việc lập
nên một trường học lấy tên là Lyceum. Rất nhiều môn đồ đến xin thụ giáo đến nỗi cần phải đặt ra những
phép tắc luật lệ để giữ gìn trật tự. Những môn đồ này tự bầu cử một uỷ ban để cai quản các công việc của
trường. Họ thường ở lại và ăn uống ngay trong trường, các buổi học thường được tổ chức ngoài đồng
trống. Trước kia Platon cũng đã thành lập một trường lấy tên là Academy chuyên nghiên cứu về toán học
và chính trị. Lyceum của Aristote chuyên nghiên cứu về sinh lý học và động vật học. Alexandre ra lệnh cho
các nhà săn bắn và chài lưới phải đem nộp cho Aristote tất cả những giống vật mới lạ. Tục truyền có cả
thảy một đội quân 1000 người rải rác khắp Hy Lạp và Á châu để sưu tầm những giống vật mới lạ, Aristote
là người đầu tiên đã lập nên vườn bách thảo và sở bách thú trên toàn thế giới. Ngoài sự ủng hộ của
Alexandre Aristote còn bỏ vào đó một số vốn rất lớn, ông là một người có nhiều tiền của nhờ cưới vợ giàu
và có quyền thế, có lần bên nhà vợ đã tặng Aristote một số tiền tương đương với 4 triệu Mỹ kim theo thời
giá hiện nay để dùng vào việc nghiên cứu khoa học. Có người cho rằng chính Aristote đã khuyến cáo
Alexandre chinh phục Ai cập với mục đích thám hiểm vùng thượng lưu sông Nil để biết rõ nguyên nhân
những trận lụt xảy ra ở Ai cập. Ngoài ra, Aristote còn sưu tầm 158 bản hiến pháp.
Tuy nhiên chúng ta phải nhớ rằng những phương tiện nghiên cứu của Aristote vô cùng thô sơ so với những
phương tiện nghiên cứu tối tân của chúng ta ngày nay. Ông phải đo lường thời gian mà không có đồng hồ,
đo lường nhiệt độ mà không có hàn thử biểu, xem thiên văn mà không có viễn vọng kính, đoán thời tiết mà
không có phong vũ biểu. Những phương tiện duy nhất mà Aristote đã sử dụng là một cái thước và một cái
compas. Sức hút của trái đất, hiện tượng phát điện, áp lực không khí, nguyên lý ánh sáng, nhiệt lượng và
hầu hết những lý thuyết tân tiến của khoa học hiện đại đều hoàn toàn chưa được phát minh.
Những tác phẩm của Aristote lên đến hàng trăm cuốn. Có người bảo 400 cuốn, có người bảo 1000 cuốn.
Những cuốn còn lại đến dời nay chỉ là một số nhỏ nhưng cũng có thể lập thành một tủ sách. Trước hết là
những tác phẩm về luận lý dạy các cách xếp đặt và phân loại các ý nghĩ. Rồi đến các tác phẩm khoa học
như vật lý học, thiên văn học, khí tượng học, vạn vật học, những sách nói về sự phát triển và suy tàn, về
linh hồn, về cơ thể sinh vật, về cử động và về sự sinh đẻ. Loại thứ ba là những sách dạy về cách viết văn
và làm thơ. Loại thứ tư là những sách về triết lý như đạo đức học, chính trị học và siêu hình học.
Toàn thể các tác phẩm có thể xem là một bộ bách khoa của Hy Lạp nhưng khác với bộ bách khoa của các
nước khác ở chỗ chỉ do một người viết ra. Công trình của Aristote xứng đáng được so sánh với công trình
của Alexandre. Văn chương của Aristote không bóng bẩy và thi vị như của Platon, đó là một loại văn
chương chính xác và khoa học. Aristote phải đặt thêm nhiều từ ngữ mới để có thể diễn tả tư tưởng. Những
từ ngữ Âu Mỹ hiện nay phải mượn ở những tác phẩm của Aristote như "faculty, mean, maxim, category,
energy, actuality, motive, end, priciple, form ...". Những chữ này không khác gì những viên gạch để xây
dựng tư tưởng và góp phần rất lớn trong công cuộc phát triển tư tưởng đời sau. Aristote còn viết nhiều tác
phẩm văn chương nhưng đến nay đã thất truyền.
Có người cho rằng những tác phẩm của Aristote không phải do chính Aristote soạn thảo mà do các môn đệ
soạn thảo sau khi ghi chú các bài giảng của Aristote. Phần lớn những tác phẩm này được xuất bản sau khi
Aristote qua đời. Chỉ có một số ít tác phẩm về luận lý và văn chương được xuất bản khi Aristote còn sống.
Một số những tác phẩm khác về siêu hình học và chính trị được sưu tầm từ đống giấy tờ do Aristote để lại.
Có người cho rằng trong tất cả các tác phẩm và Aristote chúng ta có thể tìm thấy một lối viết văn giống
nhau, điều này chứng tỏ rằng các môn đệ của Aristote thấm nhuần tư tưởng của thầy một cách sâu xa,
nếu không phải tự tay Aristote soạn thảo ra các tác phảm của mình thì các tư tưởng trình bày chắc chắn là
của Aristote.
3. NỀN TẢNG CỦA LUẬN LÝ HỌC
Giá trị của Aristote là ở chỗ ông đã phát minh môn học mới, hoàn toàn không dựa vào các tác phẩm từ
trước để lại. Lối suy luận của người Hy Lạp trước thời Aristote không được minh bạch, chính Aristote đã
chấn chỉnh tình trạng này bằng cách đặt ra những quy luật cho sự suy luận. Ngay cả Platon đôi khi cũng
vấp phải lỗi lầm suy luận không chính xác. Dưới thời trung cổ, một ngàn năm sau khi Aristote qua đời
người ta còn hăng say dịch lại các sách về luận lý để theo đó mà hướng dẫn tư tưởng.
Luận lý có nghĩa là nghệ thuật và phương pháp suy nghĩ chính xác. Đó là phương pháp của tất cả các
4
khoa học , tất cả các nghệ thuật kể cả âm nhạc. Luận lý học là một khoa học vì nó có thể được trình bày
dưới nhiều định luật giống như các định luật vật lý và hình học, nó cũng là một nghệ thuật vì nó tập cho tư
tưởng quen với lối suy nghĩ chính xác.
Socrate rất chú trọng đến những định nghĩa, đó là bước đầu của luận lý học. Platon luôn luôn tìm cách làm
sáng tỏ các ý niệm của mình. Voltaire thường nói: "Nếu anh muốn nói chuyện với tôi, trước hết hãy định
nghĩa các danh từ của anh !". Rất nhiều cuộc tranh luận vô ích, rườm rà, tốn nhiều giấy mực và xương
máu có thể tránh khỏi nếu các phe liên hệ định nghĩa rõ ràng những danh từ của mình. Đó là nền tảng của
luận lý học, tất cả các ý niệm, các danh từ đều phải được cân nhắc kỹ càng, đó là một công việc khó khăn,
nhưng một khi đã làm xong thì mọi khó khăn đã bớt đi được một nửa.
Làm thế nào để định nghĩa một vật hoặc một danh từ ? Aristote trả lời rằng trong mọi định nghĩa chính xác
cần phải có 2 phần: phần thứ nhất chỉ rõ vật ấy thuộc loại nào, phần thứ hai chỉ rõ trong loại ấy, vật ấy có
những gì đặc biệt ? Ví dụ người là một con vật có lý trí. Định nghĩa này nêu rõ 2 phần: phần thứ nhất chỉ rõ
người là một con vật, phần thứ hai chỉ rõ người khác những con vật khác ở chỗ nào: ở lý trí.
Có một vấn đề đã làm cho Aristote bất đồng với Platon và gây ra nhiều cuộc tranh luận sôi nổi. Theo
Aristote thì những danh từ như: người, sách, cây ... chỉ những vật tổng quát và trừu tượng không có trên
thực tế. Những vật có thật phải được xác định bằng những tên gọi như ông Athènes, ông B.
Theo Platon thì những vật tổng quát có thực chất và tồn tại lâu dài hơn những vật đã được xác định. Vì lẽ
ấy mà Platon đã cho rằng Quốc gia có trước cá nhân. Sự cách biệt này có ảnh hưởng rộng lớn trong tư
tưởng của hai triết gia. Aristote thì thực tế, luôn luôn chú trọng đến hiện tại và có một thái độ khách quan.
Trong khi Platon thì mơ mộng, luôn luôn nghĩ đến tương lai và có một thái độ chủ quan. Một trong các phát
minh của Aristote trong lãnh vực luận lý là tam đoạn luận. Đó là một lối suy luận theo 3 phần, phần thứ ba
hay là phần kết luận theo sau phần thứ nhất và phần thứ hai. Thí dụ người là con vật có lý trí, Socrate là
người, vậy Socrate là một con vật có lý trí. Tam đoạn luận có thể được áp dụng trong toán học theo các
công thức sau đây: A = B, B = C vậy C = A. Điều khó khăn cần phải giải quyết trong một tam đoạn luận là
nếu phần thứ nhất không được chính xác thì phần kết luận lẽ cố nhiên cũng sai. Tuy nhiên, người ta
thường chú trọng đến phần kết luận hơn là phần thứ nhất, do đó tam đoạn luận không đem đến những kết
quả tốt. Với sự trình bày các phương pháp luận lý Aristote đã có công lớn với nhân loại là đặt nền tảng cho
phương pháp suy luận chính xác mặc dù môn luận lý học gặp những chông gai và được coi như một môn
học khó hiểu.
4. HỆ THỐNG KHOA HỌC :
4.1. Khoa học Hy Lạp trước thời Aristote:
Học giả Renan cho rằng Socrate đem triết lý cho nhân loại, còn Aristote đem khoa học cho nhân loại. Đành
rằng trước Socrate và trước Aristote cũng có khoa học và triết lý nhưng còn trong trạng thái thô sơ. Đã có
nhiều cuộc nghiên cứu của người Hy Lạp để phát triển khoa học nhưng những cuộc nghiên cứu ấy ngày
nay không thể xem là khoa học mà chỉ có thể xem như một loại thần học. Nói một cách khác, dân Cổ Hy
Lạp có khuynh hướng giảng giải tất cả những hiện tượng thiên nhiên như là hành vi của các thần linh.
Một vài người tiên phong tìm cách đi ra khỏi ngõ bí ấy. Thalès (649 - 550 tTL) được coi là cha đẻ của triết lý
xuất thân là một nhà thiên văn lên tiếng công kích thói mê tín, xem các tinh tú trên trời như những thần linh.
Môn đệ của Thalès là Anaximandre có công vẽ những vị trí của những tinh tú và đưa ra thuyết táo bạo
rằng vũ trụ trước kia chỉ là một khối loãng, các hành tinh và định tinh từ trong khối ấy mà ra. Vũ trụ xoay
vần theo từng chu kỳ hợp rồi tan, tan rồi hợp. Trái đất nằm trên không trung nhờ sức hút, tất cả các hành
tinh đều có chất lỏng, dần dần chất lỏng ấy bốc hơi do ảnh hưởng của mặt trời. Đời sống bắt đầu ở dưới
biển và lần lần xuất hiện trên mặt đất vì biển bị bốc hơi. Những con vật không còn nước để sống dần dần
tập thở không khí, đó là thuỷ tổ của những giống vật sống trên đất. Ngay cả loài người cũng phải có một
hình dáng khác bây giờ. Vì nếu loài người quá yếu ớt lúc sơ sinh và đòi hỏi quá nhiều thời gian để trưởng
thành như ngày nay thì không sao có thể tồn tại đến ngày nay.
Một triết gia khác Anaximènes cho rằng vũ trụ bắt đầu bằng một khối chất loãng. Khối ấy dần dần cô đọng
lại thành gió, mây, nước, đất và đá. Ba trạng thái của vật là trạng thái khí, lỏng và đặc là 3 giai đoạn của
sự cô đọng. Động đất là do sự cô đọng chất lỏng trong lòng đất. Đời sống và linh hồn là một sức mạnh
tiềm tàng có mặt khắp nơi.
Anaxagoras tìm cách giảng giải nhật thực và nguyệt thực. Ông là thầy học của danh tướng Periclès. Ông
khám phá sự hô hấp của cây cỏ và loài vật. Ông đưa ra giả thuyết rằng sở dĩ loài người thông minh hơn
súc vật là nhờ biết đi 2 chân trong khi dành 2 tay để làm những việc khác.
5
Một học giả khác tên là Héraclite đã hy sinh tất cả của cải để hiến mình cho sự nghiên cứu khoa học. Ông
tìm thấy rằng tất cả mọi vật đều thay đổi. Tạo hoá xoay vần theo từng chu kỳ. Sự đấu tranh là cha đẻ của
vạn vật. Một học giả khác đã đưa ra thuyết tiến hoá: ông cho rằng các bộ phận trong cơ thể của muôn loài
đều thay đổi theo với luật đào thải. Những bộ phận nào đáp ứng với nhu cầu và thích hợp với hoàn cảnh
sẽ được tồn tại trong khi những bộ phận khác không thích hợp sẽ bị đào thãi. Một vài học giả khác đã đi
gần đến thuyết nguyên tử dù một cách rất thô sơ. Họ cho rằng ngoài thế giới hiện tại còn có vô số thế giới
khác. Các hành tinh trong vũ trụ thường va chạm nhau và làm tan vỡ nhiều thế giới. Trên đây là những điều
mà các học giả Hy Lạp dưới thời Aristote đã tìm thấy. Cần phải công nhận mặc dù với những dụng cụ thô
sơ, công trình phát minh của họ không phải nhỏ. Mặt khác, chính chế độ nô lệ làm trì hoãn các phát minh
khoa học giúp ích đời sống: trong khi các nô lệ làm tất cả những công việc nặng nhọc thì không ai nghĩ đến
việc phát minh máy móc làm gì. Trái lại phần lớn tư tưởng các học giả hướng về các vấn đề chính trị và xã
hội trong một nước Hy Lạp bị chia rẽ bởi nhiều phe nhóm chống đối nhau gay gắt. Do đó triết lý và khoa
học chính trị có phần phong phú hơn những ngành khoa học khác.
4.2 Aristote một nhà nghiên cứu thiên nhiên:
Nếu chúng ta bắt đầu bằng cách khảo sát một tác phẩm của Aristote nhan đề là Vật lý học, chúng ta sẽ bị
thất vọng. Sự thật là trong cuốn vật lý học ấy chỉ trình bày những khái niệm siêu hình về vật chất, sự
chuyển động, không gian, thời gian, nguyên lý, và những khái niệm tương tự. Một đoạn đặc sắc trong tác
phẩm trên là đoạn công kích khái niệm chân không của một học giả đương thời. Aristote cho rằng trong vũ
trụ không làm gì có chân không. Ngày nay thuyết của Aristote đã bị khoa học chứng minh là sai, nhưng
chính nhờ sự công kích mà chúng ta biết được một thuyết khoa học có giá trị. Về khoa thiên văn Aristote
không tiến bộ hơn các học giả đương thời là bao. Ông công kích thuyết của Pythagore cho rằng mặt trời là
trung tâm điểm của thái dương hệ, ông một dành vinh dự ấy cho trái đất. Tuy nhiên ông cũng có nhiều
nhận xét giá trị về sức nóng của mặt trời làm bốc hơi nước biển, làm cạn sông ngòi, nước bốc hơi thành
mây và rơi xuống thành mưa. Ông cho rằng xứ Ai cập là công trình của xông Nil: chính phù sa của nước
sông này trong hàng ngàn thế kỷ đã đem lại cho xứ Ai cập những vùng đất phì nhiêu. Aristote cũng đã
giảng giải một cách thoả đáng sự thành lập các lục địa trên trái đất, ông cho rằng các lục địa được nảy
sinh và dần dần biến mất dưới đáy biển cùng với tất cả những nền văn minh ở trên ấy trong một sự thay
đổi tuần hoàn. Con người đi từ trạng thái sơ khai đến trạng thái văn minh cực độ rồi sẽ trở về trạng thái sơ
khai do những biến cố vĩ đại của tạo hoá.
4.3 Nền tảng của khoa sinh vật học:
Trong khi Aristote quan sát những loại sinh vật trong vườn bách thảo rộng lớn của ông, tự nhiên ông nhận
thấy rằng những loại sinh vật có thể được xếp hạng và giữa những hạng ấy có những mối liên hệ mật thiết
trong nhiều phương diện khác nhau chẳng hạn như trong sự cấu tạo cơ thể, cách sinh sống, sự thụ thai,
sự cảm xúc... Những mối liên hệ này nối liền những loại sinh vật thô sơ nhỏ bé nhất đến những loại sinh
vật phức tạp nhất. Trong lĩnh vực những loại sinh vật thô sơ nhỏ bé người ta rất khó lòng phân biệt một
sinh vật và một khoáng chất. Aristote cho rằng ranh giới giữa một sinh vật và một khoáng chất trong lãnh
vực này rất mơ hồ và đáng nghi ngờ. Mặt khác, người ta không thể phân biệt động vật và thực vật. Đối với
một vài loại có thể xem là thực vật cũng được mà xem là động vật cũng được. Trong nhiều trường hợp
khác rất khó phân biệt một loại này với một loại khác. Người ta có thể kết luận rằng đời sống trên trái đất
phát triển một cách liên tục từ trạng thái thô sơ nhất đến trạng thái phức tạp nhất. Trí thông minh cùng phát
triển theo với trạng thái, nói cách khác: trạng thái càng phức tạp, trí thông minh càng phát triển. Đồng thời
các cơ quan kiểm soát càng ngày càng tập trung, thần kinh hệ được phát triển cùng với sự tập trung này.
Mặc dù có những nhận xét xác đáng kể trên, Aristote không chủ trương thuyết tiến hoá. Ông đả kích thuyết
cho rằng các sinh vật đấu tranh để sống và chỉ những sinh vật nào thích hợp nhất mới được tồn tại. Ông
cũng phủ nhận thuyết cho rằng con người trở nên thông minh nhờ dùng 2 tay để làm việc thay vì để di
chuyển. Ông nói rằng cần phải suy nghĩ ngược lại nghiã là con người biết dùng 2 tay để làm việc vì đã trở
nên thông minh.
Vì các phương tiện nghiên cứu và quan sát trong lãnh vực này còn thiếu sót nên Aristote có nhiều lầm lẫn:
Ông không biết gì về sự hiện hữu của các bắp thịt trong cơ thể, ông không phân biệt động mạch và tĩnh
mạch, ông tưởng rằng khối óc dùng để làm cho máu trở nên lạnh, ông tin rằng đàn ông có nhiều mảnh
xương sọ hơn đàn bà, ông tin rằng người ta chỉ có 8 cặp xương sườn và đàn bà có ít răng hơn đàn ông.
Đó là những sự nhầm lẫn tuy rõ ràng nhưng không quan trọng so với sự đóng góp của Aristote vào nền
sinh vật học. Ví dụ ông biết rằng loài chim và loài bò sát có cơ thể rất giống nhau, loài khỉ là một loài trung
gian giữa người và vật 4 chân. Ông nhận xét rằng linh hồn của trẻ sơ sinh cũng giống như linh hồn của súc
6
vật. Các món ăn quyết định cách sinh sống: có những con thú sống theo đàn, có những con thú sống cô
độc, miễn làm sao chúng có thể kiếm ăn một cách dễ dàng. Ông đã tìm ra kết luận gần giống như thuyết
của Von Baer về các đặc tính của giống nòi và thuyết của Spencer về sự tương quan của các giống vật và
sự phát triển của chúng. Nói một cách khác, một giống vật càng phát triển thì sự sinh đẻ càng ít. Ông nhận
xét khuynh hướng bình đẳng của các giống vật nghĩa là những phần tử xuất chúng, do sự giao cấu với các
phần tử thấp kém hơn dần dần sẽ mất các đặc tính của mình. Sau hết Aristote tạo nên một khoa học về
sự phát triển của bào thai. Ông nói rằng muốn quan sát sự vật một cách chính xác không gì bằng quan sát
ngay trong thời kỳ thai nghén. Hyppocrate cũng đã áp dụng phương pháp này bằng cách quan sát trứng gà
lộn trong những thời kỳ khác nhau và đã viết cuốn sách nhan đề là Nguồn gốc của đứa trẻ. Aristote cũng
nghiên cứu hiện tượng này và những nhận xét của ông còn làm cho các nhà khoa học ngày nay phải ngạc
nhiên. Chắc ông đã làm nhiều thí nghiệm về khoa sinh sản vì ông phủ nhận thuyết cho rằng nam tính hoặc
nữ tính của bào thai phụ thuộc vào vị trí của ngọc hành. Ông còn đưa ra nhiều vấn đề thời sự về nhân
chủng chẳng hạn như ông đã nhận xét một cuộc hôn nhân giữa người đàn bà da trắng và người đàn ông
da đen. Tất cả những đứa con sinh ra đều da trắng nhưng đến thế hệ thứ hai thì nhiều đứa con da đen
xuất hiện. Đó chỉ là một nhận xét mở đầu cho định luật danh tiếng về nhân chủng học mệnh danh là định
luật Mendel. Nói tóm lại mặc dù những sai lầm trong các tác phẩm về sinh lý học của ông, Aristote cũng đã
đặt nền móng cho khoa học này. Nếu chúng ta để ý rằng các phương pháp sưu tầm và nghiên cứu thời ấy
rất thô sơ, chúng ta phải công nhận thiên tài vĩ đại của Aristote.
5. SIÊU HÌNH HỌC VÀ THỰC CHẤT CỦA THIÊN CHÚA:
Có thể nói rằng siêu hình học theo Aristote là sự tiếp tục của sinh lý học. Tất cả mọi vật trong vũ trụ đều
tiến hoá do một sức mạnh nội tâm. Mỗi một thực thể có thể được xem như một hình thể do một nguyên
thể mà phát sinh ra. Ví dụ con người là hình thể, do đứa trẻ là nguyên thể phát sinh. Đứa trẻ là hình thể do
bào thai là nguyên thể phát sinh. Bào thai là hình thể do noãn châu là nguyên thể phát sinh. Nếu chúng ta
đi lần mãi vào nguồn gốc của nguyên thể chúng ta sẽ tìm thấy một ý niệm về nguyên thể mà không có
hình thể (tức là Thiên chúa). Tất cả mọi vật trong vũ trụ đều tiến triển đến một cứu cánh, cứu cánh cuối
cùng mới là quan trọng. Những sự nhầm lẫn của tạo hoá là nguyên do của những quái thai. Sự phát triển
không phải là một việc ngẫu nhiên mà chính đã được hướng dẫn từ bên trong. Ví dụ cái trứng gà được cấu
tạo để thành một con gà chứ không phải một con vịt, hột bồ đề được cấu tạo để thành một cây bồ đề chứ
không phải một cây lau. Do đó theo quan niệm của Aristote thì quyền lực của Thiên chúa được thể hiện
trong các hiện tượng thiên nhiên.
Aristote quan niệm rằng có một Thiên chúa. Ông đi từ quan niệm cử động trong vũ trụ: mọi vật trong vũ trụ
đều cử động xoay vần mãi mãi, nguyên do sự cử động ấy là ở đâu ? Aristote cho rằng nguyên do ấy là ở
Thiên chúa, đó là vị chúa tể đã làm cho các tinh tú và hành tinh trong vũ trụ hoặc các yếu tố nhỏ hơn được
xoay vần cử động theo một định luật bất di bất dịch. Vị chúa tể này không có hình thể, không thể phân
chia, không thể thay đổi, không thể bị huỷ diệt. Theo Aristote thì Thiên chúa không tạo nên vũ trụ, ngài chỉ
làm cho vũ trụ cử động. Ngài là cứu cánh cuối cùng của sự vật, là nguyên thể của vũ trụ, là lẽ sống, là
toàn thể những diễn tiến sinh lý, là động lực của toàn thể. Ngài là năng lực hoàn toàn, có thể so sánh được
với quan niệm năng lực của nền khoa học và triết lý hiện đại.
Aristote còn quan niệm rằng thượng đế là một thực thể có nhiều bí hiểm vì ngài không bao giờ làm gì,
không có ý muốn, không có mục đích, không có hành động. Vì ngài là đấng toàn năng nên không bao giờ
ngài ước muốn, vì không ước muốn nên không bao giờ ngài hành động.
6. TÂM LÝ HỌC VÀ BẢN CHẤT CỦA NGHỆ THUẬT :
Tâm lý học của Aristote cũng có nhiều khó hiểu và mâu thuẫn. Trong của tác phẩm có nhiều đoạn đáng để
ý, chẳng hạn Aristote là người đầu tiên biết đến mãnh lực của thói quen và xem đó như thiên chất thứ hai
của con người. Đối với vấn đề tự do của ý chí và bất tử của linh hồn thì ý kiến của Aristote không được
đồng nhất, khi thì ông lý luận theo thuyết định mệnh nghĩa là con người không thể làm khác hơn cái gì định
mệnh đã an bài. Khi thì ông cho rằng con người có tự do định đoạt số phận của mình bằng cách lựa chọn
những bối cảnh của cuộc sống, ví dụ chúng ta có thể tự tạo nên một nhân cách bằng cách chọn lựa bè
bạn, sách báo, nghề nghiệp và các trò giải trí. Aristote không tiên liệu rằng những kẻ theo thuyết định
mệnh sẽ cãi lại ông ta bằng cách nói rằng chính tánh tình của chúng ta ảnh hưởng đến sự chọn lựa bè
bạn, sách báo, nghề nghiệp và trò giải trí của chúng ta. Aristote còn cho rằng con người muốn được khen
và sợ bị chỉ trích, chính yếu tố này làm cho họ phải chọn lựa và cũng chứng minh sự tự do chọn lựa của
7
con người. Lý luận này cũng không đứng vững vì chính sự khen chê định đọat hành vi của con người chứ
không phải sự tự do lựa chọn.
Aristote còn đưa ra một lý thuyết về linh hồn. Theo ông thì linh hồn là sức sống của mọi sinh vật. Trong cỏ
cây thì linh hồn chỉ là khả năng dinh dưỡng và sinh sản, trong loài động vật linh hồn là khả năng di chuyển
và cảm xúc, trong loài người linh hồn là khả năng lý luận và suy tư. Vì là một khả năng, linh hồn không thể
tồn tại ngoài thể chất. Tuy nhiên trong một đoạn khác bằng một lối lý luận dông dài, Aristote lại cho rằng
linh hồn có thể tồn tại. Lối lý luận này tỏ ra mâu thuẫn và có nhiều chỗ tối nghĩa.
Trong một tác phẩm khác, Aristote bàn về nghệ thuật và thẩm mỹ. Ông nói rằng nghệ thuật phát minh do
nhu cầu của con người muốn diễn tả những cảm nghĩ, cảm giác của mình. Trong bản chất, nghệ thuật là
một sự bắt chước và phản ảnh thiên nhiên giống như cái kiếng thu những hình ảnh của tạo vật. Trong tất
cả mọi người đều có bản năng bắt chước, một bản năng mà thú vật thấp kém không có. Tuy nhiên mục
đích của nghệ thuật không phải là diễn tả bề ngoài của sự vật mà chính là diễn tả ý nghĩa ở bên trong.
Nghệ thuật cao cả nhất vừa đánh động lý trí vừa đánh động tình cảm, tạo nên một khoái cảm cao cả nhất
cho con người. Do đó các công tác nghệ thuật phải hướng về sự đồng nhất. Ví dụ một vở kịch phải có cốt
chuyện đồng nhất, nghĩa là không được có những giai đoạn đi ra ngoài đề. Sau cùng nhiệm vụ của nghệ
thuật là sự thanh lọc: những cảm giác chất chứa trong con người do đời sống xã hội tạo nên có thể tìm
thấy ở nghệ thuật một lối thoát êm đẹp thay vì gây ra sự bạo động. Những ý nghĩ trên đây ngày nay vẫn
còn có giá trị và mở màn cho những thuyết tân kỳ về sức mạnh của nghệ thuật.
7. ĐẠO ĐỨC HỌC VÀ BẢN CHẤT CỦA HẠNH PHÚC:
Số môn đồ đến xin học với Aristote càng ngày càng đông, môn học càng ngày càng mở rộng từ vấn đề
khoa học đến các vấn đề đạo đức. Những câu hỏi sau đây được đặt ra: cuộc đời lý tưởng phải thế nào ?
Cái gì là mục đích tối thượng của cuộc đời ? Đạo đức là gì ? Làm sao có thể tìm thấy hạnh phúc ?
Thái độ của Aristote rất thực tế trước những vấn đề này. Ông không khuyên bảo môn đệ phải theo những
lý tưởng quá cao xa. Quan niệm về bản chất con người của Aristote là một quan niệm rất lành mạnh: tất
cả những lý tưởng đều có một căn bản thiên nhiên và tất cả những cái gì thiên nhiên đều có thể nẩy nở
thành lý tưởng. Aristote chấp nhận một cách thẳng thắn rằng mục đích trực tiếp của cuộc đời không phải
là cái hay cái đẹp mà chính là hạnh phúc. Aristote nói rằng người ta tìm kiếm tiền tài, danh vọng, khoái lạc
vì người ta tưởng rằng những thứ đó đem đến hạnh phúc. Tuy nhiên cần phải biết rõ hạnh phúc thật sự là
gì và con đường nào đưa đến hạnh phúc. Aristote trả lời câu hỏi này bằng cách tìm những đặc điểm phân
biệt loài người và những loài vật khác. Ông cho rằng hạnh phúc là sự phát triển hoàn toàn đầy đủ các đức
tính của con người. Đức tính nổi bật nhất của loài người là khả năng suy luận, chính nhờ đức tính này mà
loài người đứng trên tất cả loài vật khác. Chính vì vậy mà khả năng suy luận một khi được phát triển hoàn
toàn đầy đủ sự đem đến hạnh phúc hoàn toàn cho con người.
Điều kiện của hạnh phúc do đó là sự phát triển của khả năng suy luận. Đạo đức tuỳ thuộc vào sự suy luận
chính xác, sự kiểm soát tinh thần, sự quân bình của lòng ham muốn. đó không phải là những đức tính của
những người thường mà là kết quả của sự tập luyện và kinh nghiệm trong những người hoàn toàn trưởng
thành. Con đường đi đến mục đích đó là ý niệm trung dung. Mỗi một đặc tính có thể xếp thành 3 loại: loại
đầu và loại chót là những đặc tính quá khích, chỉ loại giữa mới là đạo đức . Ví dụ sự nhút nhát và tánh liều
lĩnh thuộc về loại đầu và loại chót, nghĩa là những đặc tính quá khích. Tánh rộng rãi nằm giữa tánh biển
lận và phung phí. Tánh khiêm nhượng nằm giữa tánh rụt rè và ngạo mạn. Tánh vui vẻ nằm giữa tánh cau
có và tánh ba hoa sống sượng ...
Thuyết trung dung không phải là một thuyết có thể áp dụng một cách máy móc theo toán học. Điểm trung
dung có thể thay đổi tuỳ theo trường hợp và chỉ có thể tìm thấy bằng sự suy luận trưởng thành. Chính thói
quen quy luận đưa người ta đến chỗ thánh thiện. Một người hành động chính đáng không phải vì lý do họ
là một người có đạo đức nhưng ngược lại chính vì họ có đạo đức do sự huấn luyện suy tư công phu mà họ
hành động chính đáng. Con người có thể được đánh giá bằng những hành động của họ. Do đó sự thánh
thiện không phải là một hành động đơn độc mà chính là một thói quen. Người ta còn nhớ câu nói bất hủ
của Aristote về vấn đề này: "Một con én không làm nổi một mùa xuân". Tuổi trẻ là thời kỳ quá khích: nếu
một thiếu niên lầm lỗi thì chắc chắn lỗi lầm đó là do sự quá khích mà ra. Sự khó khăn của tuổi trẻ là làm
sao không đi từ thái cực này đến thái cực khác vì người ta thường có khuynh hướng sửa sai một cách quá
đáng. Những người ở một thái cực có khuynh hướng cho rằng đạo đức không phải nằm ở điểm trung dung
mà nằm ở thái cực kia.
Họ có khuynh hướng sửa mình như một người uốn một khúc tre cong: muốn làm khúc tre thẳng họ phải
uốn cong về chiều ngược lại. Cũng có trường hợp những kẻ quá khích xem điểm trung dung như một lỗi
8
lầm lớn, người can đảm bị kẻ nhút nhát xem là liều lĩnh trong khi đó những người liều lĩnh lại xem những
người can đảm như là nhút nhát. Trong lãnh vực chính trị những kẻ ôn hoà bị kẻ quá khích xem là bảo thủ
và bị kẻ bảo thủ xem là quá khích.
Thuyết trung dung là một đặc điểm chẳng những của Aristote mà còn của nền triết lý Hy Lạp. Platon xem
đạo đức là những hành động điều hoà không quá khích, Socrate xem đạo đức là do sự suy luận mà có,
trong đền thờ Apollon người ta có khắc những chữ meden agan có nghĩa là không làm cái gì quá trớn.
Người Hy Lạp cho rằng sự đam mê tự nó không phải là một điều xấu, nó là nguyên liệu tạo nên điều xấu
hoặc điều tốt tuỳ theo cách sử dụng có chừng mực hoặc không có chừng mực.
Tuy nhiên thuyết trung dung chưa phải là bí quyết đem đến hạnh phúc. Aristote cho rằng những nhu cầu
vật chất cũng cần thiết. Sự nghèo túng quá độ làm cho con người đâm ra biển lận, một tài sản vừa phải
đem đến cho con người một đời sống tự do không tham lam giành giựt quá đáng, đó cũng là một đặc điểm
của chế độ quý tộc. Một yếu tố khác rất cần thiết cho đời sống hạnh phúc là sự kết bạn. Càng được san
sẻ, hạnh phúc càng tăng trưởng. Khái niệm về công bằng không quan trọng trong tình bằng hữu, khi đã là
bạn, người ta không nghĩ đến sự công bằng so đo tính toán trong việc giao thiệp. Mặt khác, số bạn chân
thật không thể có nhiều: kẻ nào có quá nhiều bạn thật ra không có người bạn nào. Làm bạn với tất cả mọi
người là một điều không thể thực hiện được. Tình bạn chân thật phải được thử thách với thời gian, nó đòi
hỏi sự ổn định trong tánh tình. Một khi tánh tình không ổn định thì sự kết bạn lẽ cố nhiên cũng bị ảnh
hưởng. Bình đẳng là một yếu tố cần thiết trong sự giao thiệp, sự biết ơn không làm cho sự giao thiệp được
lâu dài. Những kẻ thi ơn luôn luôn muốn người khác chịu ơn mình mãi mãi trong khi những kẻ chịu ơn luôn
luôn muốn xa lánh kẻ thi ơn càng sớm càng tốt. Do đó, sự giao thiệp không thể nào được vững bền.
Mặc dù các tiện nghi vật chất cần thiết cho đời sống hạnh phúc, yếu tố chính là sự sáng suốt của tâm hồn.
Những khoái lạc giác quan không phải là chìa khoá của hạnh phúc. Một đời sống chính trị như làm lãnh tụ
một quốc gia hoặc một đảng phái không thể đi đôi với hạnh phúc. Những người làm chính trị phải chiều
theo sở thích của quần chúng mà không có gì thay đổi bấp bênh bằng sở thích quần chúng. Hạnh phúc
phải là sự khoái lạc của tâm trí.
Con người lý tưởng của Aristote không làm việc nguy hiểm một cách vô ích nhưng gặp trường hợp cần
thiết họ có thể hy sinh tánh mạng vì có nhiều lúc đời sống thật không còn đáng sống. Họ sẵn lòng giúp đỡ
kẻ khác nhưng nhận sự giúp đỡ một cách rất dè dặt. Họ không tìm cách phô trương, họ thẳng thắn nói lên
những điều ưa và ghét, hành động một cách chân thật.
Họ không bao giờ khen ai quá đáng vì họ nhận thấy rằng ở trên đời thật sự không có cái gì đáng khen cả.
Họ không thể sống a dua với kẻ khác vì tánh a dua là đặc tính của kẻ nô lệ. Họ không bao giờ muốn làm
hại ai và sẵn lòng tha thứ tất cả những lỗi lầm của kẻ khác. Họ không muốn nói chuyện nhiều, cũng không
muốn được người khác tâng bốc hoặc chỉ trích người khác. Họ không nói xấu người khác dù đó là kẻ thù
của họ. Họ đi đứng khoan thai, nói năng ôn tồn, không bao giờ hấp tấp vì tâm trí họ không bị bận rộn bởi
những điều phức tạp. Họ không bao giờ hăng hái quá độ vì họ biết rằng trên đời này không có cái gì quan
trọng. Họ chịu đựng những sự bất trắc ở đời một cách vui vẻ và đoan trang, giống như một tướng lãnh giỏi
cầm quân ngoài mặt trận nắm vững chiến thuật chiến lược. Họ thích sống một mình và không sợ sự cô
đơn. Đó là con người lý tưởng của Aristote.
8. KHOA HỌC - CHÍNH TRỊ
8.1. Cộng sản và bảo thủ:
Tư tưởng chính trị của Aristote lẽ tất nhiên phải chịu ảnh hưởng của những tư tưởng về đạo đức kể trên.
Nói cách khác Aristote thiên về chế độ quí tộc. Mặt khác, với tư cách là thầy học của một vị hoàng đế và
chồng của một vị công chúa, Aristote không có lý do để thiên về thuyết dân chủ hoặc có cảm tình với giai
cấp thương gia: Túi tiền của chúng ta nằm ở đâu, triết lý của chúng ta nằm ở đó.
Thêm vào đó tư tưởng ôn hoà của Aristote có thể xem là hậu quả của những tệ đoan do một nền dân chủ
quá bê bối. Ông ước mong tìm lại nền an ninh trật tự và hoà bình. Ông cho rằng cần phải chấm dứt những
cuộc phiêu lưu chính trị. Chỉ trong những tình thế ổn định con người mới có quyền quá khích. Aristote nói
rằng :"người ta có thói quen thay đổi luật lệ quá dễ dàng, làm như vậy lợi bất cập hại. Chúng ta cần phải
chịu đựng những điểm thiếu sót nhỏ nhặt của nhà làm luật hơn là đòi thay đổi luật pháp. Quốc gia sẽ
không có lợi gì một khi dân chúng làm quen với thái độ bất phục tùng và luôn luôn đòi thay đổi luật pháp.
Sự tuân hành luật pháp (rất cần thiết cho sự ổn cố chính trị ) thường bắt nguồn ở tập tục. Thay đổi luật
pháp khác gì phá vỡ nguồn gốc của sự tuân hành luật pháp.
Aristote chỉ trích chế độ cộng sản của Platon, cho đó là một chế độ không tưởng. Ông không đồng ý với
cuộc sống tập thể của giai cấp thống trị theo kiểu Platon; ông thích những đức tính cá nhân, sự tự do, sự
hữu hiệu và trật tự xã hội. Ông không muốn xem tất cả người xung quanh là anh chị, xem tất cả người có
9
tuổi là cha mẹ. Nếu tất cả đều là anh chị, lẽ tất nhiên không có người nào thực sự là anh chị. Thà rằng có
một người bà con xa, song thật sự là bà con còn hơn có những người bà con theo kiểu Platon. Trong một
xã hội mà tất cả phụ nữ và nhi đồng đều là của chung, tình yêu thương sẽ phai nhạt. Chỉ những cái gì thực
sự của ta mới được chiều chuộng và gắn bó.
Rất có thể rằng trong quá khứ xa xôi có một xã hội sống theo chế độ cộng sản. Trong xã hội đó một gia
đình được coi như một quốc gia và tất cả hoạt động kinh tế tập trung vào việc cày ruộng và nuôi súc vật.
Đối với một xã hội phát triển hơn, cần có sự phân công phức tạp hơn, khả năng của con người không thể
đồng nhất như xưa và do đó không thể áp dụng chế độ cộng sản được. Cần phải có sự thúc đẩy tâm lý
con người mới chịu tự rèn luyện để đảm nhận những công việc chuyên môn, cần phải có phần thưởng của
tư sản con người mới chịu hăng hái phát triển kỹ nghệ và chăn nuôi. Khi tất cả tài sản là của chung, thì
không một ai chịu lo lắng giữ gìn tài sản ấy, người ta có khuynh hướng lo lắng cho cái gì thuộc riêng mình
và hoàn toàn lơ là trước các vấn đề chung. Cuộc sống tập thể theo kiểu cộng sản tạo nhiều vấn đề nan
giải, không chóng thì chầy các cá nhân sẽ tìm cách gây gổ nhau để phân chia của cải.
Người ta thường chỉ trích chế độ tư sản, cho đó là nguyên do của tất cả các tệ đoan xã hội. Sự thật thì
nguyên do của các tệ đoan ấy không phải ở chế độ tư sản mà ở bản tánh con người. Khoa học chính trị
không đủ sức để làm nên những con người mới mà phải quan tâm đến đặc tánh hiện hữu của con người.
Nói một cách tổng quát, con người gần con thú hơn là gần các thiên thần. Phần đông đều u mê và lười
biếng. Dù ở trong chế độ nào đi chăng nữa những người ấy cũng nằm vào hạng chót. Chủ trương giúp đữ
họ không khác gì chủ trương đổ nước vào một cái thùng bể. Họ phải được cai trị trên phương diện chính trị
và sai bảo trên phương diện kinh tế, sự đồng ý của họ hoàn toàn không cần thiết. Từ lúc ra đời đã có
những người sinh ra để bị sai khiến và những người khác sinh ra để sai khiến. Những người có khả năng
suy nghĩ và tiên liệu là những người sinh ra để làm chủ, những người chỉ có thể làm việc bằng chân tay là
những người sinh ra để bị sai khiến. Sự phân công trong xã hội không khác gì sự phân công trong cơ thể:
những người chỉ huy không khác gì bộ óc, những người thi hành không khác gì chân tay, chân tay phải phụ
thuộc vào bộ óc cũng như người thừa hành phụ thuộc vào người chỉ huy. Người thừa hành là một dụng cụ
có đời sống và dụng cụ là một người thừa hành không có đời sống. Aristote tiên liệu sự tiến triển của xã
hội đến một đời sống máy móc khi ông viết những dòng sau đây: "Nếu tất cả các dụng cụ đều tự động làm
việc, nếu máy dệt tự dệt lấy quần áo, nếu cái đàn tự phát ra những âm thanh... thì lúc đó người ta không
cần đến những kẻ thừa hành hoặc những nô lệ nữa".
Lối suy nghĩ trên chứng tỏ thái độ khinh nghề lao động chân tay của người Hy Lạp. Nguyên do là đời sống
lúc bấy giờ còn thô sơ và công việc lao động chân tay không đòi hỏi nhiều khả năng như bây giờ. Aristote
xem những người lao động chân tay như những người hoàn toàn không biết suy nghĩ. Những công việc ấy
chỉ thích hợp với giai cấp nô lệ và cũng dễ nô lệ hoá con người. Aristote cho rằng công việc lao động chân
tay làm cho trí óc cằn cỗi, không có thì giờ hoặc năng lực để suy nghĩ về chính trị. Do đó Aristote cho rằng
chỉ những người rảnh rang mới được quyền tham gia chính trị. Những kẻ làm thợ nhiều khi còn bị mất
quyền công dân. Ở Thèbes còn có một đạo luật cấm những thương gia giữ chức vụ trong chính phủ nếu
họ chưa hoàn toàn từ bỏ tất cả các hoạt động thương mãi trong thời hạn 10 năm trở về trước. Những kẻ
cho vay, đổi tiền, được Aristote xếp vào hạng nô lệ. Ông coi việc buôn bán như một hành động bất chính
và sự cho vay nặng lãi như một hành động đáng ghét. Tiền bạc dùng để giao hoán, không phải để sinh lợi.
Sự nghiên cứu tài chánh là những việc đáng làm đối với một triết gia, nhưng các hoạt động tài chánh là
những việc không xứng đáng với một công dân.
8.2. Hôn nhân và giáo dục :
Đàn bà là nô lệ, đàn ông là chủ. Sự tương quan giữa đàn bà và đàn ông không khác gì sự tương quan giữa
những kẻ trí thức và những kẻ lao động chân tay hoặc giữa những kẻ man rợ và những công dân Hy Lạp.
Aristote cho rằng đàn bà chỉ có thể tuân lệnh. Theo bản chất, phụ nữ không có ý chí, do đó không thể tự
lập. Việc làm thích hợp nhất đối với phụ nữ là coi sóc nhà cửa. Không nên làm cho phụ nữ được ngang
quyền với nam giới như Platon đã chủ trương. Trái lại sự cách biệt cần phải được tăng thêm vì chính sự
cách biệt ấy khuyến khích gần gũi giữa nam giới và nữ giới. Sự can đảm của nam giới không giống như sự
can đảm của nữ giới như Socrate đã chủ trương. Aristote cho rằng sự can đảm của nam giới thể hiện trong
việc chỉ huy, sự can đảm của nữ giới thể hiện trong sự phục tòng. Giữ im lặng là sự vinh quang của nữ
giới.
Trên thực tế Aristote cũng nhận rằng sự phân chia khả năng trên ít khi được thực hiện. Thường thường
trong gia đình chiến thắng không phải về tay kẻ có sức mạnh vật chất mà về tay kẻ biết nói nhiều và nói
dai. Để cứu vãn nam giới khỏi thiệt thòi, Aristote khuyên nam giới chỉ nên lập gia đình vào lúc 37 tuổi và chỉ
nên cưới những người vợ vào khoảng 20 tuổi. Một thiếu nữ vào khoảng 20 đủ sức đương đầu với một nam
10
nhi vào khoảng 30, do đó cần phải lấy người chồng vào khoảng 37 thì trật tự gia đình mới bảo toàn. Mặt
khác, Aristote bênh vực cho thuyết của mình với nhận xét rằng với số tuổi chênh lệch ấy, khả năng sinh
sản của hai vợ chồng mới có thể chấm dứt vào một lúc. Nếu người chồng còn khả năng này hoặc ngược
lại thi đời sống gia đình sẽ khó khăn. Đối với nam giới tuổi chấm dứt sinh sản là 70, đối với nữ giới tuổi
chấm dứt sinh sản là 50, do đó tuổi cưới hỏi cần phải phù hợp.
Nếu 2 vợ chồng trẻ quá thì sức khoẻ của con cái sẽ bị tổn thương. Những cặp vợ chồng trẻ thường sinh
con gái nhiều hơn con trai. Sức khoẻ quan trọng hơn tình yêu giữa vợ chồng. Những phụ nữ lập gia đình
quá sớm thường dễ hư hỏng, những thanh niên lập gia đình quá sớm thường không phát triển được tất cả
những khả năng vật chất và tinh thần của mình. Vấn đề hôn nhân là một vấn đề tối quan trọng đối với
quốc gia xã hội, vì vậy cần phải được hướng dẫn và kiểm soát bởi chính phủ: chính phủ phải ấn định tuổi
tối thiểu và tuổi tối đa để kết hôn cho mọi công dân nam nữ, những thời kỳ nào được phép sanh sản và
mức độ gia tăng của dân số. Nếu mức độ này quá lớn cần phải áp dụng phương pháp phá thai. Dân số
trong mỗi quốc gia tuỳ thuộc vào các nguồn lợi và vị trí của quốc gia ấy. Nếu dân số quá ít quốc gia không
thể tự túc, nếu dân số quá nhiều các nguyên tắc dân chủ sẽ khó áp dụng. Dân số một quốc gia không nên
quá 10 000 người.
Chính phủ cũng phải kiểm soát nền giáo dục. Muốn chính thể được lâu dài, nền giáo dục phải thích hợp.
Những kẻ xuất chúng phải được huấn luyện để trở nên những nhà cai trị. Họ sẽ sống một cuộc đời hoàn
toàn vì quyền lợi chung, không đếm xỉa đến của cải riêng. Toàn dân phải được huấn luyện để biết tuân
theo pháp luật. Những công dân tốt trước khi trở thành người chỉ huy giỏi phải là người thừa hành giỏi. Nền
giáo dục còn có tác dụng thống nhất quốc gia, vượt lên trên những vấn đề chia rẽ địa phương. Các thanh
thiếu niên cần phải thấm nhuần các điều lợi ích do cuộc sống tập thể đưa lại. Một con người có giáo dục là
một con vật (người ?) tốt nhất, những kẻ sống cô độc làm những kẻ tệ hại nhất. Nếu sự bất công được sử
dụng võ khí thì tệ hại càng lớn hơn. Những kẻ có giáo dục không biết hoà mình vào đời sống xã hội cũng
đáng sợ hơn, chúng là những con vật tham lam, chỉ sự kiểm soát của xã hội mới đem chúng về con đường
đạo đức.Nhờ lời nói con người họp thành một xã hội, nhờ xã hội con người phát triển trí thông minh, nhờ trí
thông minh con người sống trong trật tự, nhờ trật tự con người đi đến văn minh. Chính trong xã hội con
người mới có những cơ hội để phát triển. Chỉ những thú vật hoặc những thánh hiền mới sống cô độc.
Những cuộc cách mạng bao giờ cũng đáng trách. Chúng có thể đem lại một vài cải cách, nhưng con người
phải trả giá quá đắt. Khuyết điểm lớn nhất là tình trạng hỗn độn có thể đưa đến sự phá huỷ trật tự xã hội
và cơ cấu quốc gia. Những sự cải cách đôi khi có thể thấy được hoặc tính toán được nhưng các điều bất
tiện thì thường thường không thể ngừa trước được mà có khi lại rất quan trọng. Sở dĩ người ta phê phán
một cách dễ dàng là vì người ta chỉ nhìn sự vật một cách hời hợt. Những người trẻ tuổi thường dễ bị lừa
gạt vì họ tin một cách quá dễ dàng. Huỷ bỏ những tập tục cổ xưa là một việc làm rất nguy hiểm có thể đe
doạ sự ổn cố của chính thể. Mặc dù được chính thức huỷ bỏ các tập tục cổ xưa vẫn còn sống trong dân
chúng. Nếu một hiến pháp muốn được tồn tại lâu dài, hiến pháp đó phải được đại đa số dân chúng tán
thành. Một nhà cai trị muốn tránh các cuộc nổi dậy cần phải làm thế nào để xã hội không có những người
quá giàu hoặc quá nghèo. Họ phải khuyến khích dân chúng ra khai khẩn đất đai ở nước ngoài để sự cạnh
tranh ở trong nước có lối thoát; họ phải khuyến khích và thực hành tôn giáo. Một lãnh tụ "cần phải tỏ ra
ngoan đạo. Nếu dân chúng thấy rằng lãnh tụ của mình ngoan đạo họ sẽ tin tưởng vào vị lãnh tụ nhiều
hơn. Do sự tin tưởng ấy họ sẽ không tìm cách lật đổ vị lãnh tụ, những kẻ yếu bóng vía còn tưởng rằng vị
lãnh tụ của mình thế nào cũng được các thần thánh giúp đỡ".
8.3. Dân chủ và quý tộc:
Với những bảo đảm về phương diện tôn giáo, giáo dục và nền tảng gia đình, cơ cấu chính trị mới có thể
vững chắc. Trong tất cả mọi chính thể đều có những ưu điểm và những khuyết điểm. Trên lý thuyết, chính
thể lý tưởng là sự tập trung tất cả quyền hành chính trị vào người khôn ngoan nhất. Thi sĩ Homère có nói
rằng : "để cho đám đông cai trị là không tốt, việc cai trị chỉ nên giao cho một người". Đối với một người như
vậy, luật pháp chỉ là một phương tiện hơn là một giới hạn. Đối với người xuất chúng không thể có luật pháp
nào ràng buộc được : chính họ là luật pháp. Trên thực tế, chế độ quân chủ thường là chế độ dở nhất. Sức
mạnh và đạo đức thường không đi đôi với nhau. Do đó chế độ tạm dùng được là chế độ quý tộc trong đó
một số người xuất chúng nắm giữ guồng máy của quốc gia. Việc cai trị là một việc quá chuyên môn không
thể giao cho dân chúng ngu dốt đảm nhiệm được. Trong ngành y khoa, chỉ những bác sĩ mới được hỏi ý
kiến, tại sao không áp dụng nguyên tắc này trong lãnh vực chính trị. Một nhà toán học có thể chọn lựa
những nhà toán học, một thuyền trưởng có thể chọn lựa những thuyền trưởng, do đó sự chọn lựa những
nhà cai trị phải giao cho những nhà cai trị.
Sự khó khăn của một chế độ quý tộc cha truyền con nối là sự thiếu một căn bản kinh tế. Trong xã hội luôn
11
luôn có những người đột nhiên trở nên giàu và do đó đòi quyền được tham dự vào công cuộc chính trị . Họ
sẽ bỏ tiền ra để mua bất cứ cái gì kể cả chức tước. Đó là tình trạng đáng tránh vì khả năng chính trị và khả
năng làm giàu là 2 lãnh vực hoàn toàn trái ngược. Để cho kẻ làm giàu lên nắm chính quyền tức là khuyến
khích dân chúng có những thủ đoạn của kẻ gian thương vì dân chúng luôn luôn có khuynh hướng nghĩ theo
và làm theo người lãnh đạo. Một chế độ quý tộc không căn cứ trên khả năng chính trị không phải là một
chế độ quý tộc thực sự.
Chế độ dân chủ thường thường là kết quả của một cuộc cách mạng chống giai cấp giàu sang. Aristote đã
có một tư tưởng gần như Karl Marx khi ông nhận xét rằng : Sự cạnh tranh để làm giàu khiến cho giai cấp
trọc phú càng ngày càng bị thu hẹp, đám dân chúng vô sản càng ngày càng đông đảo. Những phần tử này
sẽ làm cách mạng để lật đổ giai cấp thống trị." Sự chấp chính của giai cấp vô sản có một vài ưu điểm. Xét
theo từng cá nhân thì giai cấp này không ra gì nhưng xét theo ý chí chung thì giai cấp này cũng tạm gọi là
được. Dân chúng là những người thừa hưởng và trực tiếp chịu ảnh hưởng những chế độ chính trị, với tư
cách đó họ có nhiều kinh nghiệm quý giá mà giai cấp lãnh đạo không có. Những kẻ hưởng dụng những
tiện nghi của một toà nhà có thể phê bình toà nhà ấy xác đáng hơn là những kiến trúc sư. Những thực
khách trong một bữa tiệc có thể phê bình những món ăn xác đáng hơn là những người nấu bếp. Mặt khác,
một ưu điểm khác của chế độ dân chủ mà Aristote đã nêu ra là khi đại đa số dân chúng được tham dự
chính quyền, sự kiểm soát lẫn nhau sẽ làm khó khăn cho các hành vi tham nhũng. Người ta có thể làm dơ
bẩn một ly nước dễ dàng hơn làm dơ bẩn một hồ nước. Hơn nữa, cá nhân dễ bị chi phối vì tham sân si và
dễ có những xét đoán sai lầm trong khi đoàn thể khó bị rơi vào tình trạng trên.
Tuy nhiên, Aristote vẫn cho rằng chế độ dân chủ không bằng chế độ quý tộc. Ông không chấp nhận
nguyên tắc bình đẳng trong chế độ dân chủ . Ông cho rằng mọi người có thể bình đẳng trên một vài
phương diện nhưng không thể bình đẳng trên tất cả mọi phương diện. Ông sợ rằng trong chế độ dân chủ
các phần tử sáng suốt sẽ bị hy sinh cho quyền lợi của đa số. Ông còn sợ rằng một thiểu số sẽ nấp sau đa
số mà thao túng chính trường. Vì lẽ đó, ông vẫn chủ trương rằng chỉ nên trao quyền đầu phiếu cho những
kẻ sáng suốt. Ông muốn có một sự dung hoà giữa 2 chế độ dân chủ và quý tộc.
Một nền cai trị theo hiến pháp hình như là câu trả lời cho giải pháp dung hoà nói trên. Chúng ta cần phải
tìm hiểu thế nào là một hiến pháp tốt đẹp nhất cho hầu hết các quốc gia, thế nào là đời sống lý tưởng nhất
cho hầu hết các công dân. Chúng ta không nên đặt những tiêu chuẩn quá cao hoặc chủ trương một nền
giáo dục quá lý tưởng , chỉ một số ít người theo kịp. Trái lại cần phải đặt những tiêu chuẩn trung bình khiến
cho đại đa số dân chúng có thể đạt được dễ dàng. Cần dựa vào những lực lượng muốn duy trì hiến pháp.
Lực lượng này không thể gồm toàn dân chúng, hoặc những kẻ có của cải, hoặc những quân nhân, hoặc
những công chức mà phải bao gồm tất cả những thành phần kể trên. Lực lượng nòng cốt phải được tìm
thấy ở giai cấp trung lưu.
Nếu tất cả mọi người đều có cơ hội tham gia chính phủ thì chế độ dân chủ được bảo đảm. Tuy nhiên
Aristote thấy rằng việc chọn lựa người tham gia chính phủ phải được cân nhắc kỹ lưỡng chỉ những người
có đầy đủ điều kiện mới được vào, đó là nguyên tắc của chế độ quý tộc. Mặc dù nhìn công việc chính trị
dưới khía cạnh nào đi nữa người ta cũng sẽ cùng đi đến một kết luận chung: đó là dân chúng phải có
quyền ấn định mục tiêu của quốc gia trong khi đó chỉ những người chuyên môn mới có thể thực hiện mục
tiêu đó.
9. PHÊ BÌNH:
Đối với Aristote chúng ta khó có những cảm nghĩ khen hoặc chê một cách nồng nhiệt vì chính Aristote cũng
chủ trương rằng không có cái gì làm chúng ta hăng hái quá đáng, không có cái gì đáng khen. Aristote
không hăng hái như Platon cũng không có những tư tưởng độc đáo, trí tưởng tượng cao siêu của Platon.
Tuy nhiên, sau khi thưởng thức những tư tưởng động trời của Platon chúng ta thấy rằng những tư tưởng
của Aristote không khác gì một cơn gió mát thổi vào một buổi trưa hè.
Chúng ta có thể bất đồng ý kiến với Aristote về một vài điểm chẳng hạn như Aristote cho rằng tam đoạn
luận là một lối suy luận thông thường và chính xác trong khi ngày nay chúng ta có khuynh hướng coi rằng
tam đoạn luận cũng chỉ là một mánh lới để thuyết phục kẻ khác. Ông tưởng rằng tư tưởng con người đi từ
các nguyên đề để tìm đến kết luận trong khi trên thực tế có rất nhiều trường hợp con người đi tìm kết luận
trước rồi mới cố đặt ra những nguyên đề để chứng minh kết luận của mình.
Những nhận xét của Aristote về thiên nhiên chứa rất nhiều sai lầm quan trọng. Ông thường để cho các tư
tưởng siêu hình ảnh hưởng đến các nhận xét khoa học. Đây cũng là một đặc điểm của nền văn hoá Hy
Lạp : Các học giả thời ấy thường đi đến kết luận một cách quá hấp tấp. Trong thế giới hiện nay chúng ta
lại gặp một trường hợp trái ngược : chúng ta có quá nhiều nhận xét đến nỗi chúng ta cảm thấy vô cùng bối
12
rối khi phải đi đến một kết luận vì các sự kiện, các con số, các nhận xét không ăn khớp với nhau.
Công trình nghiên cứu của Aristote về đạo đức học bị ảnh hưởng quá nhiều của luận lý học. Kết quả là
một công trình quá khô khan không đủ sức thúc đẩy con người tự cải thiện. Lý tưởng của Aristote thiên về
một đời sống quá bình thản, quá ôn hoà, một đời sống mà người ta thường gán cho giai cấp thượng lưu ở
Anh-cát-lợi. Một điểm đặc biệt là những tác phẩm về đạo đức học của Aristote được 2 trường đại học danh
tiếng tại Anh-cát-lợi là Oxford và Cambridge dùng làm sách giáo khoa. Nhiều thế hệ sinh viên Anh-cát-lợi
xem tác phẩm của Aristote như kinh nhật tụng. Tác phẩm nhan đề là "chính trị" đã góp phần xây dựng tư
tưởng của người Anh để đem lại một nền chính trị ôn hoà và hữu hiệu. Nếu thay vì mến chuộng những tác
phẩm của Aristote, người Anh lại ham mê và áp dụng những tư tưởng của Platon thì bộ mặt của thế giới
có lẽ đã đổi khác.
Chúng ta cần phải để ý rằng tư tưởng của Aristote thuộc về một loại riêng biệt và không có những đặc tính
của những tư tưởng thuần tuý Hy Lạp. Khi ông đến thành Athènes, một thành phố Hy Lạp thì ông đã là một
người trưởng thành. Vì lẽ đó ông không bị ảnh hưởng bởi đặc tính bồng bột của người Hy Lạp, luôn luôn
tìm sự mới lạ trong lãnh vực chính trị, đi từ cải cách này đến cải cách khác cho đến khi sát nhập vào một
chính quyền trung ương. Trái lại Aristote luôn luôn tìm cách tránh sự quá khích. Đặc tính ôn hoà của ông
làm cho tư tưởng ông một đôi khi có vẻ quá tầm thường. Ông rất sợ những tình trạng hỗn loạn trong xã hội
đến nỗi đã lên tiếng bênh vực chế độ nô lệ. Ông sợ những sự thay đổi và chủ trương một xã hội trung
thành với các tập tục cổ xưa. Ông quên rằng chế độ cộng sản của Platon chỉ áp dụng đối với giai cấp
thống trị, một giai cấp lý tưởng mà Platon đã coi như hoàn toàn giác ngộ, không còn tham lam vị kỷ. Mặc
dù đả kích Platon, Aristote cũng đi đến kết luận gần giống như Platon khi ông chủ trương rằng các tài sản
trong xã hội cần phải đem ra sử dụng chung. Ông bênh vực quyền sở hữu những ông không thấy rằng
quyền sở hữu chỉ có ích đối với xã hội khi vật sở hữu là những món đồ dùng cá nhân không quan trọng .
Trái lại khi quyền sở hữu cá nhân liên quan đến các phương tiện sản xuất rộng lớn nó sẽ đưa đến sự tập
trung quyền hành quá mạnh và sự bất bình đẳng quá lớn trong xã hội.
Tuy nhiên những nhận xét kể trên thật ra hoàn toàn không cần thiết đối với một hệ thống tư tưởng đã ra
đời cách đây 2500 năm. Dù sao đi nữa Aristote đã nêu cao ngọn đuốc văn minh cho nhân loại đồng soi
chung. Ông đã đặt nền móng cho một hệ thống tư tưởng vững chắc và giúp cho các thế hệ tương lai dựa
vào đó để phát triển sự nghiên cứu sưu tầm hầu mạnh tiến trên con đường tìm chân lý. Những nền văn
minh kế tiếp đều mang một món nợ tinh thần đối với Aristote. Những tác phẩm của ông lần lượt được
phiên dịch trong suốt quá trình tiến triển của nhân loại nhất là vào thế kỷ thứ 5, thế kỷ thứ 10, thứ 13 và
thứ 15. Đạo quân thánh chiến đã đem về Âu châu nhiều tác phẩm của Aristote và các học giả thành
Constantinople đã mang theo những tác phẩm của Aristote như những bảo vật khi họ phải tản cư khỏi
thành phố này trước những đội quân xâm lăng Thổ-nhĩ-kỳ. Các tác phẩm của Aristote được mến chuộng
nhiều cho đến nỗi các cấp lãnh đạo giáo hội Thiên chúa giáo đem lòng ganh ghét vì sợ làm lu mờ các điều
truyền dạy trong thánh kinh. Năm 1215 việc giảng dạy các tác phẩm của Aristote bị giáo hoàng cấm, năm
1231 đức giáo hoàng Gregory IX thành lập một uỷ ban để khai trừ Aristote, tuy nhiên đến 1260 thì thái độ
của giáo hội thiên chúa giáo đối với Aristote hoàn toàn thay đổi. Việc giảng dạy các tác phẩm của ông
chẳng những không bị cấm mà còn bị bắt buộc trong các trường thiên chúa giáo. Những thi sĩ như Chaucer
và Dante không tiếc lời ca tụng Aristote. Một số tư tưởng của ông đã ngự trị trong lịch sử văn minh nhân
loại hàng chục thế kỷ trước khi bị lu mờ bởi những chứng minh khoa học.
10. TUỔI GIÀ VÀ CHẾT :
Cuộc đời của Aristote có rất nhiều nỗi truân chuyên. Ông có sự bất bình với vua Alexandre vì nhà vua đã
xử tử một người cháu của ông. Nguyên do vụ án này là vì cháu của Aristote không chịu phục tòng
Alexandre. Trong lúc đó, Aristote lên tiếng bênh vực Alexandre trước những chỉ trích của phe chống đối tại
Athènes. Ông binh vực cho sự thống nhất các tiểu quốc người Hy Lạp và muốn thấy tình trạng chia rẽ
chấm dứt càng sớm càng tốt. Ông muốn dành vai trò thống nhất các dân tộc Hy Lạp cho Alexandre cũng
như sau này văn hào Goethe muốn dành vai trò thống nhất các dân tộc Âu châu cho Napoléon. Trong khi
đó các nhóm chia rẽ tại Athènes càng ngày càng bành trướng, họ cương quyết phản đối việc Alexandre
cho đúc một bức tượng của Aristote và đặt ở Athènes. Trước tình thế này Aristote rất khó lòng giữ được vẻ
lạnh lùng và bình tĩnh trước cuộc đời như ông thường cổ võ trong tác phẩm „Đạo đức học“. Những môn đệ
của Platon phụ họa với các nhóm chính trị khác vận động để kết tội Aristote.
Năm 323 tTL vua Alexandre chết. Dân chúng thành Athènes thừa dịp đó tuyên bố ly khai và đánh đổ đảng
Macédoine là đảng đã ủng hộ Alexandre. Một nhà lãnh đạo tôn giáo cầm đầu phong trào chống đối
Aristote vì cho rằng Aristote đã phản lại tôn giáo bằng cách cổ võ dân chúng không nên cầu nguyện và
13
cúng tế. Aristote biết trước thế nào ông cũng bị đem ra xử trước một đám dân chúng cuồng tín và có nhiều
ác cảm. Ông bèn rời bỏ thành phố Athènes để đi nơi khác. Cử chỉ này không phải là một cử chỉ ươn hèn vì
theo tục lệ thời ấy, nếu một chính trị gia không muốn bị dân chúng xét xử họ có quyền bỏ thành phố để đi
nơi khác. Đến Chalcis Aristote nhuốm bịnh và chết. Có người cho rằng ông đã uống thuốc độc tự tử vì quá
ngao ngán cho nhân tình thế thái.
Cũng trong năm ấy và cũng trong lứa tuổi 62, một vĩ nhân Hy-lạp khác là Démosthène cũng uống thuốc
độc tự tử. Thế là trong vòng một năm dân Hy-lạp đã mất một nhà lãnh đạo tài ba nhất, một nhà hùng biện
hùng hồn nhất và một triết gia thông thái nhất. Ngôi sao của Hy-lạp mờ dần trước sự tiến triển vượt bực
của người La-mã. Tuy nhiên sự lộng lẫy của La-mã căn cứ vào sức mạnh hơn là vào nền văn hoá. Sau đó
nền văn minh La-mã cũng tàn rụi. Dân chúng Âu châu phải trải qua 1000 năm đen tối trong khi chờ đợi sự
tái sinh của triết học./.
Chương 3 :
FRANCIS BACON ( 1561 – 1626 )
1. TỪ ARISTOTE ĐẾN THỜI PHỤC HƯNG:
Khi bị dân thành Sparte bao vây và đánh bại vào khoảng cuối thế kỷ thứ 5 trước Tây lịch, Athènes, bà mẹ
của triết học và nghệ thuật Hy Lạp, bị mất hết ưu thế chính trị, và hùng khí cùng nền độc lập của tâm thức
Athènes cũng suy tàn. Khi vào năm 399 tTL Socrate bị kết án tử hình, thì linh hồn của Athènes cũng chết
theo ông, chỉ còn lảng vảng nơi Platon, người môn đệ kiêu hãnh. Và khi vua Philippe xứ Macédoine đánh
bại quân Athènes ở Charonea vào năm 388 tTL và 3 năm sau, khi Alexandre phóng hoả san bằng đô thị
Thèbes rộng lớn, chỉ ngạo nghễ chừa lại ngôi nhà của Pindare, thì rõ ràng là nền độc lập của Athènes về
chính trị và tư tưởng đã bị phá huỷ vô phương phục hồi. Sự thống trị triết học Hy Lạp do người ở thành
Macédoine là Aristote phản ánh sự thuần thục chính trị của Hy Lạp đối với những dân tộc trẻ trung, hùng
tính hơn đến từ phương Bắc.
Cái chết của Alexandre (năm 323 tTL) đã thúc nhanh quá trình này. Vị hoàng tử con trai vẫn còn bán khai
sau mọi sự giáo huấn của Aristote, cũng đã học được sự kính trọng nền văn hoá giàu có của Hy Lạp, và đã
có mộng ước lan truyền nền văn hoá ấy khắp phương đông theo dấu những đội quân đắc thắng của mình.
Sự phát triển thương mãi Hy Lạp và sự tăng bội những trạm thương mãi Hy Lạp suốt miền Á châu nhược
tiểu, đã cung cấp một căn bản kinh tế cho sự thống nhất miền nầy như phần tử của một đế quốc Hy Lạp;
và Alexandre hy vọng rằng từ những trạm rộn rịp nầy, tư tưởng Hy Lạp, cũng như hàng hoá Hy Lạp, sẽ toả
ra để chinh phục. Nhưng ông đã đánh giá quá thấp sự trơ lì và sức chống kháng của tâm thức Đông
phương, cũng như chiều sâu và khối lớn của văn hoá Đông phương. Chung quy, đấy chỉ là một tưởng
tượng của tuổi trẻ, khi giả thuyết rằng một nền văn minh thiếu trưởng thành và không bền vững như văn
minh Hy Lạp có thể đè đầu một nền văn minh vô cùng lan rộng hơn và có gốc rễ trong những truyền thống
cổ kính nhất. Số lượng của Á châu rõ ràng là quá nhiều đối với phẩm chất của Hy Lạp. Ngay chính
Alexandre, vào giờ phút chiến thắng, cũng đã bị chinh phục bởi linh hồn của phương Đông; ông cưới (trong
số nhiều bà) con gái của Darius, ông du nhập vào Âu châu quan niệm đông phương về uy quyền thiêng
liêng của vua chúa; và cuối cùng ông đã làm cho một Hy Lạp hoài nghi phải ngạc nhiên khi công bố, theo
kiểu long trọng đông phương, rằng ông là một vị trời. Hy Lạp đã phì cười; và Alexandre đã uống rượu cho
tới chết.
Sự tan hoà tinh tế nầy của một linh hồn Á châu vào trong thể xác mỏi mệt của một vị chúa tể Hy Lạp được
tiếp nối mau chóng bởi làn sóng thờ phụng và tín ngưỡng đông phương vào Hy Lạp được tiếp nối mau
chóng bởi làn sóng thờ phụng và tín ngưỡng Đông phương vào Hy Lạp dọc theo chính những con đường
giao thông mà vị vua chiến thắng trẻ tuổi đã mở ra; những con đê vỡ mở lối cho đại dương tư tưởng Đông
phương du nhập vào những đồng bằng của tâm thức Á châu còn niên thiếu. Những đức tin thần bí dị đoan
cắm rễ trong những người nghèo của xứ Hy Lạp cổ xưa bấy giờ được tăng cường và lan khắp; tinh thần
thản nhiên chịu đựng của Đông phương cũng đã tìm được một mảnh đất sẵn sàng trong xứ Hy Lạp tuyệt
vọng. Sự du nhập nền triết học khắc kỷ vào Athènes do thương gia người Phoenicia là Zénon (khoảng năm
310 tTL) chỉ là một trong nhiều sự xâm nhập của Đông phương. Cả hai thuyết khắc kỷ và hưởng lạc - sự
thản nhiên chấp nhận thất bại và nỗ lực để quên thất bại trong vòng tay của lạc thú - là những lý thuyết về
cách thức làm sao có thể hạnh phúc trong khi vẫn bị phục tòng hay nô lệ; hệt như thuyết khắc kỷ kiểu
Đông phương bi quan của Schopenhauer và thuyết hưởng lạc tuyệt vọng của Renan vào thế kỷ 19, đã là
những biểu tượng của một nền cách mạng tan rã và một nước Pháp điêu linh.
Không phải những phản đề tự nhiên nầy của lý thuyết đạo đức hoàn toàn mới mẻ đối với Hy Lạp. Người ta
gặp chúng trong một Héraclite buồn thảm và "triết gia cười" Démocrite; và người ta thấy những môn đệ của
14
Socrate chia phân thành ra hai phái dưới sự lãnh đạo của Anthisthènes và Aristippel, một bên tán dương sự
thản nhiên chịu đựng, một bên ca tụng hạnh phúc. Tuy nhiên ngay cả vào thời ấy, đây cũng là những hình
thái tư tưởng hầu như xa lạ: đô thị Athènes vương giả không quen thuộc với chúng. Nhưng khi Hy Lạp đã
thấy Chaeronea trong máu và Thèbes thành tro, nó mới lắng nghe Diogène, và khi vinh quang đã rời bỏ
Athènes thì đô thị nầy thuần thục sẵn sàng đón Zénon và Epicure. Zénon xây dựng triết học ông về tánh
thản nhiên trên một thuyết tất mệnh mà một nhà khắc kỷ sau này, Chrysippus, nhận thấy rất khó phân biệt
với thuyết định mệnh của Đông phương. Khi Zénon, người không tin chủ nghĩa nô lệ, đánh đập người nô lệ
mình vì một lỗi nào đó, người nô lệ đã bình thản biện hộ rằng, theo triết học của chủ, y đã bị số phận từ vô
thỉ phải phạm lỗi ấy; Zénon đã trả lời rằng ông cũng thế, đã có phần số phải đánh y vì lỗi kia. Cũng như
Schopenhauer cho rằng ý chí cá nhân chống lại ý chí phổ quát là việc vô ích, nhà khắc kỷ cũng lý luận
rằng thái độ lãnh đạm triết lý là thái độ hợp lý duy nhất trong một đời sống mà sự tranh đấu sống còn phải
chịu số phận oan uổng là luôn luôn đưa đến thất bại tất yếu. Nếu sự chiến thắng là hoàn toàn bất khả thì
đáng nên khinh bỉ nó. Bí quyết của sự bình an không phải là thực hiện cho kỳ được những ham muốn, mà
ham muốn thật ít để có thể thực hiện. Seneca, nhà khắc kỷ La Mã (mất năm 65) bảo: "Nếu những gì bạn
có dường như không đủ cho bạn, thì dù bạn sở hữu cả thế giới bạn cũng vẫn còn khổ sở".
Một nguyên tắc như thế kêu lên thấu trời để đòi hỏi nguyên tắc đối lập nó, và Epicure -mặc dù chính ông là
một người khắc kỷ trong cuộc sống như Zénon- đã cung cấp đối lập ấy. Theo Fénelon, Epicure "đã mua
một khu vườn xinh đẹp, mà tự ông chăm bón, ở đấy ông lập trường học và sống một đời êm đềm dễ chịu
với các môn đệ trong khi ông đi dạo và làm việc... Ông cho rằng không gì cao quý hơn áp dụng chính bản
thân mình vào triết học". Khởi điểm của ông là một niềm xác tín rằng sự buồn thảm không thể có và khoái
lạc - mặc dù không nhất thiết là khoái lạc giác quan - là cứu cánh duy nhất có thể quan niệm và hoàn toàn
chính đáng của đời sống và hoạt động. "Thiên nhiên hướng dẫn mọi cơ thể để ưa thích tiện nghi cho riêng
nó hơn mọi sự tốt đẹp khác"; ngay cả người khắc kỷ cũng tìm thấy niềm vui tế nhị trong sự khước từ. "Ta
không được tránh lạc thú, nhưng phải tuyển chọn chúng". Như vậy, Epicure không phải là kẻ hưởng lạc;
ông ca tụng những nguồn vui của trí thức hơn là của giác quan; ông cảnh cáo chống lại những khoái lạc
kích động và quấy rối linh hồn mà đáng lẽ chúng phải làm cho an tĩnh và lắng dịu. Cuối cùng ông đề nghị
tìm kiếm không phải khoái lạc trong nghĩa thông thường, mà ataraxia -sự an tĩnh, bình lặng, yên nghỉ của
tâm hồn, tất cả điều ấy đều rất gần với nỗi thản nhiên chịu đựng kiểu Zénon.
Những người La Mã đến cướp phá Hy Lạp vào năm 146 tTL, tìm thấy những học thuyết thù nghịch này
đang phân chia chiến trường triết học và không có sự nhàn rỗi cũng như tế nhị để tự mình tư duy, đã mang
những triết học ấy theo cùng với những của cải lượm được chở về La mã. Những nhà tổ chức vĩ đại, cũng
như những kẻ nô lệ tất yếu, đều hướng về tư thái lạnh lùng thản nhiên, thật khó mà làm chủ hay tớ nếu
người ta quá nhạy cảm. Bởi thế nền triết học La Mã phần lớn thuộc học phái Zénon, dù nơi Marc Aurele vị
đế vương hay nơi Épictète kẻ nô lệ; và ngay cả Lucrèce cũng nói về chủ nghĩa khoái lạc một cách khắc kỷ
(như người Anh của Heine buồn bã hưởng lạc), và kết thúc Phúc âm khắc khổ về khoái lạc bằng cách tự
tử. Bản trường ca cao thượng của ông nhan đề "Về bản chất của sự vật" mô phỏng Epicure trong việc ca
ngợi khoái lạc để mà chỉ trích nó. Hầu như đồng thời cới César và Pompey, ông sống ở giữa sự náo động
và hỗn loạn; ngòi bút bất an của ông luôn luôn viết những lời nguyện cầu cho an lạc hoà bình. Người ta
hình dung ông như một linh hồn rụt rè mà tuổi trẻ đã bị những nỗi sợ hãi tôn giáo làm cho đen tối; vì ông
không bao giờ chán bảo độc giả rằng không có địa ngục, trừ ở đây, và không có những vị thiên thần trừ
những thiên thần cốt cách sống trong một khu vườn của Epicure trong những đám mây, và không bao giờ
xen vào những công việc của người. Đối lập sự thờ phụng thiên đường và địa ngục đang thịnh hành trong
dân chúng La Mã, ông đưa ra một thuyết duy vật tàn bạo. Linh hồn và tâm trí đều cùng tiến triển với thể
xác, lớn lên với sự lớn lên của thể xác, đau với sự đau của thể xác, và chết với cái chết của xác. Không gì
hiện hữu ngoài ra nguyên tử, không trung và định luật; và định luật của những định luật là định luật thành
hoại lan khắp.
Không một vật gì dừng trụ, mọi sự đều tuôn chảy.
Mảnh này bám lấy mảnh kia; vạn vật cứ thế lớn dần.
Cho đến khi ta biết và đặt tên chúng.
Dần dần chúng tan rã, và không còn là những vật ta biết.
Được kết thành hình cầu từ những nguyên tử rơi nhanh hay chậm
Tôi thấy những mặt trời và những thái dương hệ thành hình;
Và ngay những thái dương hệ cùng những mặt trời ấy
Sẽ từ từ trở về chu kỳ vần xoay bất tận
Ngươi nữa, hỡi quả đất - đế quốc ngươi, đất, biển và những ngôi sao nhỏ nhất trong ngân hà,
Cũng như chúng, ngươi thành hình từ cơn xoay vần và cũng như chúng,
15
Ngươi sẽ đi. Ngươi đang đi, từng giờ một
Không vật gì dừng trụ: Biển của ngươi từ từ biến mất.
Những bãi cát trăng soi rời bỏ chỗ chúng;
Và nơi hoàng sa kia sẽ có những biển khác đến xoá tan bờ vịnh bằng những lưỡi hái trắng ngần
(Lucretius on life and death. pp.15-16 -Mallock diễn ra Anh ngữ- !)
Cộng thêm vào sự thành hoại của các tinh tú là sự khởi nguyên và tận diệt của các loài:
Ngày xưa quả đất cũng đã sản xuất nhiều quái vật, những con vật này có mặt mày chân tay kỳ dị...; có
những con không chân, có những con không tay, có những con không mồm, có những con không mắt,...
Mọi quái vật thuộc loài ấy quả đất đã sản xuất, nhưng vô hiệu; vì thiên nhiên không để chúng tăng trưởng,
chúng không thể đạt đến tuổi hoa niên mong mỏi, cũng không kiếm ăn được, cũng không phối hợp được
trong hôn nhân; ... và nhiều loài chắc đã phải diệt dần như thế và không thể sinh con hay tiếp tục sinh
sống. Vì trong trường hợp mọi sinh vật mà ta thấy hô hấp hơi thở của sự sống, từ khởi thuỷ mỗi loài đều có
hoặc tài năng hoặc can đảm, hoặc vận tốc đã che chở và bảo tồn cho nó... Những loài mà thiên nhiên
không cho một đặc tình nào kể trên đều sẽ bị phó mặc làm mồi cho những loài khác, cho đến khi thiên
nhiên đưa chúng đến chỗ tận diệt (p. 830ff, Munro dịch).
Các quốc gia cũng như cá nhân, từ từ lớn lên và chắc chắn phải chết: "một vài quốc gia trổi lên, vài quốc
gia khác tàn tạ, và trong một khoảng ngắn thời gian, những sinh vật bị biến đổi, và cũng như những kẻ
chạy đua, chuyền lại ngọn đèn của sự sống". Trước chiến tranh và cái chết không thể tránh, không có sự
khôn ngoan nào ngoài ra trong thái độ an nhiên ataraxia, - "nhìn mọi sự với cõi lòng bình an". Ở đây, rất rõ,
niềm vui vô thần cũ về cuộc đời đã mất, và một tinh thần hầu như xa lạ đang chạm một chiếc đàn cầm đã
gãy vỡ. Lịch sử, vốn chỉ là một trò khôi hài, chưa bao giờ đùa dai cho bằng khi nó tặng danh từ "hưởng lạc"
cho con người yếm thế bi tráng và tiết độ nầy.
Và nếu đây là tinh thần của môn đồ Epicure, thì ta hãy tưởng tượng niềm lạc quan phấn khởi của những
nhà khắc kỷ rõ rệt như Aurèle, hay Épictète. Không có gì trong mọi nền văn học lại buồn thảm bằng những
bài "nghị luận" của người nô lệ, trừ phi những bài "Trầm tư" của vị hoàng đế. "Đừng tìm cách làm cho sự
vật xảy ra như ngươi muốn, mà tốt hơn chúng xảy ra thế nào thì hãy lựa chọn thế ấy; như vậy ngươi sẽ
sống phong phú" (Enchiridion and Dissertations of Epictetus, de Rolleston, p. 81). Dĩ nhiên bằng cách ấy ta
có thể làm chủ tương lai và cũ trụ. Chuyện kể rằng người chủ Epictète thường xuyên đối xử tàn nhẫn với
ông, một ngày kia khởi sự vặn bẻ một ống chân Epictète để tiêu khiển. Epictète bảo: "Nếu ngài tiếp tục,
ngài sẽ làm gãy chân tôi". Người chủ cứ tiếp tục và cái chân gãy thật. Epictète ôn tồn nhận xét: "Đấy, há tôi
đã chẳng bảo ngài sẽ làm gãy chân tôi đấy sao ?. Tuy nhiên có một vẻ gì cao thượng huyền bí trong triết lý
này, như trong sự can đảm yên lặng của một người chủ hoà kiểu Dostoevski. "Đừng bao giờ bảo rằng : tôi
đã mất vật nọ vật kia; mà phải nói : tôi đã trả nó về. Con của bạn chết chăng ? - nó được trả về. Vợ bạn
chết chăng ? - nàng được trả về. Bạn bị tước mất hết tài sản chăng ? - há chẳng phải nó cũng được trả về
đấy hay sao ?" Trong những đoạn văn như thế ta thấy gần giống với Kitô giáo và những thánh tử đạo anh
dũng của tôn giáo này; quả thế, há chẳng phải nền đạo đức Kitô giáo về sự quên mình, lý tưởng chính trị
Kitô về tình huynh đệ - gần như kiểu cộng sản - giữa người với người và thuyết mạt thế Kitô giáo về sự
thiêu huỷ cuối cùng của toàn thế giới - chính là những mảnh vụn của chủ thuyết khắc kỷ đang trôi nổi trên
dòng tư tưởng. Trong Epictète, linh hồn Hy Lạp - La Mã đã mất tính cách vô thần của nó, và sẵn sàng cho
một niềm tin mới. Sách của ông có hân hạnh đặc biệt là được giáo đường Kitô sơ thuỷ áp dụng như một
cuốn yếu lược tôn giáo. Từ những "Nghị luận" này và những "Trầm tư" của Aurèle đến "Sự mô phỏng đấng
Kitô" chỉ cách nhau một bước.
Trong lúc ấy bối cảnh lịch sử đang hoà vào trong những cảnh tượng mới hơn. Có một đoạn văn đặc sắc
trong Lucrèce tả sự suy tàn của nông nghiệp trong cuốn La Mã, và quy sự suy tàn ấy cho lý do đất đã kiệt
lực. Dù nguyên nhân nào đi nữa, sự giàu có của La mã cũng đã nhường bước cho cảnh nghèo nàn, tổ chức
trở thành phân hoá, quyền lực và niềm kiêu hãnh trở thành sự suy vi và nỗi thản nhiên chịu đựng. Các đô
thị rơi vào tình trạng những miền nội địa không có gì đặc sắc; đường xá rơi vào tình trạng thiếu sửa chữa
và không còn tấp nập việc mậu dịch thương mãi; những gia đình nhỏ của người La mã có giáo dục bị lấn
lướt bởi những giòng giống Đức mạnh mẽ vô giáo dục hằng năm len lỏi qua biên giới; văn hoá vô thần
nhường bước cho tín ngưỡng Á đông; và dần dà, một cách tinh vi, đế quốc trở thành Giáo quốc của nhà
thờ Công giáo La mã.
Giáo đường, vào những thế kỷ đầu tiên, được ủng hộ bởi những vị vua dần dần bị lấn quyền, phát triển
nhanh chóng về số lượng, tài sản và tầm ảnh hưởng. Vào thế kỷ 13, nó đã chiếm một phần ba đất Âu
châu (Robinson và Beard: Outlines of European History, Boston, 1914, I, 443) và những tủ sắt của nó đầy
nhóc những tặng dữ (?) từ người giàu và kẻ nghèo. Trong một nghìn năm, với bùa phép của một tín điều
không thay đổi, nó đã thống nhất phần lớn dân tộc của một lục địa; chưa bao giờ trước đấy, và từ đấy đến
16
nay, có một tổ chức nào lan rộng đến thế hay hoà bình đến thế. Nhưng sự thống nhất này, theo giáo
đường nghĩ, đòi hỏi một đức tin chung được tăng cường bằng những hình phạt siêu nhiên ở bên ngoài
chuyển biến và sự ăn mòn của thời gian; bởi thế những giáo điều cố định và được giải thích kỹ càng được
đúc nên như một cái vỏ cứng trên tâm thức mới lớn của Âu châu thời trung cổ. Chính trong giới hạn lớp vỏ
này nền triết học kinh viện đã di chuyển hạn hẹp từ đức tin đến lý trí và trở lại, mắc kẹt quanh quẩn trong
một vòng tròn gồm những giả thuyết không được phê phán và những kết luận có trước. Vào thế kỷ mười
ba, tất cả tín đồ Kitô giáo phải giật mình và kích động trong bản dịch tác phẩm Aristote ra tiếng Ả-rập và
Do thái; những uy lực của giáo đường vẫn còn có đủ qua thánh Thomas d Aquin và những người khác để
biến hoá Aristote thành một nhà thần học trung cổ. Kết quả đấy là sự khôn khéo tinh ranh, chứ không phải
minh triết. "Trí khôn và tâm thức con người - Bacon bảo- nếu tác động trên vật chất, nó sẽ tuỳ thuộc vào
nguyên liệu mà tác động, và do đó bị nguyên liệu hạn chế. Nhưng nếu nó tác động trên chính nó như nhện
giăng tơ, tằm làm kén, thì nó thành ra vô tận, và quả thế mang lại những mạng nhện của sự uyên bác,
đáng phục vì công trình tinh vi song lại không thực chất vì vô bổ". Sớm muộn gì tri thức Âu châu cũng sẽ
nhảy ra khỏi lớp vỏ này.
Sau một ngàn năm chăm bón, đất nở hoa trở lại; hàng hoá được tăng bội thành một số thặng dư buộc phải
có mậu dịch; và việc mậu dịch ở những con đường chéo của nó lại dựng lên những đô thị mới, nơi đó
người ta có thể cộng tác để bồi dưỡng văn hoá và dựng lại văn minh. Những cuộc thánh chiến mở những
con đườmg đến Âu châu, và để tràn vào một dòng xa xỉ phẩm và tà thuyết làm tiêu ma chủ nghĩa khắc khổ
và giáo điều. Bấy giờ giấy du nhập rất rẻ từ Ai-cập, thay thế loại da thuộc đắt đỏ đã làm cho việc học trở
thành độc quyền của giới tu sĩ; sự ấn loát, từ lâu chờ đợi một phương tiện ít tốn kém, bây giờ bừng lên như
một chất nổ được châm ngòi, và lan rộng khắp nơi ảnh hưởng phá hoại và soi sáng của nó. Bấy giờ những
thủy thủ gan dạ lại được trang bị địa bàn, dám phiêu lưu vào biển cả hoang vu và chinh phục sự ngu dốt
của con người về trái đất; những nhà quan sát kiên nhẫn với những ống viễn vọng kính, phiêu lưu ra ngoài
giới hạn của giáo điều, và chinh phục được sự ngu dốt của con người về bầu trời. Khắp nơi, trong những
đại hoc đường, trong các chủng viện và những nơi ẩn dật xa xôi, người ta thôi tranh luận và bắt đầu tìm tòi.
Từ nỗ lực biến kim khí loại thấp thành vàng, thuật luyện kim dò dẫm chuyển thành hoá học; từ khoa chiêm
tinh con người dò đường vừa táo bạo vừa rụt rè, đến khoa thiên văn học; và từ những chuyện ngụ ngôn về
loài vật biết nói, khoa động vật học ra đời. Sự bừng tỉnh ấy bắt đầu với Roger Bacon (chết năm 1294); phát
triển với Leonardo da Vinci (1452 - 1519); và viên mãn với nền thiên văn của Copernic (1473 - 1543) và
Galilée (1564 - 1642), với những nghiên cứu của Gilbert (1544 - 1603) về nam châm và điện, của Vesalius
(1514 - 1564) về giải phẫu học, và của Harvey (1578 - 1657) về sự tuần hoàn của máu. Khi hiểu biết tăng,
nỗi sợ hãi giảm; con người bớt nghĩ đến việc thờ phụng cái vô hình, và nghĩ nhiều hơn đến việc thắng lướt
nó. Mọi sinh lực được nâng cao với một niềm tin tưởng mới; những hàng rào bị phá huỷ; bấy giờ không còn
giới hạn nào cho những gì con người có thể làm. "Nhưng sự kiện những chiếc tàu nhỏ, như những thiên
thể, được dong buồm quanh khắp địa cầu, chính là niềm hạnh phúc của thời đại chúng ta. Bây giờ chính là
lúc ta sử dụng từ ngữ plus ultra - xa thêm nữa- "nơi mà những người xưa dùng từ ngữ non plus ultra"
(Bacon; The Advancement of Learning; P.II, chương 10. Một châm ngôn trung cổ báo cho tàu quay lui ở
Gibraltar vào Địa trung hải, với hàng ghi: Non plus ultra - Đừng đi xa hơn). Đấy là thời đại của những công
trình, của hy vọng và sự hùng mạnh, của những bắt đầu và những khởi công mới trong mọi địa hạt; một
thời đại đang chờ đợi một tiếng nói, một linh hồn tổng hợp có thể nói trọn một cách vắn tắt tinh thần và
quyết định của nó. Chính Francis Bacon, "tâm thức hùng mạnh nhất của thời đại tân tiến" (Epicure.J.
Payne trong The Cambridge Modern History, I, 65) là người đã "rung chuông triệu tập những đại trí lại cùng
nhau", và công bố Âu châu đã đến tuổi trưởng thành.
2. SỰ NGHIỆP CHÍNH TRỊ CỦA BACON:
Bacon sinh ngày 22 tháng giêng năm 1561, ở York House London, tư dinh của thân phụ ông là Sir Nicholas
Bacon, viên quan giữ ấn trong 20 năm đầu của nữ hoàng Elizabeth. Theo Macaulay, "danh tiếng của người
cha đã bị khuất vào bóng tối trước danh tiếng của người con. Nhưng Sir Nicholas không phải là người tầm
thường". Đấy là điều ta không lạ, vì thiên tài là một tuyệt đỉnh mà một gia tộc đào luyện được qua nhân tài,
rồi qua nhân tài nơi hậu duệ của thiên tài, gia tộc lại chìm vào sự tầm thường của con người như cũ. Thân
mẫu Bacon là Lady Anne Cooke, em dâu của Sir William Cecil, quan giữ kho của nữ hoàng Elizabeth, vừa
là một trong những người thế lực nhất ở Anh quốc. Thân phụ bà đã từng làm quan phụ đạo chính thức của
vua Edward đệ lục; và chính bà là một nhà ngữ học và thần học, không nghĩ đến việc gì ngoài việc giao
dịch thư từ bằng tiếng Hy Lạp với những vị giám mục. Bà tự làm thầy dạy dỗ con trai và không từ một việc
khó nhọc nào trong việc giáo huấn cậu. Nhưng vú nuôi thực thụ của thiên tài Bacon chính là Anh quốc vào
thời nữ hoàng Elizabeth, thời đại huy hoàng nhất của quốc gia hùng mạnh nhất trong các quốc gia tân tiến.
17
Sự tìm ra Mỹ châu đã chuyển hướng việc mậu dịch từ biển Địa trung hải sang Đại tây dương, đã nâng
những quốc gia vùng Đại tây dương -Tây ban nha, Pháp, Hoà lan, Anh- lên ngôi chúa tể về thương mãi và
tài chánh mà trước đấy là của Ý khi một phân nửa Âu châu đã biến Ý thành hải cảng xuất nhập trong việc
mậu dịch ở Đông phương; và với cuộc biến đổi này, sự phục hưng đã đi từ Florence, La mã, Milan, Venice
đến Madrid, Paris, Amsterdam và London. Sau trận phá huỷ hải lực của Tây Ban Nha vào năm 1588, nền
thương mãi Anh bành trướng khắp mọi hải phận, những thị thành Anh quốc phồn thịnh với kỷ nghệ, những
thuỷ thủ Anh lái tàu quanh địa cầu, và những thuyền trưởng của Anh đã chiếm được Mỹ châu. Nền văn
chương Anh nở thành thơ của Spencer và tản văn của Sidney; sân khấu Anh quốc rộn rịp với những vở
kịch của Shakespeare, Marlowe và Ben Johnson cùng một trăm ngòi bút vững mạnh khác. Không ai không
phát triển được trong một thời đại và xứ sở như thế, nếu trong họ có sẵn hạt mầm.
Năm hai mươi tuổi, Bacon được gởi đến Trinity College ở Cambridge. Ông ở đấy 3 năm, rồi rời trường với
một mối thù ghét mãnh liệt đối với những bài học và phương pháp của nó, một mối thù nghịch sâu xa đối
với sự tôn thờ Aristote và một ý chí cương quyết đặt triết học vào một con đường phì nhiêu hơn, chuyển nó
từ sự tranh luận kinh viện đến việc soi sáng và tăng gia lợi ích nhân sinh. Mặc dù còn là một cậu bé mười
sáu, Bacon đã được mời làm một nhân viên của toà đại sứ Anh tại Pháp; và sau khi tính kỹ lợi hại, ông
nhận lời. Trong lời Tự ngôn cho cuốn Giải thích thiên nhiên ông đã bàn đến quyết định có tính cách định
mệnh đã chuyển hướng ông từ triết học đến chính trị. Đấy là một đoạn văn quan trọng :
Trong khi tôi tin rằng tôi được sinh ra để phụng sự nhân loại, và xem việc lo lắng đến lợi ích chung là một
trong những nhiệm vụ chung, mở ra cho tất cả không phân biệt, chẳng khác nào nước và không khí, tôi tự
hỏi điều gì có thể làm lợi ích cho nhân loại nhất, và thiên nhiên đã uốn nắn tôi để làm việc gì ?
Nhưng khi cố tìm, tôi vẫn không thấy công việc nào xứng đáng bằng sự tìm tòi và phát triển những nghệ
thuật và phát minh đưa đến sự văn minh hoá sinh hoạt con người ...
Nhất là nếu một người có thể thành công, không những trong việc đưa ra ánh sáng một sự phát minh đặc
biệt nào dù lợi ích đến đâu mà còn trong việc nhen nhúm lên trong thiên nhiên một ánh sáng có thể, khi
vừa bừng lên, đã chiếu rọi một ít ánh sáng vào những giới hạn hiện tại trong những khám phá của con
người, rồi sau đó, khi vươn cao, sẽ làm hiển lộ cho thấy rõ mọi ngõ ngách của bóng tối; đối với tôi, một nhà
phát minh như thế sẽ xứng đáng được gọi là Người Triển Khai đích thực Vương quốc con người ra ngoài vũ
trụ. Nhà vô địch về tự do con người, Kẻ Tiêu diệt những lẽ tất yếu hiện giam giữ người ta trong vòng nô lệ.
Hơn nữa, tôi nhận thấy trong bản chất riêng tôi một sự thích ứng đặc biệt để suy ngẫm chân lý. Vì tôi có
một trí óc vừa uyên bác đủ cho mục đích quan trọng nhất ấy, nghĩa là sự trung thực nhận những điểm
tương đồng vừa khá vững chãi và tập trung để quan sát những mức độ vi tế của sự dị biệt. Tôi có một đam
mê tìm tòi, một năng lực dừng nghỉ sự phán đoán một cách kiên nhẫn, một năng lực để trầm tư trong hân
hoan, để chấp nhận với dè dặt, để sẵn sàng sửa chữa những cảm tưởng sai lạc, và để chịu khó xếp đặt tư
tưởng cẩn thận. Tôi không khát vọng cái mới, không thán phục mù quáng cái cổ. Tôi hoàn toàn ghét sự giả
mạo dưới mọi hình thức. Bởi tất cả những lý lẽ ấy, tôi xét thấy rằng thiên tư và bản chất tôi, dường như có
một thứ liên lạc bà con với chân lý.
Nhưng dòng dõi, sự giáo huấn của tôi, tất cả đều đã hướng không về triết lý mà về chính trị : tôi hầu như
được thấm nhuần về chính trị từ thuở ấu thơ. Và cũng như trường hợp thường thấy ở các thanh niên, đôi
khi tôi bị lung lay bởi những quan niệm. Tôi cũng nghĩ rằng nhiệm vụ đối với xứ sở có những đòi hỏi đặc
biệt nơi tôi, những đòi hỏi mà những nhiệm vụ khác của đời không thể lấn áp. Cuối cùng tôi nuôi hy vọng
rằng, nếu tôi giữ một chức vụ danh dự nào trong quốc gia, tôi có thể có những trợ giúp bảo đảm cho công
việc tôi, với ý hướng hoàn thành nhiệm vụ được dành cho tôi. Với những động lực ấy, tôi bước vào chính trị
( Do Abott dịch từ La ngữ sang Anh ngữ trong cuốn Francis Bacon, London, 1885, tr.37) .
Năm 1570 Sir Nicholas Bacon chết bất ngờ. Ông đã định cấp cho Francis một gia tài, nhưng cái chết đã
cướp kế hoạch ông, và nhà ngoại giao trẻ tuổi, khi được gọi gấp về London, đã bừng con mắt dậy thấy
mình không cha, không tiền lúc mười tám tuổi. Ông đã quen với phần lớn những xa hoa của thời đại, nên
bây giờ thấy rất khó khăn để an phận với nếp sống đạm bạc bất đắc dĩ . Ông bắt đầu hành nghề luật,
trong khi khẩn cầu những thân quyến có ảnh hưởng tiến cử ông vào một chức vụ chính trị nào để có thể
giải thoát ông khỏi mối lo về kinh tế. Nhưng bức thư hầu như van xin của ông đã không được kết quả bao
nhiêu so với lời văn tráng lệ hùng hồn và tài nghệ rõ rệt của tác giả. Có lẽ chính vì Bacon không đánh giá
thấp tài nghệ này, và xem địa vị như điều ông dĩ nhiên phải có, cho nên Lord Burghley đã không đem lại sự
đáp ứng mong mỏi; và cũng có lẽ vì những bức thư kia quá long trọng thề nguyền trung thành với vị Lord
trong quá khứ, hiện tại cũng như vị lai: trong chính trị, cũng như trong tình yêu, không nên tự hiến mình
toàn vẹn; người ta nên cho luôn luôn, nhưng không bao giờ nên cho tất cả. Lòng biết ơn được nuôi dưỡng
bằng sự mong chờ.
Cuối cùng, Bacon đã leo lên được mà không cần sự nâng đỡ từ bên trên; nhưng mỗi bước phải làm ông
18
hao tổn nhiều năm. Năm 1583 ông được bầu vào Nghị viện đại diện cho tỉnh Taunton, và những cử tri thích
ông đến nỗi họ tái cử cho ông nhiều lần. Ông có một tài hùng biện mạnh mẽ trong cuộc tranh luận, và là
một nhà hùng biện không rườm lời. "Không có một người nào đã từng ăn nói rõ ràng, chặt chẽ, hùng hồn
hơn -Ben Johnson bảo- hoặc từng ít bị trống rỗng, vô duyên hơn trong những gì mình nói. Không một chữ,
một câu nào trong lời nói ông lại không có những duyên dáng riêng của nó. Những người nghe không thể
ho hay nhìn sang phía khác mà không bị mất mát điều gì. Ông điều khiển mỗi khi ông nói ... Không ai được
nhiều quý chuộng của thính giả hơn ông trong mãnh lực thu hút ấy. Nỗi sợ hãi của mọi người nghe ông là
sợ rằng ông sẽ chấm dứt (Nichol; Francis Bacon, Edingburg, 1907; p. 37). Nhà hùng biện đáng thèm !
Ông có một người bạn thế lực rất giàu lòng với ông -quận công Essex đẹp trai mà nữ hoàng Elizabeth đã
yêu không được nên đâm ra thù. Năm 1595 Essex, để bù lại sự thất bại của mình trong việc bảo đảm một
địa vị chính trị cho Bacon, đã tặng Bacon một cơ sở đẹp ở Twickenham. Đấy là một món quà vĩ đại mà
người ta những tưởng nó có thể ràng buộc Bacon với Essex suốt đời, nhưng té ra không. Vài năm sau
Essex tổ chức một âm mưu hạ ngục Elizabeth và chọn người kế vị bà lên ngôi. Bacon viết thư liên tiếp cho
ân nhân mình, phản đối sự bội phản này, và khi Essex vẫn khăng khăng một mực, Bacon cảnh cáo ông ta
rằng sẽ đặt sự tận trung với nữ hoàng lên trên cả lòng biết ơn bạn. Essex đã cố gắng thực hiện âm mưu,
bị thất bại và bị bắt. Bacon năn nỉ với nữ hoàng cho bạn mình một cách dai dẳng đến nỗi cuối cùng nữ
hoàng bảo ông "nói chuyện gì khác". Khi Essex, được tự do tạm, tụ tập quân lực lại, diễn hành vào London
và cố xách động dân chúng làm cách mạng, Bacon giận giữ chống lại ông. Trong lúc ấy Bacon đã được
một ghế xử án trong triều đình, và khi Essex bị bắt lại, bị xử vì phản nghịch, Bacon đã dự phần tích cực
trong vụ xử người đã là người bạn rất hào phóng đối với ông.
Essex bị xử có tội và bị tử hình. Sự tham dự của Bacon vào việc xử án đã làm cho ông mất thanh danh một
thời gian; và từ đấy trở đi ông sống giữa những kẻ thù đợi dịp để trả thù ông. Tham vọng không biết chán
của ông khiến ông không nghỉ ngơi được; ông luôn luôn bất mãn và luôn luôn ông tiêu trước lợi tức của ông
khoảng một năm. Ông tiêu xài phung phí; sự chưng bày đối với ông là một phần của chính sách. Khi, vào
năm bốn mươi tuổi, ông cưới vợ, đám tiệc kênh kiệu và đắt đỏ đã để lại một lỗ thủng lớn trong của hồi
môn vốn là một trong những sự quyến rũ của vị phu nhân. Năm 1598 ông bị bắt vì nợ nần. Tuy nhiên ông
vẫn tiếp tục tiến. Tài năng đa diện và kiến thức hầu như bất tận của ông khiến ông là một hội viên đáng
giá cho mọi hội đồng quan trọng, dần dần nhiều chức vị cao được mở ra cho ông: năm 1606 ông được làm
Solicitor-General; năm 1613 trở thành Attorney-General; năm 1618, vào năm năm mươi bảy tuổi, cuối cùng
ông trở thành Lord Chancellor.
3. NHỮNG BÀI TIỂU LUẬN:
Sự tiến thân của ông dường như đã thực hiện giấc mộng Platon về một thánh vương (vị vua vừa là triết
gia). Vì song song bước một với sự trèo lên thế lực chính trị, Bacon đã lên đến đỉnh cao của triết học. Thật
hầu như không thể tin được rằng tài bác học và những công nghiệp văn chương của con người này lại chỉ
là những biến cố và những chuyển hướng của một sự nghiệp chính trị đầy sóng gió. Châm ngôn của ông
là: người ta sống hay nhất với một đời ẩn dật - Bene vixit qui bene latuit. Ông không thể biết rõ ông thích
đời sống trầm mặc hơn hay đời sống hoạt động hơn. Hy vọng của ông là vừa làm triết gia vừa làm chính
khách như Seneca, mặc dù ông e ngại rằng hướng đi song đôi của đời ông như vậy sẽ làm ngắn tầm mục
tiêu và giảm thiểu mức thu nhập của ông . "Thật khó nói - ông viết (Valerius Terminus, đoạn cuối)- xem sự
pha lẫn suy tư với một đời sống hoạt động, hay sự rút lui hoàn toàn vào việc suy tư, có làm mất khả năng
của tâm trí hơn hay cản trở nó hơn không?". Ông cảm thấy rằng sự học tự nó không thể là cứu cánh hay
minh triết, và một tri thức không được áp dụng trong hành động chỉ là một tri thức thiếu máu. "Dùng quá
nhiều thì giờ vào việc học là lừ đừ; dùng quá nhiều sự học để trang hoàng là làm bộ; phán đoán hoàn toàn
theo quy luật sách vở là tính khí của một học giả. Người tài lên án sự học, người ngu thán phục nó, người
minh triết sử dụng chính nó; bởi vì sự học không dạy sử dụng chính nó; nhưng đây là một sự minh triết ở
bên ngoài và bên trên sự học đạt được nhờ quan sát ("Về sự học"). Đây là một điểm mới, đánh dấu sự
chấm dứt cái học hàn lâm -nghĩa là ly khai giữa tri thức với thực dụng và quan sát- và đặt nặng khía cạnh
kinh nghiệm và kết quả , làm nổi bật triết lý Anh và lên đến tột đỉnh của nó trong thuyết duy dụng. Không
phải Bacon có lúc thôi yêu mến sách và suy tư; bằng những lời khiến ta nhớ đến Socrate, ông đã viết: "nếu
không có triết học tôi không thiết sống ("Đề tặng cuốn Wisdom of the Ancients); và ông tự mô tả mình, cuối
cùng là "một người có thiên tính thích hợp cho văn học hơn cho bất cứ việc gì khác, và đã bị một định
mệnh nào đó đưa đẩy vào đời sống hoạt động phản lại khuynh hướng của tính khí mình" (Tăng tiến Tri
thức). Ấn phẩm hầu như đầu tay của ông gọi là "Ca tụng tri thức" (1592); tính cách nồng nhiệt của nó đối
với triết học khiến ta phải trích dẫn mới được :
19
"Lời ca ngợi của tôi sẽ dành cho chính tâm trí. Tâm trí là con người, và kiến thức là tâm trí, một người chỉ là
những gì mà y biết ... Há chẳng phải lạc thú của tình yêu lớn hơn lạc thú của giác quan, và há chẳng phải
lạc thú của tri thức lớn hơn lạc thú của ái tình ? Há chẳng phải lạc thú tự nhiên chân thật là thứ lạc thú mà
người ta không bao giờ ngấy chán ? Há chẳng phải chỉ có tri thức mới giải toả tâm trí khỏi mọi vọng động ?
Biết bao nhiêu điều chúng ta tưởng tượng song không có thật ? Biết bao nhiêu điều ta đánh giá và xem
trọng hơn chính thực bản chất chúng ? Những tưởng tượng vô lối này, chính là những đám mây lầm lỗi đã
chuyển thành những cơn bão tố của vọng động. Thế thì có một hạnh phúc nào cho tâm thức con người,
một hạnh phúc có thể nâng tâm thức ấy lên trên những hỗn mang của sự vật, ở đấy y có thể kính trọng trật
tự của thiên nhiên và lầm lỗi của con người ? Há chỉ có độc một niềm hoan lạc mà không có sự phát
minh ? Chỉ có sự hài lòng mà không có lợi lộc ? Há chúng ta không đồng thời thấy rõ những báu vật của
kho tàng thiên nhiên cũng như vẻ đẹp của nó ? Chân lý có thực khô cằn chăng ? Há chúng ta sẽ không
nhờ đấy mà có thể sản ra những hậu quả đáng giá, và đem lại cho nhân sinh những tiện nghi vô hạn ?
Sản phẩm văn chương tinh luyện nhất của ông, cuốn "Tiểu luận" (1597 - 1623), chứng tỏ ông vẫn còn bị
dằn xé giữa hai tình yêu, yêu chính trị và yêu triết học . Trong bài "Tiểu luận về danh dự và tiếng tăm", ông
gán tất cả mức độ danh dự cho những công trình quân sự và chính trị , không một mức độ nào được quy
cho công trình văn chương hay triết học. Nhưng trong bài tiểu luận "Bàn về chân lý", ông viết: "Sự tìm tòi
chân lý - sự bắt tình với nó; tri thức về chân lý - sự ca ngợi nó, niềm tin vào chân lý - sự thưởng thức nó, là
điều kiện tối cao của thiên tính con người". Trong những cuốn sách "chúng ta nói chuyện với thánh hiền,
cũng như trong hành động ta nói chuyện với người ngu". Nghĩa là nếu chúng ta biết lựa chọn sách để đọc.
" Một số sách chỉ đáng nếm qua" - để trích một đoạn thời danh- "một số khác đáng nuốt chửng, và một số
ít đáng được nhai nghiền và tiêu hoá"; tất cả những nhóm này, chắc hẳn, đã họp thành một phần rất nhỏ
của những đại dương và những thác mực trong đó hằng ngày thế giới được tắm rửa, bị đầu độc và chết
đuối.
Dĩ nhiên "Tiểu luận" phải được kể trong số ít sách đáng được nhai nghiền và tiêu hoá. Hiếm khi ta tìm thấy
nhiều hào thiện được gia vị và gia hương một cách tuyệt diệu như thế trong một đĩa ăn bé nhỏ. Bacon ghét
rườm rà, và không ưa phung phí một tiếng nào; ông cho ta vô vàn của cải trong một câu ngắn; mỗi bài tiểu
luận trong đó, với khoảng một, hai trang, đem lại sự tinh tế được chưng lọc, của một tâm trí bực thầy về
một vấn đề chính yếu của đời sống. Thật khó nói xem bên hình thức, bên nội dung, bên nào tuyệt hơn; vì ở
đây ngôn ngữ đã đến chỗ tuyệt xảo về tản văn cũng như ngôn ngữ Shakespeare đã tuyệt xảo về văn vần.
Đấy là một lối văn giống như văn của Tacite, hùng mạnh, cô đọng nhưng gọt giũa; và quả vậy một phần
sự sáng sủa khúc triết của nó là nhờ ở sự mô phỏng khéo léo những từ ngữ La Tinh. Nhưng kho tàng ẩn
dụ của nó đặc biệt có tính cách của thời đại Elizabeth, và phản ảnh sự dồi dào của thời Phục hưng; không
người nào trong văn chương Anh lại sung túc về lối so sánh hàm súc và ý nhị như thế. Sự chưng bày
phung phí những so sánh này là khuyết điểm độc nhất trong lối văn của Bacon : những ẩn dụ bóng gió
tượng trưng bất tận đổ xuống như những nhát roi quất trên thần kinh của ta và cuối cùng làm cho ta chán
mệt. Cuốn "Tiểu luận" giống như món ăn nặng nề nhiều gia vị, không thể tiêu hoá nhiều trong một lúc,
nhưng nếu đọc mỗi lần bốn hay năm bài, thì chúng là dưỡng chất tinh thần bổ khoẻ nhất bằng Anh ngữ.
Ta có thể rút ra được gì từ sự minh triết đã được rút tỉa này ? Có lẽ khởi điểm tốt nhất, và sự chuyển hướng
đáng chú ý nhất từ những thời thượng của triết học trung cổ chính là sự chấp nhận hẳn nhiên của ông đối
với đạo đức của Epicure. Quan điểm triết học "đừng sử dụng để khỏi mong muốn, đừng mong muốn để
khỏi sợ hãi, có vẻ là một dấu hiệu của một tâm thức yếu đuối rụt rè. Và quả thế phần lớn những học
thuyết của các triết gia dường như quá hoài nghi, và lo cho nhân loại quá mức cần thiết. Họ làm tăng thêm
nỗi sợ chết khi đưa ra những phương pháp chống lại nó; bởi vì khi họ xem cuộc sống của con người chỉ là
một kỷ luật chuẩn bị cho cái chết, thì dĩ nhiên kẻ thù ấy phải là ghê gớm, sự tự vệ chống lại nó được đặt ra
triền miên" (Tăng tiến tri thức, VII, 2). Không gì tai hại cho sức khoẻ bằng sự tiết chế dục vọng theo thuyết
khắc kỷ; kéo dài một đời sống ra làm gì khi sự an phận thản nhiên đã biến nó thành ra sự chết trước kỳ ?
Ngoài ra, đấy là một nền triết học bất khả; vì bản năng sẽ vọt ra. "Bản năng thường bị che dấu, một đôi khi
bị thắng lướt, nhưng hiếm khi chết hẳn. Sức mạnh bản năng còn dữ dội hơn khi quay trở lại; lý thuyết và
sự giáo dục làm nó bớt cấp bách, nhưng tập tục chỉ biến đổi, hàng phục bản năng. Người ta chớ nên quá
tin vào sự đắc thắng của mình đối với bản năng, vì nó sẽ nằm chôn vùi một thời gian lâu, nhưng sẽ sống
dậy khi có dịp hay có sự cám dỗ. Bản năng cũng như cô gái của Aesop, biến từ một con mèo thành một
người đàn bà, ngồi rất đoan trang ở đầu tấm phản, cho đến khi một con chuột chạy ngang trước mặt. Bởi
thế, một người hãy tránh hẳn cơ hội, hoặc đặt mình thường xuyên tiếp xúc với cơ hội để có thể ít bị xúc
động vì nó *" (*Về bản năng trong người ). Quả thế, Bacon nghĩ rằng thân xác cần được tập quen với sự
quá độ cũng như sự tiết chế: nếu không, ngay chỉ một lúc không tiết chế cũng đủ phá hoại nó. - Bởi thế
một người quen ăn những thức ăn thuần khiết và dễ tiêu hoá nhất sẽ dễ dàng bị đau bụng khi vì quên hay
20