logo

Cải cách thuế bất động sản ở các nước đang phát triển.

Cải cách thuế bất động sản bắt đầu với việc tái thiết kế hệ thống một cách căn bản, với kết quả là việc công bố luật mới có hiệu lực năm 1986. Cải cách luật thuế bất động sản là một phần quan trọng cuối cùng trong nỗ lực cải cách toàn diện hệ thống thuế được khởi xướng vào giữa thập niên 1980, trong đó nhấn mạnh vào các nguyên tắc thống nhất, đơn giản và phổ biến. ......
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính công Cải cách thuế bất động sản ở các nước đang phát triển Niên khóa 2007-2008 Bài đọc Ch. 5 Tình huống nghiên cứu Indonesia Chương 5 TÌNH HUỐNG NGHIÊN CỨU VỀ INDONESIA Dịch từ nguyên bản Property Tax Reform in Developing Countries, Jay K. Rosengard, (Boston: Kluwer Academic Publishers, 1998) Mặt đất còn nguy hiểm hơn cả đại dương. (Ovid, Tristia, I, Chương 10) TÌNH HÌNH THUẾ BẤT ĐỘNG SẢN CỦA INDONESIA: MỞ ĐẦU TÌNH HUỐNG NGHIÊN CỨU Các cán bộ thuế Indonesia đã bỏ thời gian trong 6 năm để đại tu hoàn toàn các chính sách và cơ chế thuế bất động sản. Quá trình này đã hoàn tất được 2/3 chặng đường và kết quả đến nay khá hứa hẹn. Cải cách thuế bất động sản bắt đầu với việc tái thiết kế hệ thống một cách căn bản, với kết quả là việc công bố luật mới có hiệu lực năm 1986. Cải cách luật thuế bất động sản là một phần quan trọng cuối cùng trong nỗ lực cải cách toàn diện hệ thống thuế được khởi xướng vào giữa thập niên 1980, trong đó nhấn mạnh vào các nguyên tắc thống nhất, đơn giản và phổ biến. Bộ luật này được tổng hợp từ 7 bộ luật khác nhau liên quan đến thuế bất động sản, chuyển đổi cơ sở thuế từ giá trị thuê hàng năm sang giá trị trên thị trường vốn, áp dụng một thuế suất thống nhất đối với bất động sản thuộc mọi công năng, mọi địa điểm, mọi giá trị, đồng thời loại bỏ rất nhiều các hình thức miễn giảm. Nhằm tạo thuận lợi cho việc thực hiện bộ luật mới, những nhà cải cách Indonesia bắt đầu chương trình cải thiện thuế bất động sản (PBBIP) vào năm 1987, với sự ủng hộ mạnh mẽ từ Ngân hàng Thế giới. Ban đầu, hầu hết các nguồn lực của PBBIP được dành để lập bản đồ đánh thuế và thẩm định giá trị bất động sản. Tuy nhiên, đến năm 1989 những nhà cải cách kết luận rằng mặc dù các hệ thống phụ dùng để thu thập dữ liệu và định giá bất động sản còn khá yếu nhưng hạn chế chủ yếu trong quá trình cải thiện thuế về hiệu quả, công bằng, và bền vững chính là sự yếu kém của công tác thu thuế. Vì vậy, trong chương trình PBBIP những nhà cải cách ở Indonesia quyết định ưu tiên hàng đầu cho việc cải thiện hóa đơn thuế, thanh toán thuế và các thủ tục cưỡng chế. Sản phẩm chủ yếu của chiến lực tập trung vào thu thuế như trên chính là Hệ thống điểm nộp thuế (SISTEP), trong đó mỗi kỳ chỉ nộp thuế một lần tại một ngân hàng được chỉ định nằm gần địa chỉ của đối tượng chịu thuế, với hạn nộp thuế thống nhất; hóa đơn và biên lai thuế in sẵn và nhất quán; hợp lý hóa quy trình báo cáo và lưu hồ sơ; và dùng máy tính lập danh sách chậm nộp thuế để có cơ sở chính xác cho việc tiến hành cưỡng chế. Một phần quan trọng của SISTEP là việc sử dụng các biện pháp thưởng và phạt dành cho những người nộp thuế cũng như thu thuế. SISTEP cũng mở một lối ra cho việc tự động hóa tính thuế đối với 65 triệu đối tượng chịu thuế bất động sản ở Indonesia, bởi vì hệ thống sẽ không mang tính khả thi nếu vẫn duy trì các thao tác bằng tay truyền thống. Chất lượng dịch vụ cải thiện đáng kể và số thu thuế tăng mạnh tại những địa phương áp dụng SISTEP, do vậy chính phủ tiếp tục nhân rộng hệ thống này trên toàn quốc. Các nỗ lực nhằm cải thiện công tác thu thập dữ liệu về bất động sản không thành công lắm, chủ yếu là do việc thử nghiệm các kỹ thuật quá rắc rối, phức tạp và tốn kém để thu thập dữ liệu và định giá bất động sản. Giờ đây, những người thực hiện cải cách Jay Rosengard 1 Biên dịch: Hoàng Phương Hiệu đính: Bùi Văn Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính công Cải cách thuế bất động sản ở các nước đang phát triển Bài đọc Ch. 5 Tình huống nghiên cứu Indonesia Indonesia đang cố gắng đơn giản hóa mạnh mẽ các thủ tục không phù hợp và không thể duy trì này, thông qua việc thử nghiệm nhiều phương pháp thay thế khác nhau trong các tình huống đa dạng trên toàn quốc. LUẬT THUẾ BẤT ĐỘNG SẢN Ở INDONESIA: THIẾT KẾ HỆ THỐNG Cơ sở thuế Thuế bất động sản Indonesia, PBB (pajak bumi dan bangunan, thuế đất và công trình xây dựng) được áp dụng theo giá trị trên thị trường vốn đối với tất cả đất đai và công trình xây dựng trên toàn quốc, ngoại trừ bất động sản thuộc các nhóm được miễn thuế theo quy định cụ thể trong luật thuế bất động sản.1 Đất được định nghĩa là diện tích bề mặt của Indonesia, bao gồm đường thủy và mặt biển, cùng với diện tích nằm bên dưới. Công trình xây dựng (building) được định nghĩa là các kiến trúc xây dựng cố định trên mặt đất hay mặt nước có tạo ra lợi ích, bao gồm đường xá và các công trình gắn liền với tổ hợp xây dựng; đường thu phí; hồ bơi; vườn và hàng rào đắt tiền; công trình thể thao; bến tàu và cảng; đường ống, hồ chứa và các thiết bị chế biến dầu, khí và nước.2 Bất động sản chịu thuế là “đối tượng chịu thuế” (obyek pajak). Bất kỳ ai chịu trách nhiệm thanh toán nghĩa vụ thuế bất động sản là “chủ thể nộp thuế” (subyek pajak) và được định nghĩa là “cá nhân hay tổ chức thực sự có quyền đất đai, và/hoặc có lợi ích từ đất đai, và/hoặc sở hữu, kiểm soát, và/hoặc có lợi ích từ công trình xây dựng”. Nếu không rõ ai là người phải nộp thuế cho một bất động sản cụ thể nào đó thì Giám đốc Tổng cục thuế có thể chỉ định chủ thể nộp thuế cho bất động sản đó. Biên lai nộp thuế bất động sản không phải là bằng chứng về quyền sở hữu.3 Luật thuế tổng quát quy định các trường hợp đất và công trình xây dựng không thuộc diện chịu thuế bất động sản.4 Ngoài ra, luật thuế bất động sản quy định rằng 2 triệu Rp đầu tiên trong tổng giá trị công trình xây dựng được miễn PBB, giá trị này về sau được nâng lên đến 3.5 triệu.5 Các công trình xây dựng phục vụ cho hoạt động của chính phủ trung ương và địa phương phải chịu thuế.6 Bộ trưởng Tài chính có quyền cho miễn giảm thuế tùy tình hình cụ thể về thiên tai chẳng hạn như động đất, lũ lụt, trượt đất, hỏa hoạn, hạn hán, hoặc mất mùa. Bộ trưởng cũng có thể miễn giảm thuế đối với các trường hợp khó khăn tài chính thực sự, như nông 1 Undang-Undang Republik Indonesia Nomor 12 Tahun 1985 Tentang Pajak Bumi Dan Bangunan, Pasal 2. 2 Undang-Undang Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 1; và Penjelasan Atas Undang-Undang Republik Indonesia Nomor 12 Tahun 1985 Tentang Pajak Bumi dan Bangunan, Pasal 1. 3 Undang-Undang Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 4; và Penjelasan Atas Undang-Undang Republik Indonesia Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 4. 4 Bất động sản miễn thuế bao gồm bất động sản sử dụng làm hàng hóa công của tổ chức văn hóa quốc gia, giáo dục, y tế, xã hội và tôn giáo phi lợi nhuận; nghĩa trang; rừng tự nhiên, được bảo vệ hoặc rừng phục vụ du lịch; công viên quốc gia; đất công của làng; đất quốc gia chưa quy định quyền cá nhân; ngoại giao đoàn; và các tổ chức quốc tế được chỉ định đặc biệt. 5 Năm 1990, tỉ giá ngoại hối trung bình là 1.842,83/ US$ 1,00; xem bảng Tỉ giá Hối đoái sau phần Mục lục liệt kê đầy đủ tỉ giá hối đoái kể từ năm 1970. 6 Undang-Undang Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 3; và Keputusan Menteri Nomor 25/KMK.04/1988 Tentang Besarnya Faktor Penyesuaian Untuk Batas Nilai Jual Bangunan Tidak Kena Pajak Bumi dan Bangunan, Pasal 1. Jay Rosengard 2 Biên dịch: Hoàng Phương Hiệu đính: Bùi Văn Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính công Cải cách thuế bất động sản ở các nước đang phát triển Bài đọc Ch. 5 Tình huống nghiên cứu Indonesia dân ở các vùng nghèo và những cư dân dài hạn tại thành thị có thu nhập tăng không kịp với sự leo thang nhanh chóng của giá trị bất động sản.7 Mặc dù miễn thuế bất động sản thường mang tính tạm thời và cụ thể từng trường hợp, gần đây lần đầu tiên chính phủ cũng đã dành ưu đãi miễn thuế trọn gói dài hạn cho các khoản đầu tư mới vào 13 tỉnh phía đông của Indonesia (Indonesia Timur).8 Một khi đất đai và công trình xây dựng được xếp loại phải chịu thuế thì chỉ có một phần giá trị thị trường của chúng (như định nghĩa trong Phần C dưới đây) là chịu PBB, thể hiện bằng tỉ lệ bất động sản chịu thuế (assessment ratio/level). Luật thuế bất động sản hạn chế “giá trị bất động sản chịu thuế” (MJKP, nilai jual kena pajak) của đất đai và công trình xây dựng không dưới 20% và không quá 100% giá trị thị trường; tỉ lệ bất động sản chịu thuế chính xác bằng bao nhiêu do nhà nước quy định (peraturan pemerintah) dựa theo tình hình kinh tế chung.9 Tỉ lệ bất động sản chịu thuế PBB là 20% đối với tất cả bất động sản ở mọi địa điểm kể từ khi luật thuế bất động sản có hiệu lực vào năm 1986.10 Máy móc và thiết bị cố định không nằm trong cơ sở thuế thường xuyên, do những khó khăn về hành chính trong việc định giá loại bất động sản này. Thuế suất Thuế suất thuế bất động sản có mức đồng bộ là 0,5% đối với tất cả đất đai và công trình xây dựng trong mọi lĩnh vực ở bất kỳ nơi nào ở Indonesia.11 Định giá Đất đai và công trình xây dựng được định giá trên cơ sở giá trị trên thị trường vốn (NJOP, nilai jual obyek pajak): giá trung bình ghi nhận theo mua bán thông thường trên thị trường; hoặc nếu không có giao dịch thị trường thì giá thị trường của bất động sản tương đương hoặc giá thay thế của bất động sản mới.12 Chủ thể nộp thuế buộc phải khai báo giá trị và các đặc tính vật lý của bất động sản bằng việc nộp Bản Kê khai Thuế (SPOP, Surat Pemberitahuan Obyek Pajak) mặc dù quyết định cuối cùng về NJOP và số tiền thuế phải trả căn cứ theo giá trị kê khai trên thuộc trách nhiệm của các quan chức thuế bất động sản. SPOP cần phải được hoàn tất một cách “rõ ràng, trung thực và đầy đủ”, ký tên và chuyển cho các cơ quan thuế trong vòng 7 Undang-Undang Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 19; và Penjelasan Atas Undang-Undang Republik Indonesia Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 19. 8 Keputusan Menteri Keuangan, Republik Indonesia Nomor 748/KMK.04/1990 Tentang Pengenaan Pajak Bumi dan Bangunan Bagi Investasi di Wilayah Tertentu. Nghị định này của Bộ trưởng Tài chính quy định miễn 50% PBB trong thời gian 8 năm đối với đầu tư mới, hoặc tăng ít nhất 30% so với đầu tư trước tại các tỉnh ở Tây, Đông, Nam và Trung Kalimantan; Bắc, Nam, Trung và Đông Nam Sulawesi; Đông và Tây Nusa Tenggara; Đông Timor; Maluku; và Irian Jaya. Nghị định này có hiệu lực đối với các khoản đầu tư bắt đầu tư 1/1/1990 trong các lĩnh vực: nông nghiệp, đồn điền, gia súc; ngư nghiệp; mỏ; lâm nghiệp; bất động sản; bất động sản công nghiệp; khách sạn; du lịch và cơ sở hạ tầng kinh tế, bao gồm vận tải đường bộ, đường biển và đường không. 9 Undang-Undang Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 6; và Penjelasan Atas Undang-Undang Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 6. 10 Peraturan Pemerintah Republik Indonesia Nomor 46 Tahun 1095 Tentang Penetapan Besarnya Persentase Nilai Jual Kena Pajak Bumi dan Bangunan. 11 Undang-Undang Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 5. 12 Undang-Undang Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 1; và Penjelasan Atas Undang-Undang Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 1. Jay Rosengard 3 Biên dịch: Hoàng Phương Hiệu đính: Bùi Văn Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính công Cải cách thuế bất động sản ở các nước đang phát triển Bài đọc Ch. 5 Tình huống nghiên cứu Indonesia 30 ngày kể từ khi chủ thể nộp thuế nhận được. Các cơ quan thuế có thể tiến hành định giá bất động sản và định mức thuế phải trả cho dù chưa nộp SPOP. Nếu nộp SPOP trễ hoặc khai báo không trung thực thì người nộp thuế có thể nhận được Thông báo tiền thuế phải nộp (SKP, Surate Ketetapan Pajak) và sau đó phải nộp đủ thuế trong vòng 30 ngày, cộng thêm 25% tiền phạt.13 Bộ Tài chính có trách nhiệm đưa ra các chuẩn cho NJOP ba năm một lần nói chung và hàng năm tại những khu vực phát triển nhanh chóng.14 Các nghị định cấp bộ đưa ra hướng dẫn về NJOP như sau: • Đối với bất động sản thành thị và nông thôn, đất được chia thành 50 hạng và công trình xây dựng được chia thành 20 hạng, mỗi hạng được quy định một mức giá thị trường/ m2 và tiền thuế phải trả/ m2 (hiện nay bằng 0,1% giá thị trường);15 và • Đối với đồn điền, rừng và mỏ (còn được gọi là các khu vực “P3”, perkebunan/ perhutannan/ pertambangan), các công thức chủ yếu sử dụng tổng sản phẩm như một giá trị trung gian để xác định giá trị vốn.16 Các nghị định gần đây định giá trị đất trong khoảng từ 100Rp đến 3,1 triệu Rp/ m2 và giá trị công trình xây dựng trong khoảng từ 50.000Rp đến 1,2 triệu Rp/ m2 (xem Bảng V-1).17 Các cán bộ thuế sử dụng nhiều phương pháp để phân loại đất đai và công trình xây dựng vào một trong những loại trên. Điều này cho phép cán bộ thuế trước hết xác định giá đơn vị, sau đó nhân với diện tích, để tính ra NJOP; mức thuế phải nộp bằng NJOP nhân với tỉ lệ giá trị chịu thuế và nhân với thuế suất (xem Hình V-1). Sau khi được phân hạng sơ bộ, đất và công trình xây dựng được đánh giá lại một cách linh hoạt giữa các cấp chính thức, dựa vào “cơ chế chuyển hạng” (xem Phần 4). Đất được phân loại thông qua việc tổng hợp các bảng giá trị đất địa phương (buku nilai tanah) chủ yếu dựa vào thông tin từ các quan chức địa phương, trong đó đất được phân theo vùng gồm một hay một vài làng (ở nông thôn) hoặc theo đường phố (ở thành thị). Mặc dù bảng phân loại thể hiện bằng từ ngữ, nếu mô tả theo không gian thì kết quả là một bản đồ về giá trị đất. 13 Undang-Undang Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 9-10; và Penjelasan Atas Undang-Undang Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 9-10. Mức phạt theo SKP là phạt thêm 25% số thuế phải nộp khi thông tin của cơ quan thuế được sử dụng thay vì số liệu do người nộp thuế thể hiện trên SPOP. Ngoài ra, theo Undang-Undang Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 21; và Penjelasan Atas Undang-Undang Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 21, các cơ quan công chứng và cán bộ nhà nước chịu trách nhiệm xử lý giao dịch bất động sản buộc phải gửi báo cáo hàng tháng cho các quan chức thuế bất động sản liên quan đến việc bán, cho tặng, thừa kế và các hình thức chuyển giao bất động sản tương tự. 14 Undang-Undang Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 6; và Penjelasan Atas Undang-Undang Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 6. 15 Thuế suất hiệu dụng theo luật định 0,1% = thuế suất danh nghĩa 0,5% × 20% tỉ lệ bất động sản chịu thuế. 16 Công trình xây dựng cũng như đất đai hiện không sử dụng được định giá theo cách truyền thống, nhưng nói chung đối với quặng mỏ và rừng thì đất đang sử dụng được định giá gấp 10 lần sản lượng gộp trong năm trước đó, và đối với đồn điền thì dựa vào thu hoạch hàng năm. 17 Keputusan Menteri Keuangan Republik Indonesia Nomor 1324/KMK.04/1988 Tentang Besarnya Faktor Penentuan Klasifikasi dan Besarnya Nilai Jual Obyek Pajak Sebagai Dasar Pengenaan Pajak Bumi dan Bangunan. Jay Rosengard 4 Biên dịch: Hoàng Phương Hiệu đính: Bùi Văn Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính công Cải cách thuế bất động sản ở các nước đang phát triển Bài đọc Ch. 5 Tình huống nghiên cứu Indonesia BẢNG V-1: CÁC HẠNG ĐẤT VÀ CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG TẠI INDONESIA (tất cả các số liệu đều tính bằng rupiah/m2) ĐẤT Hạng Giá thị trường Giá thị trường chỉ định Mức thuế 1 > 3.000.000 3.100.000 3.100,00 2 >2.850.000 nhưng ≤ 3.000,000 2.925.000 2.925,00 3 >2.708.000 nhưng ≤ 2.850.000 2.779.000 2.779,00 4 >2.753.000 nhưng ≤ 2.708.000 2.640.000 2.640,00 5 > 2.444.000 nhưng ≤ 2.753.000 2.508.000 2.508,00 6 > 2.261.000 nhưng ≤ 2.444.000 2.352.000 2.352,00 7 > 2.091.000 nhưng ≤ 2.261.000 2.176.000 2.176,00 8 > 1.934.000 nhưng ≤ 2.091.000 2.013.000 2.013,00 9 > 1.789.000 nhưng ≤ 1.934.000 1.862.000 1.862,00 10 > 1.655.000 nhưng ≤ 1.789.000 1.722.000 1.722,00 11 > 1.490.000 nhưng ≤ 1.655.000 1.573.000 1.573,00 12 > 1.341.000 nhưng ≤ 1.490.000 1.416.000 1.416,00 13 > 1.207.000 nhưng ≤ 1.341.000 1.274.000 1.274,00 14 > 1.086.000 nhưng ≤ 1.207.000 1.147.000 1.147,00 15 > 977.000 nhưng ≤ 1.086.000 1.032.000 1.032,00 16 > 855.000 nhưng ≤ 977.000 916.000 916,00 17 > 748.000 nhưng ≤ 855.000 802.000 802,00 18 > 655.000 nhưng ≤ 748.000 702.000 702,00 19 > 573.000 nhưng ≤ 655.000 614.000 614,00 20 > 501.000 nhưng ≤ 573.000 537.000 537,00 21 > 426.000 nhưng ≤ 501.000 464.000 464,00 22 > 362.000 nhưng ≤ 426.000 394.000 394,00 23 > 308.000 nhưng ≤ 362.000 335.000 335,00 24 > 262.000 nhưng ≤ 308.000 285.000 285,00 25 > 223.000 nhưng ≤ 262.000 243.000 243,00 26 > 178.000 nhưng ≤ 223.000 200.000 200,00 27 > 142.000 nhưng ≤ 178.000 160.000 160,00 28 > 114.000 nhưng ≤ 142.000 128.000 128,00 29 > 91.000 nhưng ≤ 114.000 103.000 103,00 30 > 73.000 nhưng ≤ 91.000 82.000 82,00 31 > 55.000 nhưng ≤ 73.000 64.000 64,00 32 > 41.000 nhưng ≤ 55.000 48.000 48,00 33 > 31.000 nhưng ≤ 41.000 36.000 36,00 34 > 23.000 nhưng ≤ 31.000 27.000 27,00 35 > 17.000 nhưng ≤ 23.000 20.000 20,00 36 > 12.000 nhưng ≤ 17.000 14.000 14,00 37 > 8.400 nhưng ≤ 12.000 10.000 10,00 38 > 5.900 nhưng ≤ 8.400 7.150 7,15 39 > 4.100 nhưng ≤ 5.900 5.000 5,00 40 > 2.900 nhưng ≤ 4.100 3.500 3,50 41 > 2.000 nhưng ≤ 2.900 2.450 2,45 42 > 1.400 nhưng ≤ 2.000 1.700 1,70 43 > 980 nhưng ≤ 1.400 1.200 1,20 44 > 690 nhưng ≤ 980 840 0,84 45 > 480 nhưng ≤ 690 590 0,59 Jay Rosengard 5 Biên dịch: Hoàng Phương Hiệu đính: Bùi Văn Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính công Cải cách thuế bất động sản ở các nước đang phát triển Bài đọc Ch. 5 Tình huống nghiên cứu Indonesia 46 > 340 nhưng ≤ 480 410 0,41 47 > 240 nhưng ≤ 340 290 0,29 48 > 170 nhưng ≤ 240 210 0,21 49 > 120 nhưng ≤170 150 0,15 50 ≤120 100 0,10 CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG Loại Giá thị trường Giá thị trường chỉ định Mức thuế 1 > 1.034.000 1.200.000 1.200 2 > 902.000 nhưng ≤ 1.034.000 968.000 968 3 > 744.000 nhưng ≤ 902.000 823.000 823 4 > 656.000 nhưng ≤ 744.000 700.000 700 5 > 534.000 nhưng ≤ 656.000 595.000 595 6 > 476.000 nhưng ≤ 534.000 505.000 505 7 > 382.000 nhưng ≤ 476.000 429.000 429 8 > 348.000 nhưng ≤ 382.000 365.000 365 9 > 272.000 nhưng ≤ 348.000 310.000 310 10 > 256.000 nhưng ≤ 272.000 264.000 264 11 > 194.000 nhưng ≤ 256.000 225.000 225 12 > 188.000 nhưng ≤ 194.000 191.000 191 13 > 136.000 nhưng ≤ 188.000 161.000 161 14 > 128.000 nhưng ≤ 136.000 132.000 132 15 > 104.000 nhưng ≤ 128.000 116.000 116 16 > 92.000 nhưng ≤ 104.000 98.000 98 17 > 74.000 nhưng ≤ 92.000 83.000 83 18 > 68.000 nhưng ≤ 74.000 71.000 71 19 > 52.000 nhưng ≤ 68.000 60.000 60 20 ≤ 52.000 50.000 50 Nguồn: Keputusan Menteri Keuangan Republik Indonesia Nomor 1324/KMK.04/1988 Tentang Penentuan Klasifikasi dan Besarnya Nilai Jual Obyek Pajak Sebagai Dasar Pengenaan Pajak Bumi Dan Bangunan. Jay Rosengard 6 Biên dịch: Hoàng Phương Hiệu đính: Bùi Văn HÌNH V - I TÍNH TIỀN THUẾ NỘP TẠI INDONESIA ĐẤT GIÁ TRỊ THỊ TRƯỜNG (NJOP) DIỆN TÍCH GIÁ THỊ TRƯỜNG / TỈ LỆ BẤT ĐỘNG SẢN CHỊU THUẾ THUẾ SUẤT x x x = TIỀNTHUẾ PHẢI TRẢ ĐẤT MÉT VUÔNG (20%) (0.5%) GIÁ TRỊ BẤT ĐỘNG SẢN CHỊU THUẾ (NJKP) CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG GIÁ TRỊ THỊ TRƯỜNG (NJOP) TỈ LỆ BẤT ĐỘNG SẢN DIỆN TÍCH GIÁ THỊ TRƯỜNG / MIỄN THUẾ (BTKP) THUẾ SUẤT TIỀNTHUẾ x - x CHỊU THUẾ x = CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG MÉT VUÔNG (nếu thích hợp) (0.5%) PHẢI TRẢ (20%) GIÁ TRỊ BẤT ĐỘNG SẢN CHỊU THUẾ (NJKP) Nguồn: Direktoral Pajak Bumi dan Bangunan. 7 Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính công Cải cách thuế bất động sản ở các nước đang phát triển Bài đọc Ch. 5 Tình huống nghiên cứu Indonesia Hầu hết các công trình xây dựng ở nông thôn và ở các khu vực nghèo của thành thị có giá trị thấp hơn so với mức chịu thuế tối thiểu. Các công trình xây dựng còn lại được xếp loại theo một trong ba kỹ thuật sau: lấy trung bình có trọng số các thành phần trong công trình xây dựng (rata-rata bobot) để tính tổng điểm theo thang điểm từ 0 đến 100, trên cơ sở đó xếp vào một trong số 20 hạng công trình xây dựng; mô hình định giá hàng loạt sử dụng máy tính: phương pháp này cũng chủ yếu dựa vào các thành phần của công trình xây dựng, nhưng được điều chỉnh theo một loạt các yếu tố; hoặc phương pháp định giá từng trường hợp cụ thể. Thật ra cả ba phương pháp này vẫn đang được thử nghiệm, hoàn thiện và so sánh với nhau, do vậy hầu hết các nhân viên thực địa sử dụng một phương pháp định giá tắt: “những gì nhìn bên ngoài thấy giống nhau” được xếp vào chung vào một nhóm. Công tác hành thu Các quan chức thuế bất động sản lập Thông báo tiền thuế phải nộp (SPPT, Surat Pemberitahuan Pajak Terhutang) mỗi năm một lần. Cho đến gần đây, lịch thu thuế vẫn còn khác nhau giữa các địa phương cũng như trong cùng một địa phương. Nhưng hiện đang có những nỗ lực để chuẩn hóa việc lập hóa đơn thuế, gửi hóa đơn và thời gian thanh toán (xem Phần III). SPPT thường được phân loại theo khu vực (nông thôn, thành thị, đồn điền, lâm nghiệp, và khai khoáng) và theo giá trị (Bảng I đến bảng V) để định giá bất động sản, định mức thuế phải nộp và các thống kê về thu thuế.18 Các viên chức thuế có thể đích thân phát SPPT, gửi qua bưu điện, hoặc dựa vào sự hỗ trợ của các công chức tại địa phương. Mỗi địa phương có phương pháp phát SPPT khác nhau, nhưng nhìn chung các hóa đơn thuế có giá trị thấp được công chức ở làng (desa) hoặc khu phố (kelurahan) thực hiện, trong khi đó các hóa đơn có giá trị cao do các viên chức thuế của quận hoặc thành phố phân phát (DIPENDA, Dinas Pendapatan Daerah). Những người nộp thuế có ba lựa chọn khi có vấn đề với SPPT: • Có thể gửi thư khiếu nại (keberatan) với cơ quan thuế trong vòng ba tháng sau khi nhận được SPPT nếu người nộp thuế cảm thấy có sai sót trong phiếu tính thuế. Trong vòng 12 tháng phải có quyết định về khiếu nại đó; không trả lời được xem là chấp thuận. • Có thể gửi khiếu kiện (banding) lên tòa án thuế trong vòng ba tháng sau khi có quyết định về khiếu nại. • Có thể gửi cho chi cục thuế yêu cầu giảm thuế (pengurangan) lên đến 75% trong vòng 60 ngày kể từ khi nhận được SPPT nếu người nộp thuế thấy đặc biệt khó khăn 18 Phân loại “Bảng” dựa vào các mức thuế phải trả như sau: Bảng I : ≤ Rp. 5.000 Bảng II : > Rp. 5.000; ≤ Rp. 25.000 Bảng III : > Rp. 25.000; ≤ Rp. 100.000 Bảng IV : > Rp. 100.000; ≤ Rp. 500.000 Bảng V : > Rp. 500.000 Jay Rosengard 8 Biên dịch: Hoàng Phương Hiệu đính: Bùi Văn Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính công Cải cách thuế bất động sản ở các nước đang phát triển Bài đọc Ch. 5 Tình huống nghiên cứu Indonesia trong việc thanh toán số thuế phải nộpï. Quyết định phải được đưa ra trong vòng 90 ngày; nếu không trả lời tức là chấp thuận.19 Người nộp thuế phải thanh toán trong phạm vi 6 tháng; trong khi khiếu nại và khiếu kiện, người nộp thuế vẫn có trách nhiệm phải thanh toán toàn bộ thuế theo đúng hạn. Cho đến gần đây, SPPT vẫn có thể được thanh toán tại hầu như bất kỳ ngân hàng nhà nước hoặc chi nhánh bưu điện ở bất kỳ nơi đâu trên toàn quốc và thanh toán bao nhiêu đợt tùy ý. Hiện nay, chính phủ đang nỗ lực để thực hiện Hệ thống điểm nộp thuế (SISTEP, Sistem Tempat Pembayaran) theo đó người nộp thuế phải thanh toán một lần tại một ngân hàng được chỉ định trước vào bất kỳ lúc nào trong vòng sáu tháng sau khi nhận được SPPT (xem Phần III). Đôi khi các cơ quan thuế địa phương sử dụng cả hai cơ chế trên, đặc biệt tại các khu vực nông thôn. Các biện pháp cưỡng chế đối với nộp thuế trễ rất rõ ràng: phạt 2%/tháng cho đến 24 tháng bằng việc gửi Giấy báo nợ (SPT, Surat Tagihan Pajak); và một tháng sau khi gửi SPT, có thể áp dụng các biện pháp chế tài cứng rắn hơn, cuối cùng là tịch thu và bán đấu giá bất động sản để thanh toán tiền thuế còn nợ (Surat Paksa, Sita, Lalang).20 Số thu thuế bất động sản được coi như là nguồn thu nhà nước. 10% số thuế thu được nộp trực tiếp cho Ngân khố Quốc gia (Kas Negara) và 90% còn lại được chia đều cho các chính quyền địa phương (PEMDA, pemerintah daerah): 18% dành cho tỉnh, 72% cho quận hoặc đô thị và 10% dành cho chi phí hành thu (xem Hình V-2 và Bảng V-2).21 Hình V-2 PHÂN BỔ THUẾ BẤT ĐỘNG SẢN INDONESIA Tỉnh 16.2% Chính phủ trung ương 10.0% Phí hành thu Quận/Thành phố 9.0% 64.8% 19 Undang-Undang Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 15-17; và Penjelasan Atas Undang-Undang Republik Indonesia Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 15-17. 20 Undang-Undang Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 11-13; và Penjelasan Atas Undang-Undang Republik Indonesia Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 11-13. 21 Undang-Undang Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 18; và Penjelasan Atas Undang-Undang Republik Indonesia Nomor 12 Tahun 1985, Pasal 18. Phí hành thu này nằm ngoài phần phân bổ ngân sách hàng năm dành cho Cơ quan Thuế đất đai và công trình xây dựng, làm cho thuế bất động sản của Indonesia trở thành một loại thuế quản lý tương đối tốn kém. Jay Rosengard 9 Biên dịch: Hoàng Phương Hiệu đính: Bùi Văn Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính công Cải cách thuế bất động sản ở các nước đang phát triển Bài đọc Ch. 5 Tình huống nghiên cứu Indonesia BẢNG V-2: PHÂN CHIA CHI PHÍ HÀNH THU THUẾ BẤT ĐỘNG SẢN TẠI INDONESIA PBB PBB PEMDA (Chung) (Vận hành) (Mọi mức độ) KHU VỰC Nông thôn 15% - 85% Thành thị Jakarta, Bandung Medan, Semarang 35% 20% 45% Surabaya, Ujung Pandang và các thành phố khác 15% - 85% Đồn điền 30% 40% 30% Lâm nghiệp và khai khoáng 25% 50% 25% Ghi chúù: PBB chỉ Cơ quan thuế đất và công trình xây dựng (Direktorat Pajak Bumi dan Bangunan); PEMDA là tên gọi chung cho chính quyền địa phương (pemerintah doerah). Nguồn: Keputusan Menteri Keuangan Republik Indonesia Nomor 665/KMK.09/1989 Quản lý Quản lý thuế bất động sản thuộc trách nhiệm của Cơ quan Thuế đất và công trình xây dựng (Direcktorat PBB) nằm trong Tổng cục Thuế thuộc Bộ Tài chính. Chính sách được lập ở Jakarta, và được thực hiện bởi 108 văn phòng địa phương tại 27 tỉnh và gần 300 quận và đô thị của Indonesia. PBB có gần 5.400 nhân viên, trong đó 15% có bằng đại học.22 Mặc dù PBB hiện đang lắp đặt máy tính tại các văn phòng địa phương, nhưng hiện nay các dịch vụ nhập, xử lý, lưu giữ và truy xuất dữ liệu vẫn phải dựa chủ yếu vào các trung tâm máy tính cấp trung ương và cấp khu vực của Bộ Tài chính (BAPEKSTA/KPDR) cũng như các nhà thầu tư nhân. PBB cũng bắt đầu thuê các ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng thu ngân và kế toán thu thuế để cho phép PBB dành nhiều nguồn lực hơn cho các hoạt động xây dựng dữ liệu, định giá bất động sản và cưỡng chế thi hành. PBB làm việc khá chặt chẽ với Bộ Nội vụ, đặc biệt là Tổng cục Quản lý Nhà nước và Tự quản Địa phương (PUOD) tại Jakarta, cũng như các quan chức chính quyền địa phương tại thực địa, bởi vì đây là các đơn vị hưởng lợi nhiều từ thuế bất động sản. THUẾ BẤT ĐỘNG SẢN CỦA INDONESIA TRONG GIAI ĐOẠN CHUYỂN ĐỔI: CẢI TỔ HỆ THỐNG Quá trình thay đổi: Chính sách Vào ngày 27/12/1985, chính phủ đã thông qua luật Thuế Đất đai và Công trình xây dựng (PBB, Pajak Bumi dan Bangunan), có hiệu lực vào ngày 01/01/1986. Mục đích 22 Karsono Surjowibowo, “Kebijaksanaan Pajak Bumi dan Bangunan, Aspek Administrasi dan Manajemem Operasional Bagi HasilPajak”, 10, bản sao. Jay Rosengard 10 Biên dịch: Hoàng Phương Hiệu đính: Bùi Văn Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính công Cải cách thuế bất động sản ở các nước đang phát triển Bài đọc Ch. 5 Tình huống nghiên cứu Indonesia của bộ luật mới này nhằm tối đa hóa số thu thuế bất động sản địa phương trên cơ sở công bằng. Luật PBB số 12/198523 nhấn mạnh đến các nguyên tắc về tính thống nhất, đơn giản, và tổng quát:24 • PBB thay thế cho 7 bộ luật khác nhau liên quan đến thuế bất động sản, bao gồm bộ luật hàng đầu về Đóng góp Phát triển Khu vực năm 1965 (IPEDA, Iuran Pembangunan Daerah), luật Thuế Tài sản Ròng năm 1932 mà rất nhiều người trốn (Pajak Kekayaan), và luật không quan trọng lắm là Thuế hộ gia đình năm 1908 (Pajak Rumah Tangga).25 • Cơ sở thuế được chuyển từ giá trị cho thuê hàng năm sang giá trị trên thị trường vốn; tỉ lệ giá trị chịu thuế bắt đầu ở mức 20% giá trị thị trường, và tăng dần lên 100% giá trị thị trường.26 • Thuế suất 0,5% được áp dụng thống nhất cho tất cả mọi bất động sản, không phân biệt loại hình, công năng, địa điểm hoặc quy mô.27 • Bỏ rất nhiều hình thức miễn thuế, chỉ áp dụng các hình thức miễn thuế tổng quát theo truyền thống cũng như các hình thức giảm thuế tạm thời và hạn chế.28 • Ưu tiên cho việc giảm nghèo khó tuyệt đối hơn là tương đối, do vậy đã hình thành một điều khoản miễn thuế công trình xây dựng mà thực tế đã loại hầu hết nhà ở nông thôn và người nghèo thành thị ra khỏi cơ sở đánh thuế.29 Luật PBB số 12/1985 được ban hành trong bối cảnh cải cách thuế toàn diện được khởi xướng vào giữa những năm 1980, và luật thuế bất động sản mới mang những dặc 23 Undang-Undang Republik Indonesia Nomor 12 Tahun 1985 Tentang Pajak Bumi dan Bangunan.. 24 Có thể tìm thấy phần so sánh chi tiết giữa hệ thống thuế bất động sản mới và cũ của Indonesia trong: Roy Kelly, Thuế bất động sản tại Indonesia: Phân tích Luật thuế bất động sản mới năm 1986, Bài tham luận phát triển số 271 (Cambridge, Mass.: Viện Phát triển Quốc tế Harvard, 07/1988). 25 Các luật liên quan đến đất đai bao gồm: Luật Verponding năm 1923 (thuế bất động sản của người Châu Âu và người Á lai Châu Âu được đăng ký như là những người sở hữu đất đai, theo luật phương Tây) và luật Verponding của năm 1928 (một loại thuế tương tự đánh vào quyền sở hữu bất động sản của người Indonesia); Pajak Basil Bumi của năm 1959 (thuế thu nhập nông nghiệp dựa vào sản lượng nông nghiệp); và Pajak Jalan của năm 1942 (thuế đường bộ). 26 IPEDA chủ yếu được áp dụng như sau: đối với bất động sản nông nghiệp, ở mức 5% sản lượng hàng năm ròng (hoặc giá trị tiền thuê hàng năm của đất không đưa vào khai thác); đối với bất động sản đô thị: ở mức 18% giá trị vốn (chính thức, 5% giá trị tiền thuê – giá trị tiền thuê được định nghĩa bằng 6% giá trị bất động sản chịu thuế mà giá trị này được định nghĩa bằng 60% giá trị vốn. 27 Ví dụ, theo IPEDA, đất ở được hưởng mức ưu đãi là 50% so với đất thương mại; những địa điểm cho người di trú thường được miễn thuế; và thuế suất lũy tiến được đưa vào năm 1979 gắn với quy mô của phần đất nắm giữ. 28 Giám đốc IPEDA có thẩm quyền quyết định cho phép miễn thuế đặc biệt. Điều này đã khiến phát sinh một số lượng đáng kể các trường hợp tự ý miễn thuế, bao gồm tất cả đất và công trình xây dựng của chính phủ, cũng như một số doanh nghiệp nhà nước. 29 IPEDA cũng loại trừ không đánh thuế đối với hầu hết chổ ở cho người thu nhập thấp và nông thôn thông qua việc miễn đánh thuế đối với nhà ở định giá chưa đến RP. 14.000/ m2. Các phần miễn thuế PBB theo IPEDA đã tạo thuận lợi cho việc quản lý khi cho phép sử dụng kỹ thuật định giá đơn giản hàng loạt chủ yếu đối với thuế đất đai đánh vào bất động sản có giá trị thấp. Tuy nhiên tác động ngoài ý muốn của các hình thức miễn thuế công trình xây dựng chính là tính luỹ thoái của thuế gia tăng do những người sở hữu bất động sản giàu có khuynh hướng phân chia bất động sản thành các đơn vị nhỏ hơn để được hưởng miễn thuế nhiều hơn cho một khu công trình xây dựng. Jay Rosengard 11 Biên dịch: Hoàng Phương Hiệu đính: Bùi Văn Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính công Cải cách thuế bất động sản ở các nước đang phát triển Bài đọc Ch. 5 Tình huống nghiên cứu Indonesia tính nhất quán với bản chất của cải cách thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập đưựoc thực hiện trước đó:30 • Ban đầu nhấn mạnh đến tính trung lập của số thu thuế, và chuyển dần sang cải thiện số thu thuế. • Tính trung lập trong phân phối, trừ việc miễn thuế cho những người rất nghèo để bảo đảm cải cách thuế không gây tác hại đến những người nghèo tuyệt đối. • Tính trung lập về kinh tế, thay vì sử dụng hệ thống thuế để cố gắng chỉ đạo các quyết định về việc làm, đầu tư và tiêu dùng tư nhân. • Ưu tiên cải thiện công tác quản lý thuế và tạo thuận lợi để người nộp thuế tuân thủ, bao gồm việc đơn giản hóa luật lệ, tự động hóa vận hành, hợp lý hóa và giảm can thiệp của con người vào các thủ tục. Chính phủ Indonesia khởi xướng Chương trình Cải thiện PBB (PBBIP) năm 1987 để tạo thuận lợi cho việc thực hiện Luật PBB số 12/1985. Khoảng 10% của Khoản vay Khu vực Đô thị (270 triệu USD) từ Ngân hàng Thế giới đã được dành để hỗ trợ cho PBBIP, tương đương 25,6 triệu USD.31 Lúc đầu hầu hết sự quan tâm và nguồn lực đều hướng vào cải thiện công tác định giá bất động sản.32 Ví dụ, 98% ngân sách của PBBIP lấy từ Khoản vay Khu vực Đô thị được phân bổ cho các hoạt động định giá bất động sản, chú trọng vào đánh giá bất động sản đắt tiền ở đô thị và đào tạo ở nước ngoài.33 Mặc dù có “Kế hoạch hành động B của PBB” để cải thiện công tác quản lý và điều hành thuế, những hoạt động này chủ yếu được xem như là tăng phạm vi thu thuế thông qua việc cải thiện các thủ tục phát hiện, đăng ký và định giá tài sản. Nhu cầu cải thiện hệ thống hành thu và cưỡng chế chỉ được ghi nhận chung chung, không kèm theo một chiến lược cụ thể hay nguồn lực đáng kể.34 Việc PBBIP đặt trọng tâm vào công tác đăng ký và định giá bất động sản cũng được phản ánh trong các hoạt động của Cơ quan PBB trong suốt quá trình thực hiện PBBIP.35 30 Có thể tìm thấy phần thảo luận toàn bộ đối với những biện pháp cải cách trong: Malcolm Gillis, “Cải cách thuế toàn diện: Kinh nghiệm của Indonesia, 1981, 1988,” trong Cải cách thuế tại các nước đang phát triển, biên tập Malcolm Gillis, 79-114 (Durham: Nhà xuất bản Đại học Duke, 1989). 31 Ngân hàng Thế giới, Ban các dự án Đông Á và Thái Bình Dương, Phân ban Đô thị và Cung cấp nước, Báo cáo thẩm định chuyên môn: Cho vay khu vực đô thị của Indonesia, Báo cáo số 6589-IND (Washington, D.C.: Ngân hàng Thế giới, 23/04/1987), ii và 80. 32 Ngân hàng Thế giới, Báo cáo thẩm định chuyên môn: Cho vay khu vực đô thị của Indonesia, 76-80. 33 Theo Kế hoạch hành động A PBB, từng bất động sản trong số 10.000 bất động sản có giá trị cao tại các thành phố như Jakarta, Bandung và Medan được các công ty hoặc tổ chức định giá nước ngoài, kết hợp với các đối tác trong nước, xác định giá trị. Hiện tại hơn 50.000 bất động sản ở Jakarta được định giá theo phương pháp bán cá nhân do mười người định giá PBB dưới sự hướng dẫn của 10 nhân viên định giá nước ngoài. Ngoài ra, chương trình cũng cấp học bổng 3 năm để học lấy bằng định giá chuyên nghiệp ở các trường đại học ở nước ngoài, bên cạnh các khóa học định giá kéo dài ba tháng tại Viện Định giá Quốc gia của chính phủ Malaysia. 34 Ngân hàng Thế giới, Báo cáo thẩm định chuyên môn: Cho vay khu vực đô thị của Indonesia, 78-9. 35 Direcktorat Pajak Bumi dan Bangunan. Chẳng hạn Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Á Châu dành xấp xỉ $8,9 triệu từ nhiều khoản cho vay thủy lợi từ 1987 đến 1991 để hỗ trợ cho các hoạt động định giá và thu thập dữ liệu PBB tại các khu vực nông thôn, bao gồm chủ yếu công tác lập bản đồ và tái phân loại đất thuỷ lợi. Ngoài ra chính phủ Indonesia dành $18,3 triệu từ quỹ các dự án trung ương và địa phương từ năm 1986 đến 1991 cho các hoạt động định giá và xử lý dữ liệu PBB. Jay Rosengard 12 Biên dịch: Hoàng Phương Hiệu đính: Bùi Văn Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính công Cải cách thuế bất động sản ở các nước đang phát triển Bài đọc Ch. 5 Tình huống nghiên cứu Indonesia HÌNH V-3 XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC TẠI INDONESIA HOẠT ĐỘNG VẤN ĐỀ GIẢI PHÁP • Danh sách đối tượng nộp thuế không đầy đủ • Chương trình thu thập và xử lý dữ liệu, bao gồm thiết kế và tự động hóa chu Thu thập và trình quản lý thông tin bất động sản xử lý dữ liệu (PIMS). • Thông tin không chính xác, không đầy đủ, và lỗi • Mẫu mới để khai báo bất động sản dùng thời về quy mô, đặc điểm và giá trị thị trường mã số máy tính (SPOP), tạo điều kiện của bất động sản cho hợp thức hóa nội bộ và kiểm định lại từ bên ngoài. • Quản lý thủ công hồ sơ của hơn 15 triệu người • Sử dụng dữ liệu công ty điện lực nhà nộp thuế và 65 triệu đối tượng chịu thuế nước (PLN) để phát hiện thiếu sót hoặc lầm lẫn Cưỡng chế • Không bao giờ bị ra tòa vì không khai báo hoặc • Kiểm tra tại văn phòng, kiểm tra hiện khai báo sai thông tin thuế bất động sản trường, gửi giấy báo thuế (Surate Ketetapan Pajak - SKP) • Giá trị định giá thấp so với giá thị trường • Cải thiện bảng giá trị đất (Buku Nilai Định giá và Tanah) xác định tiền • Thao túng cách phân loại đất và công trình xây • Đơn giản hóa và thử nghiệm hệ thống nộp thuế dựng tính điểm các công trình xây dựng (Nilai Rata-Rata Bobot) • Các thuế suất hiệu dụng phân tán rộng • Lập chỉ số giá trị bất động sản • Phân bổ không công bằng gánh nặng thuế • Nghiên cứu và thiết kế hệ thống định giá bằng máy tính (CAV) • Gian lận biên lai và hóa đơn thuế • Sử dụng hệ thống điểm nộp thuế • Tham ô tiền thuế (SISTEP): • Quá nhiều điểm nộp thuế, thời hạn và cơ quan - Nộp thuế tại chi nhánh ngân hàng được Hành thu thu thuế chỉ định • Quá nhiều giấy tờ - Thời hạn thống nhất • Báo cáo, hồ sơ và tài khoản không đầy đủ/ - Nộp thuế một lần không chính xác - Biên lai và hóa đơn thống nhất • Hiệu quả hành thu khoảng 60% - Hợp lý hóa hồ sơ và báo cáo, chú trọng danh sách có vấn đề - Danh sách chậm thuế trên máy tính Cưỡng chế • Khó áp dụng các biện pháp phạt nếu không nộp • Tự động áp dụng tiền phạt 2%/ tháng và thuế bất động sản gửi giấy báo nợ (Surat Tagihan Pajak - STP), tiếp đó là chọn lọc để ra thông báo lần cuối (Surat Paksa) và tịch thu/ đấu giá bất động sản Nguồn: Tác giả tự xây dựng Tuy nhiên, chính phủ đã điều chỉnh mạnh mẽ chiến lược PBBIP về mặt những ưu tiên chính sách và điều kiện quản lý, sau khi việc thực hiện PBBIP giai đoạn đầu đã cho thấy cần phân tích lại những hạn chế chủ yếu của thuế bất động sản (xem Hình V-3). Mặc dù chắc chắn là còn nhiều vấn đề đối với công tác thu thập và xử lý dữ liệu cũng như Jay Rosengard 13 Biên dịch: Hoàng Phương Hiệu đính: Bùi Văn Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính công Cải cách thuế bất động sản ở các nước đang phát triển Bài đọc Ch. 5 Tình huống nghiên cứu Indonesia định giá và tính thuế, nhưng chính phủ đã quyết định sự quá yếu kém trong hành thu là vấn đề cấp bách nhất cũng là trở lực lớn nhất để tăng số thu thuế và cải thiện tính công bằng. Do vậy chính phủ quyết định sẽ nỗ lực gửi hóa đơn và truy thu các nghĩa vụ thuế hiện hành một cách hiệu quả và công bằng hơn, bao gồm việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thu hồi các khoản thuế tồn đọng, trước khi tập trung cải thiện chất lượng và số lượng dữ liệu hình thành nên số tiền thuế phải nộp: Kết luận đầu tiên là cần ưu tiên tăng tỉ lệ hành thu. Cần nhận thức rằng mục đích cuối cùng của thuế bất động sản là thu được tiền thuế. Định giá và thông tin về bất động sản được xem như là sản phẩm trung gian để bảo đảm tính công bằng trong phân bổ gánh nặng thuế bất động sản trong khi thu được tiền là sản phẩm cuối cùng của hệ thống thuế bất động sản. Kết luận thứ hai là ưu tiên tiếp theo phải đặt vào việc tăng cường phạm vi thu thuế bởi vì điều này sẽ có tác động lớn hơn lên số thu (chi phí chính trị cũng thấp hơn) so với cải thiện tỉ lệ định giá… Kết luận thứ ba là công tác cải thiện tỉ lệ định giá cần tập trung vào việc cải thiện Buku Nilai Tanah hiện hành (Bảng giá trị đất) và hệ thống phân loại công trình xây dựng, xây dựng hệ thống định giá bằng sử dụng máy tính, xây dựng cách định giá đối với bất động sản đặc biệt có giá trị cao… Kết luận thứ tư cần phải ưu tiên cải thiện cả xây dựng chính sách thuế bất động sản lẫn quản lý thuế bất động sản tại Indonesia.36 Phương pháp tiếp cận mới này được gọi là chiến lược cải cách thuế bất động sản “chú trọng vào hành thu”. Chính phủ bổ sung ưu tiên hành thu bằng nhiều biện pháp nhằm tối đa hóa tác động trực tiếp trong khi vẫn giảm thiểu được rủi ro thất bại: tập trung vào bất động sản có giá trị cao ở khu đô thị; kiểm nghiệm sơ bộ các biện pháp cải cách tại thực địa trong một dự án thí điểm; điều chỉnh thêm các biện pháp cải cách khi tiến hành nhân rộng theo từng giai đoạn; và luôn nhấn mạnh đến các chính sách và thủ tục đơn giản theo tiêu chuẩn và thống nhất trên toàn nước Indonesia. Quá trình thay đổi: Quản lý và hành vi Đầu năm 1989, Cơ quan PBB (Direktorat Pajak Bumi dan Bangunan) xây dựng dự án thí điểm với hai mục tiêu chính: Trước hết, thử nghiệm trên điều kiện thực tế các cơ chế và thủ tục mới hoặc sửa đổi đối với các hoạt động then chốt liên quan đến công tác quản lý thuế bất động sản, và điều chỉnh nếu cần thiết trước khi nhân rộng trên toàn quốc. Thứ hai, dự án thí điểm cần tạo cơ hội để quan sát kỹ lưỡng cách thức vận hành của mọi khía cạnh trong quản lý PBB, tại một địa điểm trong một giai đoạn dài, 36 Viện Phát triển Quốc tế Harvard, Dự án thuế bất động sản của Indonesia, Hỗ trợ tư vấn cho việc quản lý thuế bất động sản: Chiến lược thực hiện tập trung vào công tác hành thu để cải cách thuế bất động sản của Indonesia – Báo cáo cuối cùng (Jakarta, HIID, 12/1990), i. Phần nhấn mạnh có trong bản gốc. Jay Rosengard 14 Biên dịch: Hoàng Phương Hiệu đính: Bùi Văn Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính công Cải cách thuế bất động sản ở các nước đang phát triển Bài đọc Ch. 5 Tình huống nghiên cứu Indonesia cũng như thu thập dữ liệu để giám sát hành thu thuế, phạm vi thu thuế, tính chính xác trong định giá, và tiền nợ thuế.37 Quận Tangerang (Kabupaten tangerang) được chọn làm nơi thí điểm của dự án, bởi vì: • Tangerang là một khu vực đa dạng, tương đối điển hình khi bao gồm nhiều loại bất động sản xét về giá trị, loại hình và công năng.38 • Tangerang nằm gần Jakarta nên có thể giám sát liên tục với chi phí không cao.39 Ngày 18/03/198940 Tổng cục thuế Indonesia phê chuẩn Dự án Thí điểm Tangerang (TPP) để thực hiện trong năm tài khóa 1989/90.41 Mặc dù các hoạt động hành thu ở Tangerang được ưu tiên hàng đầu trong suốt TPP, nhưng dự án thí điểm chỉ thực sự bắt đầu bằng các hoạt động thông tin về bất động sản (pendataan) vào tháng 4, 1989 khi qui định đánh giá tổng thể bất động sản ba năm một lần được tiến hành lần đầu tiên trên toàn quốc: Việc thực hiện pendataan là một cơ hội để kiểm tra biểu mẫu SPOP [kê khai bất động sản]. Biểu mẫu này được thiết kế mới tương thích với máy vi tính, theo mô- đun và biểu mẫu này ghi nhận thông tin thích hợp về bất động sản và các thông tin bằng hình khác chẳng hạn như số kiểm soát PLN (công ty điện), số điện thoại, và số đăng ký của công trình xây dựng. Chiến lược pendataan cũng liên quan đến thực hiện liên kết cơ sở dữ liệu điện PLN với dữ liệu PBB cho bất động sản thuộc bảng IV và V để tạo thuận lợi cho việc xác định bất động sản có giá trị cao nhưng chưa đăng ký hoặc đăng ký sai. Việc sử dụng thông tin PLN để kiểm tra và cập nhật thông tin PBB được kiểm nghiệm thành công vào 01/1990.42 Bộ Tài chính chính thức áp dụng Hệ thống điểm nộp thuế (SISTEP, Sistem Tempat Pembayaran) tại Tangerang vào 06/1989. Các đặc điểm chủ yếu của SISTEP như sau: • Thanh toán tại một chi nhánh ngân hàng đã được chỉ định trước gần đối tượng chịu thuế. • Thanh toán một lần. 37 Viện Phát triển Quốc tế Harvard, Dự án thuế bất động sản của Indonesia, Hỗ trợ tư vấn cho việc quản lý thuế bất động sản: Chiến lược thực hiện tập trung vào công tác hành thu để cải cách thuế bất động sản của Indonesia – Báo cáo cuối cùng, 2 bản (Jakarta, HIID, 04/1990), i. 38 Có khoảng xấp xỉ 450.000 người nộp thuế và 600.000 đối tượng chịu thuế ở Tangerang. Mặc dù Tangerang chủ yếu làm nông nghiệp nhưng nó là một phần trong vùng đô thị lớn Jakarta (Jabotabek), và do vậy nhận được một phần quan trọng của sự lan tỏa đô thị từ DKI Jakarta với sự phát triển nhà ở và thương mại mới cũng như sự mở rộng của hoạt động công nghiệp, diễn ra trên toàn quận. Giống như hầu hết các nơi khác ở Indonesia, một tỉ lệ nhỏ bất động sản ở Tangerang lại chiếm tỉ trọng lớn trong cơ sở thuế của quận này: khoảng 0,5% bất động sản, hầu như tất cả ở khu vực thành thị, chiếm khoảng 40% tổng số tiền thuế phải thu (không tính sân bay quốc tế và đường lớn có thu phí giao thông). 39 Tangerang giáp với biên giới phía tây của Jakarta. 40 DJP Kep-13/PJ.7/1989. 41 Từ 01/04/1989 đến 31/03/1990. 42 HIID, Chiến lược thực hiện tập trung vào công tác hành thu để cải cách thuế bất động sản của Indonesia – Báo cáo cuối cùng, iii. Jay Rosengard 15 Biên dịch: Hoàng Phương Hiệu đính: Bùi Văn Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính công Cải cách thuế bất động sản ở các nước đang phát triển Bài đọc Ch. 5 Tình huống nghiên cứu Indonesia • Hạn nộp thuế thống nhất. • Hóa đơn và biên lai trùng hợp được in sẵn. • Hợp lý hóa hồ sơ và báo cáo, chú trọng đến giám sát trường hợp chậm trả thuế. • Dùng máy tính lên danh sách chậm trả thuế. Back door Đòi hỏi về hậu cần của SISTEP khá cao, bởi vì để áp dụng thời hạn nộp thuế một cách thống nhất đòi hỏi phải phát tất cả hóa đơn thuế đến cho người nộp thuế và biên lai thuế đến ngân hàng trong một khoảng thời gian tương đối ngắn.43 Thật ra SISTEP là một cơ chế “lối thoát” hữu hiệu để tạo nên nền tảng cho Hệ thống quản lý thông tin bất động sản tự động của PBB: bằng cách vi tính hóa trung tâm của công tác quản lý thuế bất động sản - danh sách đối tượng nộp thuế và thông tin kèm theo về thanh toán thuế - PBB đã tạo ra được cốt lõi của một hệ thống tự động để sau đó có thể thêm vào các mô-đun khác, chẳng hạn như đặc điểm của bất động sản hoặc giá trị bất động sản. Thực hiện SISTEP cũng đòi hỏi nhiều sự chủ động và làm việc nhóm một cách chặt chẽ. Trong quá trình thực hiện dự án thí điểm, văn phòng Dịch vụ PBB Tangerang (KPPBB Tangerang) có vai trò đầu tàu, và làm việc rất chặt chẽ với BRI (Ngân hàng Rakyat Indonesia), ngân hàng nhận tiền ở Tangerang, cũng như Phòng thuế quận (DIPENDA Tkt. II -Dinas Pendapatan Daerah). Một yếu tố then chốt khác của SISTEP là việc chú trọng vào thông tin công khai và đào tạo. Do vậy, KPPBB Tangerang tiến hành một chiến dịch mạnh trên phương tiện thông tin đại chúng trong khoảng thời gian sáu tháng nộp thuế, và tổ chức các cuộc họp thông tin đặc biệt với những người đứng đầu các làng hoặc phường. Các khóa đào tạo đặc biệt cũng được tổ chức cho nhân viên ngân hàng. Ngoài ra, giới chức cao cấp cũng có sự ủng hộ rõ ràng và lâu dài đối với những nỗ lực ở Tangerang. SISTEP làm cho cả người nộp thuế và cán bộ thuế có sự thay đổi căn bản về hành vi, do vậy sự thành công cho đến nay của SISTEP chủ yếu là kết hợp những biện pháp thưởng phạt đối với cá nhân và tổ chức để có thể tạo ra được những đáp ứng tích cực từ mọi đối tượng chủ chốt. Chẳng hạn, mặc dù SISTEP là một thách thức tiềm năng đối với các công chức địa phương và cán bộ thuế nhưng hệ thống này đã chuyển giao chức năng kế toán và thâu ngân cho các ngân hàng và do vậy loại bỏ nhiều cơ hội tham nhũng và ngân hàng có ba động cơ rất mạnh để quản lý các tài khoản PBB một cách cẩn thận và trung thực: duy trì mức độ tin cậy về nghề nghiệp của mình và uy tín tốt đối với công chúng; mức độ bù đắp tương xứng với dịch vụ cung cấp, với thời gian chuyển tiền mà cả hai bên đều có thể chấp nhận; và hợp đồng với Tổng cục Thuế để đền bù PBB bằng tiền mặt cho giá trị của những biên nhận thuế không đến nơi, ví dụ như bị mất, thất lạc hay hư hỏng. SISTEP cũng tạo ra các động cơ khá mạnh để người nộp thuế tuân thủ: dịch vụ được cải thiện rất nhi?u nhờ sử dụng mạng lưới rộng và hiệu quả thương mại cao của hệ thống ngân hàng tại Indonesia; đặc biệt là tại các thành thị, mọi người có thể nộp thuế trực tiếp tại các chi nhánh ngân hàng thay vì nộp cho nhân viên thu thuế thường hay tham 43 Tại Tangerang, hạn chót nộp thuế là 31/12/1989; nếu không muốn tước của người nộp thuế thời gian thanh toán là sáu tháng thì phải chuẩn bị và phát xong tất cả 450.000 hóa đơn thuế và 450.000 biên lai thuế phải vào cuối tháng 6. Họ thực hiện điều này trong suốt khoảng thời gian ba tháng thông qua chương trình chuyển đổi dữ liệu cấp tốc từ hệ thống làm bằng tay sang hệ thống máy vi tính do trung tâm máy tính của Bộ Tài chính (BAPEKSTA) tiến hành, cùng với việc trông cậy rất nhiều vào các cán bộ nhà nước ở địa phương để phát hóa đơn cho người nộp thuế. Jay Rosengard 16 Biên dịch: Hoàng Phương Hiệu đính: Bùi Văn Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính công Cải cách thuế bất động sản ở các nước đang phát triển Bài đọc Ch. 5 Tình huống nghiên cứu Indonesia nhũng, do vậy họ tự tin là tiền thuế sẽ thực sự được sử dụng đúng mục đích; và việc tự động hóa SISTEP cho phép PBB lên danh sách chính xác những người nợ thuế để tiến hành cưỡng chế, từ đó làm cho người nộp thuế có trách nhiệm đối với hành động của mình. Cuối cùng, SISTEP tạo ra động cơ rất hữu hiệu cho các công chức địa phương và cán bộ thuế để họ hợp tác: về mặt định chế, cải thiện dịch vụ dành cho người nộp thuế và một đe dọa rất thực tế rằng nếu không tuân thủ sẽ chịu các biện pháp trừng phạt, cả hai là một kết hợp mạnh mẽ để cải thiện công tác hành thu. Mặt khác, thu nhiều thuế hơn cũng có nghĩa là thu nhập từ phí hành thu nhiều hơn; cấp ngân sách cho chính quyền địa phương thường xuyên hơn và có thể dự báo trước được theo SISTEP, tạo điều kiện thuận lợi cho chính quyền địa phương thực hiện hoạch định và quản lý; và mặc dù gian lận và tham nhũng luôn có khả năng xảy ra nhưng kiểm định giá từ bên ngoài và các biện pháp kiểm soát nội bộ theo SISTEP làm cho gian lận và tham nhũng trở nên khó khăn hơn nhiều, và rủi ro bị bắt quả tang cao hơn nhiều so với cơ chế nộp thuế theo truyền thống. Sau khi SISTEP đã vận hành được gần sáu tháng ở Tangerang, các quan chức PBB nỗ lực lần chót để khuyến khích sự tuân thủ tự nguyện vào tuần cuối cùng của tháng 12 trước khi thời hạn trừng phạt bắt đầu vào tháng Giêng. KPPBB Tangerang dùng máy tính để lập ra Thư cảnh báo cuối (Surat Pemberitahuan) gửi đến những người còn nợ thuế của bất động sản thuộc bảng IV và V. Danh sách chưa nộp thuế được lập ra vào cuối tháng 1/1990 đối với bất động sản thuộc bảng IV và V, các dữ liệu được xác minh lần nữa và Giấy đòi nợ (STP, Surat Tagihan Pajak) được lập ra đối với tất cả các hóa đơn được xác nhận là chưa thanh toán. KPPBB Tangerang đã tiến hành cưỡng chế đối với các trường hợp nợ thuế bảng IV và V, bao gồm Thông báo cảnh cáo (Surat Tegoran) và Thông báo lần cuối (Surat Paksa), và hiện nay đang tiến hành các bước chuẩn bị sau chót để tịch thu (sita) có chọn lọc và bán đấu giá (lelang) bất động sản. Các biện pháp cưỡng chế đối với bất động sản giá trị thấp (Bảng I, II và III) tại Tangerang được tiến hành có khác đôi chút so với các biện pháp đối với bất động sản có giá trị cao (bảng IV và V): Mặc dù tỉ lệ nợ thuế đối với bất động sản giá trị thấp khoảng 40% nhưng các quan chức PBB quyết định rằng sẽ có hiệu quả về mặt chi phí hơn và có trách nhiệm xã hội hơn nếu gửi STP một cách có chọn lọc, do số lượng các đối tượng chịu thuế, nghĩa vụ thuế trung bình tương đối nhỏ của các bất động sản này, và về bản chất các bất động sản này chủ yếu là bất động sản nông nghiệp. Do vậy, từ 63 desa (làng) phân bổ trên khắp các kecamatan (xã) của Tangerang, người ta chọn ra các bất động sản mẫu thuộc Bảng I, II, và III, tập trung vào nhóm có giá trị tương đối cao. Trung bình, mỗi một kecamatan chọn ra 3 desa, và mỗi một desa chọn ra 20 đến 25 bất động sản. Tổng cộng đã phát ra 1.180 STP đối với các bất động sản Bảng I, II và III (tương đương 0,3% trong danh sách 444.212 đối tượng nộp thuế bất động sản)… hiện vẫn chưa biết phản ứng đối với các STP này ra sao.44 44 HIID, Dự án Thí điểm Tangerang – Báo cáo cuối cùng, iv. Jay Rosengard 17 Biên dịch: Hoàng Phương Hiệu đính: Bùi Văn Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính công Cải cách thuế bất động sản ở các nước đang phát triển Bài đọc Ch. 5 Tình huống nghiên cứu Indonesia Sau khi đánh giá sơ bộ, hệ thống SISTEP đã được nhân rộng ra trên 12 quận và đô thị mới trong năm tài khóa 1990/91.45 Hiện này SISTEP đang được tiếp tục nhân rộng ra thêm tại 60 quận và đô thị trong năm tài khóa 1991/92, chia đều giữa các địa điểm trên đảo Java và các địa điểm nằm ở các đảo bên ngoài (xem Bảng V-3). Sau khi tiến hành nhân rộng giai đoạn hai, SISTEP mặc dù chỉ bao phủ ¼ các đô thị và quận tại Indonesia nhưng lại bao phủ hơn 1/3 tất cả các đối tượng nộp thuế và gần 2/3 tổng số nghĩa vụ thuế (xem Hình V-4).46 Một lần nữa các tiêu chí mở rộng nhấn mạnh đến hiệu quả về chi phí, tính thực tiễn và cân bằng.47 Kết quả của SISTEP cho đến hôm nay được thảo luận trong Phần IV dưới đây. BẢNG V-3: QUÁ TRÌNH NHÂN RỘNG HỆ THỐNG ĐIỂM NỘP THUẾ GIAI ĐOẠN HAI TẠI INDONESIA Địa điểm Thành phố Tổng số thuế Tổng số đối Đối tượng chịu thuế đã Đối tượng chưa / quận thu được tượng chịu thuế nhập vào máy tính nhập vào máy (T Rp) (ngàn) (ngàn) (%) Java 35 93,4 11.429 2.803 75% Sumatra 12 10,1 787 239 70% Sulawesi 5 5,7 910 137 85% Kalimantan 5 4,2 337 207 39% Tổng cộng 60 118,4 13.774 3.430 75% Lưu ý: Tất cả các số liệu đều của bất động sản nông thôn và thành thị, cho đến 06/1990. Nguồn: Direktorat Pajak Bumi dan Bangunan 45 Trong giai đoạn đầu, nhân rộng ra các đô thị (kotamadya) sau và ba quận (kabupaten): trên đảo Java có Thành phố Tây Jakarta, Thành phố Bandung, Thành phố và Quận Cirebon, Thành phố Semarang, Quận Kendal, và Thành phố Surabaya; không nằm trên đảo Java gồm có Thành phố Medan, Thành phố Palembang, Thành phố Balikpapan, Quận Pasir, và Thành phố Ujung Pandang. Các tiêu chuẩn để nhân rộng như sau: có tiềm năng có nguồn thu cao để tạo ra lợi tức tối đa từ đầu tư tối thiểu; nhân viên có trình độ tương đối cao và cơ chế quản lý tại chỗ có hiệu quả để bảo đảm đủ khả năng thực thi, cùng với hậu cần tốt và có đủ đối tượng chịu thuế để có thể giám sát một cách hiệu quả; xử lý hồ sơ về PBB bằng dữ liệu điện tử hoàn toàn hoặc bán tự động để cho phép quản lý thuế với sự hỗ trợ của máy vi tính; và mối quan hệ công tác tương đối tốt với các cơ quan ban ngành khác địa phương để thúc đẩy hợp tác liên cơ quan. 46 Tính đến 06/1990, đã có 296 quận và thành phố, xấp xỉ 50 triệu các đối tượng chịu thuế nông thôn và thành thị, và với tổng tiền thuế phải nộp nông thôn và thành thị là Rp. 292 triệu. 47 Các tiêu chuẩn bao gồm: có tiềm năng thuế nông thôn và thành thị tương đối cao, với khối lượng công việc tỉ lệ với mức tăng kỳ vọng của nguồn thu; gần các quận và thành thị đã áp dụng hệ thống SISTEP trong giai đoạn đầu, đủ khả năng quản lý tại thực địa, đủ khả năng giám sát cấp trung ương và cấp vùng; phân bổ cân xứng theo vùng để tạo thuận lợi cho việc mở rộng trong tương lai và tính bền vững. Jay Rosengard 18 Biên dịch: Hoàng Phương Hiệu đính: Bùi Văn Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính công Cải cách thuế bất động sản ở các nước đang phát triển Bài đọc Ch. 5 Tình huống nghiên cứu Indonesia HÌNH V-4 PHẠM VI THU THUẾ CỦA HỆ THỐNG ĐIỂM NỘP THUẾ TẠI INDONESIA Thành phố và quận Đối tượng chịu thuế Tiền thuế phải nộp Nguồn: Tác giả tự xây dựng Xây dựng một chiến lược tạm thời tại Tangerang để nâng cấp hệ thống định giá bất động sản hiện hành của Cơ quan PBB trong khi chờ đợi hoàn thiện và tiến hành thử nghiệm mô hình định giá hàng loạt mới được xây dựng như là một phần trong các hoạt động định giá được Ngân hàng Thế giới hỗ trợ mô tả ở phần trước: Đề xuất nâng cấp phương pháp định giá PBB hàng loạt dựa trên ba nguyên tắc căn bản về hệ thống định giá được đặt ra cho mục đích đánh thuế bất động sản: đơn giản, công bằng và hiệu quả về chi phí. Những cải thiện được đề xuất nhằm vào hai thành phần chính: đất đai và công trình xây dựng. Đất được định giá bằng cách sử dụng “buku nilai tanah” [Bảng giá trị đất] nhất quán và cập nhật, trong khi công trình xây dựng được định giá bằng cách sử dụng hệ thống “bobot” [trung bình có trọng số các thành phần của công trình xây dựng] được đơn giản hóa và có xác minh từ bên ngoài.48 Các chính sách và định chế cũng được cải cách trong quá trình thực hiện PBBIP, bao gồm: • Chuẩn bị việc tái phân bổ một phần nguồn thu PBB của chính phủ trung ương cho chính quyền cấp xã (ở nông thôn) và cấp cộng đồng (ở thành thị). • Hợp lý hóa từng phần hệ thống phí hành thu giữa Cơ quan PBB và chính quyền địa phương, cũng như giữa các cấp khác nhau của chính quyền địa phương. • Tạm ngưng vô thời hạn thuế chuyển nhượng đất. • Loại bỏ máy móc và thiết bị khỏi cơ sở thuế bất động sản. 48 HIID, Dự án Thí điểm Tangerang – Báo cáo cuối cùng, v. Jay Rosengard 19 Biên dịch: Hoàng Phương Hiệu đính: Bùi Văn Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính công Cải cách thuế bất động sản ở các nước đang phát triển Bài đọc Ch. 5 Tình huống nghiên cứu Indonesia • Hoàn tất việc tổ chức lại Tổng Cục thuế. • Phát triển bước đầu Hệ thống Quản lý Thông tin Bất động sản (PIMS) tổng hợp, sử dụng máy tính, thể hiện cả bằng văn bản và đồ họa. THUẾ BẤT ĐỘNG SẢN CỦA INDONESIA TRONG THỰC TẾ: HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG Mục đích: Các mục tiêu tạo nguồn thu và không tạo nguồn thu Tạo nguồn thu Trong hai thập kỷ qua, giá trị danh nghĩa của số thu thuế bất động sản ở Indonesia đã với tốc độ gần 25% mỗi năm, tăng 100 lần từ 7,9 tỉ Rp năm 1970 đến 771 tỉ Rp năm 1991 (xem Bảng V-4).49 BẢNG V-4: NGUỒN THU THUẾ BẤT ĐỘNG SẢN TẠI INDONESIA Năm tài khóa Số thu thuế tài sản (tỉ rupiah) Rp. danh nghĩa Rp. năm 1985 1969/70 7,9 84,9 1970/71 9,9 103,1 1971/72 11,9 109,2 1972/73 15,1 104,1 1973/74 19,9 93,0 1974/75 29,0 120,8 1975/76 35,8 130,2 1976/77 42,6 137,0 1977/78 53,3 154,5 1978/79 64,0 140,0 1979/80 74,3 125,9 1980/81 90,6 129,6 1981/82 95,6 130,1 1982/83 105,1 119,8 1983/84 137,6 144,8 1984/85 166,6 166,6 1985/86 154,8 155,0 1986/87 244,1 210,8 1987/88 316,0 257,5 1988/89 367,8 270,6 1989/90 615,0 430,4 1990/91 771,0 502,9a a Ước tính. Nguồn: Direktorat Pajak Bumi dan Nagunan 49 Direktorat Pajk Bumi dan Bangunan. Jay Rosengard 20 Biên dịch: Hoàng Phương Hiệu đính: Bùi Văn
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net