Bổ sung TT 116
Sửa đổi, bổ sung Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 7/12/2004 của
Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP
ngày 3/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
BỘ TÀI CHÍNH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
Số: 69/2006/TT-BTC Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----- o0o -----
Hà Nội , Ngày 02 tháng 08 năm 2006
THÔNG TƯ
Sửa đổi, bổ sung Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 7/12/2004 của
Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP
ngày 3/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
Căn cứ Luật Đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Nghị định số 77/2003/NĐ-CP ngày 1/7/2003 của Chính phủ quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính;
Căn cứ Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về
thi hành Luật Đất đai;
Căn cứ Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ về
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất;
Căn cứ Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006 của Chính phủ về
sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật
Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước
thành công ty cổ phần;
Bộ Tài chính hướng dẫn sửa đổi, bổ sung Thông tư số 116/2004/TT-BTC
ngày 07 tháng 12 năm 2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị
định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (sau đây gọi
chung là Thông tư số 116/2004/TT-BTC) như sau:
1. Sửa đổi, bổ sung điểm 3.2 mục 3 Phần I như sau:
"3.2. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử dụng
vào mục đích quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP
có nghĩa vụ chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Tổ chức, cá nhân
nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư vào Việt Nam
được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất thì
không phải chịu chi phí về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho
thuê đất đã chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và tổ chức, cá nhân
nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư vào Việt Nam
có thực hiện ứng trước tiền để chi trả bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
theo quy định tại Nghị định số 197/2004/NĐ-CP thì được trừ số tiền đã chi
trả bồi thường về đất, hỗ trợ về đất vào tiền sử dụng đất, tiền thuê đất
phải nộp cho Nhà nước. Mức được trừ không vượt quá số tiền sử dụng
đất và tiền thuê đất phải nộp theo quy định".
2. Sửa đổi, bổ sung điểm 3.1 mục 3 Phần II như sau:
"3.1. Khoản 1 quy định giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục đích
đang sử dụng của đất bị thu hồi được công nhận theo quy định của pháp
luật tại thời điểm có quyết định thu hồi đất, đã được Uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh) công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm theo quy định của
Chính phủ. Không bồi thường theo giá đất sẽ được chuyển mục đích sử
dụng đất sau khi thu hồi, không bồi thường theo giá đất do thực tế sử
dụng đất không phù hợp với mục đích sử dụng đất theo quy định của pháp
luật.
Sở Tài chính và các cơ quan chức năng ở địa phương áp dụng giá đất do
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã ban hành để tính bồi thường tại thời điểm có
quyết định thu hồi đất. Trường hợp giá đất do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
công bố chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên
thị trường trong điều kiện bình thường thì báo cáo Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh quyết định giá đất cụ thể để tính bồi thường cho phù hợp. Việc xác
định giá đất được thực hiện theo phương pháp xác định giá đất quy định
tại Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về
phương pháp xác định giá và khung giá các loại đất và Thông tư số
114/2004/TT-BTC ngày 26/11/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện
Nghị định số 188/2004/NĐ-CP của Chính phủ".
3. Sửa đổi, bổ sung mục 2 Phần IV như sau:
"2.1. Khi thực hiện hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm cho các
hộ gia đình bằng việc giao đất tại vị trí có thể làm mặt bằng sản xuất
hoặc kinh doanh dịch vụ phi nông nghiệp. Nếu đất giao có nguồn gốc là
đất nông nghiệp thì giá đất thu tiền sử dụng đất được tính theo giá đất
nông nghiệp tương ứng với loại, hạng đất nông nghiệp của thửa đất giao
(nếu diện tích thửa đất giao gồm nhiều loại, hạng đất nông nghiệp khác
nhau, thì lấy theo giá bình quân gia quyền của các loại, hạng đất nông
nghiệp đó) cộng (+) với chi phí đã đầu tư hạ tầng thực tế trên đất tính bình
quân cho một mét vuông (nếu có); trường hợp đất giao có nguồn gốc là đất
phi nông nghiệp, thì giá đất thu tiền sử dụng đất được tính theo giá đất
nông nghiệp tương ứng với loại, hạng đất nông nghiệp khu vực liền kề
cộng (+) với chi phí đã đầu tư hạ tầng thực tế trên đất tính bình quân cho
một mét vuông (nếu có). Nhưng mức giá đất tính thu tiền sử dụng đất tối
đa không được vượt quá giá đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp của
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã quy định và công bố theo quy định của Chính
phủ.
2.2. Trường hợp các dự án không có đất để thực hiện hỗ trợ chuyển đổi
nghề nghiệp và tạo việc làm cho các hộ gia đình bằng việc giao đất, thì
việc hỗ trợ chuyển đổi nghề cho những thành viên còn trong độ tuổi lao
động của các hộ gia đình bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp được thực
hiện bằng hình thức hỗ trợ chi phí đào tạo chuyển đổi nghề tại các cơ sở
dạy nghề ở địa phương. Mức hỗ trợ cụ thể chi phí đào tạo chuyển đổi
nghề do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho phù hợp với
thực tế tại địa phương.
Nếu ở địa phương chưa tổ chức được việc đào tạo chuyển đổi nghề và
chủ dự án sử dụng đất thu hồi không thể tổ chức được việc đào tạo nghề
hoặc người được hưởng hỗ trợ đào tạo nghề có nguyện vọng tự học
chuyển đổi nghề thì thực hiện hỗ trợ bằng tiền; mức hỗ trợ bằng tiền cụ
thể do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định phù hợp với mức chi
phí học chuyển đổi nghề thực tế tại địa phương".
4. Sửa đổi, bổ sung mục 3 và mục 4 Phần VII như sau:
"3. Trên cơ sở kinh phí bảo đảm cho cho việc bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư được trích không quá 2% tổng số kinh phí bồi thường, hỗ trợ của
dự án; căn cứ vào điều kiện thực tế của địa phương Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh quyết định mức kinh phí cụ thể phục vụ cho việc bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư cho phù hợp với quy mô, tính chất, đặc điểm của từng loại
dự án để áp dụng thống nhất trên địa bàn địa phương. Trường hợp tại địa
phương có thành lập Hội đồng thẩm định phương án bồi thường hoặc Ban
chỉ đạo cấp tỉnh để chỉ đạo công tác giải phóng mặt bằng khi Nhà nước
thu hồi đất, thì trên cơ sở nhiệm vụ công tác của Hội đồng thẩm định, của
Ban chỉ đạo cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cụ thể tỷ lệ
phân chia mức kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
của dự án, để sử dụng cho Hội đồng bồi thường, Hội đồng thẩm định,
Ban chỉ đạo công tác giải phóng mặt bằng của tỉnh cho phù hợp.
Tổ chức phát triển quỹ đất hoặc Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư cấp huyện khi thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho
nhiều dự án trên địa bàn, thì được phép điều hòa mức kinh phí được trích
giữa các dự án để sử dụng cho việc tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư cho phù hợp với khối lượng công việc thực tế phải thực
hiện đối với từng dự án; nhưng phải bảo đảm tổng số kinh phí tổ chức
thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của các dự án được giao thực
hiện, không vượt quá tổng số kinh phí được trích theo quy định của các dự
án đó.
4. Kinh phí phục vụ cho công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư được sử
dụng để chi cho các công việc tổ chức thực hiện công tác bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư của dự án theo nội dung và mức chi đã được hướng dẫn
tại điểm 1 và điểm 2 Phần VII Thông tư số 116/2004/TT-BTC. Nghiêm
cấm việc chi khống và chi trùng ở các dự án.
Tổ chức hoặc Hội đồng được giao thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư, có trách nhiệm thực hiện việc báo cáo quyết toán về kinh phí tổ
chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư với Sở Tài chính để phê
duyệt theo quy định hiện hành. Khi xét duyệt quyết toán đối với khoản
kinh phí này, Sở Tài chính được phép xử lý cho chuyển tiếp số kinh phí sử
dụng không hết cho các dự án tiếp theo; trường hợp tổ chức hoặc Hội
đồng bồi thường không được giao thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư đối với các dự án tiếp theo, thì xử lý nộp Ngân sách nhà nước".
5. Hiệu lực thi hành
Thông tư này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Những quy định tại Thông tư số 116/2004/TT-BTC không sửa đổi, bổ sung
tại Thông tư này vẫn có hiệu lực thi hành.
Trong quá trình thực hiện Thông tư nếu phát sinh vướng mắc, đề nghị Uỷ
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phản ánh kịp thời
cho Bộ Tài chính để nghiên cứu, giải quyết./.
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
(Đã ký)
Đỗ Hoàng Anh Tuấn