Biển xanh Hy Lạp ngàn năm mây trắng
Mùa hè vừa qua tôi có dịp đi thăm xứ sở thần thoại Hy Lạp núi đồi, đền đài hoang phế bên bờ Ðịa Trung Hải nước xanh màu ngọc thạch. Không bình thản như các lần đi chơi trước, chuyến nầy tôi chờ mong trong nỗi hồi hộp, náo nức. Các chuyện thần thoại Hy Lạp được học từ nhỏ tưởng là xa vời, nào ngờ lúc bước qua tuổi già lại được chứng kiến tận mắt những vị thần và những kỳ quan của thế giới cổ đại qua tượng đá, thành quách, đền đài, dinh thự, vật......
Biển Xanh Hy Lạp Ngàn Năm Mây Trắng
[12/11/2005 - Tác giả: admin1 - Vietnam Review]
Võ Kỳ Ðiền
11.11.2005
Hình: Vùng Thera-Santorini, Hy Lạp.
Mùa hè vừa qua tôi có dịp đi thăm xứ sở thần thoại Hy Lạp núi đồi, đền đài hoang phế
bên bờ Ðịa Trung Hải nước xanh màu ngọc thạch. Không bình thản như các lần đi
chơi trước, chuyến nầy tôi chờ mong trong nỗi hồi hộp, náo nức. Các chuyện thần
thoại Hy Lạp được học từ nhỏ tưởng là xa vời, nào ngờ lúc bước qua tuổi già lại
được chứng kiến tận mắt những vị thần và những kỳ quan của thế giới cổ đại qua
tượng đá, thành quách, đền đài, dinh thự, vật dụng... xa xưa còn lưu dấu tích nơi nầy.
Chuyến bay từ Toronto tới Athens lâu tới gần mười tiếng đồng hồ, tuy đoạn đường
khá dài nhưng may mắn chiếc ghế cạnh bên trống chỗ nên tôi ngồi đứng khá thoải
mái.
Athens vào những năm 400 trước Tây Lịch là thành phố lớn nhứt và nổi tiếng văn minh
nhứt thế giới cổ đại. Người Hy Lạp đã ra sức xây dựng một quần thể kiến trúc tuyệt
vời để thờ phụng thần Athena (nữ thần khôn ngoan và trí tuệ) theo thần thoại, là
người bảo vệ kinh đô nước Hy Lạp xưa, trên một ngọn đồi cao giữa thành phố, có tên
là Acropole. Nhờ vậy ở Athens, đi dạo phố xá khá yên tâm, cứ nhìn đồi Acropole cao
mà định hướng, ít khi đi lạc.
Khách sạn Athens Acropol cao nghều nghệu nằm giữa trung tâm thành phố nên dễ
thấy. Nhìn chung thì thủ đô Athens chỉ lớn vừa phải mà dân số tới trên 4 triệu người
nên khá chật chội. Ba quảng trường Monastriaki, Constitution và Omonia là ba trung
tâm sinh hoạt náo nhiệt của thành phố, du khách tới lui đông đảo nhộn nhịp. Năm 2004
vừa qua, nhờ là quốc gia tổ chức Thế Vận Hội nên hầu hết khách sạn ở đây đều được
tân trang sang trọng, tiện nghi tối tân. Trên đường về khách sạn, tôi ngắm nhìn toàn
cảnh, ngạc nhiên khám phá một điều là kiến trúc Athens nhìn giống như bất cứ nhà
cửa nào ở Canada mình, nghĩa là toàn nhà kiểu mới chừng 100 năm trở lại. Thường là
kiểu nhà bê tông cốt sắt hình hộp vuông vuông, cao chừng 3, 4 từng, quét sơn trắng
viền xanh, màu của cờ Hy Lạp quen thuộc, nhà cửa cao thấp không đều, nối tiếp nhau
chạy dài theo từng con lộ. Thành phố nhỏ hẹp nên khoảng trống hầu như không có,
công viên rất ít. Tuy nhiều nắng nhưng may nhờ có biển Ðịa Trung Hải bao quanh nên
khí hậu dễ chịu, nhiệt độ thường ngày khoảng 20, 21 độ bách phân.
Athens hoàn toàn không có kiểu nhà xưa bằng đá, gỗ hay xi măng chạm trổ cầu kỳ các
thế kỷ trước như ớ Paris, Londre, Bruxelles, Luxembourg, Genève, Amsterdam… như
chúng ta đã từng gặp ở các thành phố Âu Châu khác. Kiểu vở đền đài, dinh thự Hy
Lạp hiện nay đều được xây dựng bằng đá cẩm thạch vuông, thẳng, đường nét chắc
chắn, hùng mạnh, ít chạm trổ điêu khắc ở các cột và mái. Còn nhà cửa dân chúng thì
giống y nhà cửa ở Bắc Mỹ. Xứ nầy chiến tranh xảy ra triền miên nên Athens thường
bị tàn phá (các bạn nhớ lại phim Les Canons de Navaronne). Thành phố hiện nay chỉ
mới được xây dựng lại từ đống tro tàn, trong vòng trên dưới trăm năm. Hủy diệt và
hồi sinh, y như lịch sử ngàn năm trước…
Cũng cần phải nói thêm, đây là nhà cửa thấy trong đất liền, còn khi đi chơi nhiều hải
đảo thì trên các đỉnh núi chon von, ngược lại tôi đã bắt gặp phần lớn các phố xá còn
giữ y nguyên kiểu nhà Hy Lạp xưa cũ. Mà nó cũng đặc biệt lắm, không giống bất cứ
kiểu cổ nào của các thành phố Châu Âu tôi đã đi qua.
Buổi chiều đi trên con đường Athenias trước mặt khách sạn, nhìn phố xá hai bên, xe
cộ dập dìu, người người qua lại, sinh hoạt đông đúc nhưng không ồn ào, người Hy
Lạp dáng vẻ đàng hoàng, hiếu khách và lịch sự. Quanh vào một đường nhỏ bên mặt,
tôi tình cờ bước vào một chợ bán thịt với nhiều gian hàng bày đủ loại thịt bò, heo, dê
trừu, gà… màu thịt tươi ngon, giá cả vừa phải, thịt các loại độ 6, 7 euro một ký.
Người bán đều là đàn ông, không thấy phụ nữ, cách chào đón mời mọc khách mua
tươi vui nồng nhiệt nhưng vừa phải không quá ồn ào. Từ ngày xa xứ tới giờ, lần đầu
tiên tôi thấy lại được những gian hàng bán thịt tươi, cắt cắt, xẻ xẻ, cân cân, giống như
ở Việt Nam mình, chưa ăn cũng đã thấy ngon. Không như thịt ở các siêu thị Bắc Mỹ
được cắt gói sẵn, nằm buồn hiu trong tủ kiếng chờ người mua.
Lề đường Athens chật hẹp, đoạn gần tới khu vực di tích Acropole, có hàng cây lạ,
được trồng dài trên vỉa hè, thân cây ốm thon, cao độ 6, 7 thước, lá nhỏ hoa màu tím,
giống hoa bằng lăng, hoa nhiều hơn lá, nở rộ tím cả một khu phố, xa xa là khu di tích
điện Parthénon ba ngàn năm hùng vĩ, với những hàng cột thẳng đứng cao vút, trơ gan
cùng tuế nguyệt trên đỉnh đồi cao. Ðẹp quá, du khách nào thấy cũng xuýt xoa trầm trồ.
Tôi bổng chợt nhớ những câu hát quen thuộc ngày xưa -chiều tím, chiều nhớ thương
ai, người em tóc dài... Phải ngắm nhìn phong cảnh tím cả góc phố Athens buổi chiều
xuống ở đây, mới cảm nhận được cái tài hoa của những nhạc sĩ Việt Nam mình lúc
trước, mới hiểu chút chút -tím cả hoàng hôn, tím cả chiều hoang biền biệt, mới biết
chiều tím là đẹp như thế nào!
Nhưng không phải các lề đường Athens đều trồng cây hoa tím, chỉ một đoạn nầy thôi.
Phần lớn vỉa hè là trồng cam, nếu không cam thì cây dâu tằm ăn (murier) lá to để lấy
bóng mát, các xứ khu vực Ðịa Trung Hải nắng vàng óng ả quanh năm. Nhiều hàng cam
gốc to cỡ bắp chưn, tàn lá dầy đặc xanh mướt, trái vàng chi chít đầy cành, tôi đứng
tiếc ngẩn tiếc ngơ nhìn trái rụng rải rác quanh gốc mà chờ coi… không thấy người
lượm! Tiếc thì có tiếc nhưng hổng lẽ người lượm cam rụng lại là mình, kỳ lắm. Cảnh
sát Hy Lạp cũng đâu có biệt đãi một ông già Á Châu lẩm cẩm khác xứ,.. không phải
lượm cam rụng mà hái trái !
Bước chân du khách thỉnh thoảng phải dừng lại và đi quanh. Trước mặt một ngân
hàng to lớn là một hố sâu to được đào ngay dưới vỉa hè, chiều ngang và dọc khoảng độ
4 thước vuông. Trên có mái che bằng kiếng khung sắt hình chóp nhọn, trông cũng khá
thẩm mỹ. Tôi tò mò nhìn sâu xuống dưới lòng đất được đào trống, thấy vài nền đá
tảng ngang dọc của một dinh thự cổ khá to, có cầu thang đi lên trên, cũng bằng đá.
Nhìn sâu hơn nửa, thấy có vài ống dẫn nước bằng gạch nung, đường kính khoảng 40
cm, ló ra ngoài chừng hơn nửa thước dài. Thì ra đó là một di chỉ khảo cổ của thành
phố nầy mấy ngàn năm trước. Khi đào đất cất ngân hàng, người ta bắt gặp nó và giữ
kỹ ở tình trạng nguyên dạng… có tấm bảng đồng nhỏ ghi chú các tài liệu khảo cổ gắn
cạnh bên. Tôi sững sờ coi kỹ lại và bâng khuâng tự hỏi, ống thoát ngước nầy mới làm
hay là có từ lâu lắm? Rõ ràng là xưa lắm. Cách đây mấy ngàn năm, dân cư ở thành phố
nầy đã biết thiết kế hệ thống thoát nước hoàn bị như vầy, thiệt tình là họ văn minh
sớm lắm, không thể tưởng tượng được.
Ở nhiều xứ Á Châu, Phi Châu, những bộ lạc bán khai, rác rến, phân người và phân
thú, nước bẩn, xác thú vật chết... thì quăng vứt đại đâu đó cũng được. Tiền của, công
sức, hơi đâu mà làm ống cống chôn luồn dưới đất để thải nước dơ ra sông ra biển.
Các nền văn minh lớn trên thế giới như Maya, Azteque ở Trung Mỹ, Khmer ở
Cambodge,… sở dĩ bị tiêu diệt mau lẹ sau khi rực sáng lên một giai đoạn rất ngắn là vì
những thành phố của họ không có hệ thống thoát nước đầy đủ, rác rến không được xử
lý đúng cách, chỗ ở bị ô nhiễm nặng nề. Vì thành phố lớn nên dân chúng tụ tập sinh
hoạt đông đảo. Nhà cửa, đường phố tràn ngập rác rến, phóng uế bừa bãi, ruồi muỗi,
chuột bọ, rắn rít… chỉ trong một thời gian ngắn là đủ gây nên những bịnh dịch truyền
nhiễm kinh hoàng. Ở Cambodge, dân chúng chết hàng loạt vì bịnh sốt rét malaria
(muỗi anophèle), cung điện Ðế Thiên Ðế Thích phải bỏ hoang, rừng rậm phủ kín gần
sáu bảy trăm năm. Ở Mexique (vùng kim tự tháp Chitchen Itza, Teotihuacan..) dân chết
như rạ vì dịch hạch hoặc dịch tả (peste, cholera..)
Nền văn minh Hy Lạp cũng sớm bị tàn rụi, không phải do thiếu vệ sinh như vài nền
văn minh trên nhưng vì bị chiến tranh nội bộ xâu xé (các bang Macédoine, Sparte,
Athene) hoặc bị ngoại quốc xâm lăng (Turc, Perse, Rome..) Ở Hy Lạp dù trong đất
liền hay hải đảo, bất cứ thành phố nào cũng nhìn thấy thành quách, tường lũy, tháp
canh, bằng đá tảng đồ sộ, kiên cố phòng ngự, thì biết ngay chiến tranh ngày xưa khốc
liệt là chừng nào! Khi tôi đến thăm viếng đảo Héraklion (Crète) thì thấy một bức
tường đá, xe cộ có thể lưu thông dễ dàng trên mặt thành, chiều ngang thật dầy, cao
chừng 6, 7 thước, xây ngoài biển cách xa bờ chừng vài chục thước, chạy dài bao vòng
quanh đảo, chỉ chừa một khoảng nhỏ để làm hải cảng cho tàu ra vô. Trong đảo là vô
số tháp canh, tường lũy, cái nào cái nấy rất là đồ sộ, đảo Rhodes cũng vậy. Thiệt tình,
không thể tưởng tượng được, với tiền của, nhân lực, vật lực và phương tiện máy móc
nào mà người xưa đã xây dựng nổi những công trình vĩ đại như vậy, trên đất liền là đã
khó và khổ nhọc lắm rồi, ngoài biển khơi mà làm một tường thành kiên cố to sầm
bằng đá tảng để bảo vệ đảo, thì làm sao làm được và làm nổi. Vậy mà người xưa đã
thực hiện lớn lao như vậy đó !!!
Có ông tài xế taxi giải thích cho tôi hiểu, thành phố Athens nầy được xây cất trên nền
của thành phố cổ hàng mấy ngàn năm về trước. Do đó khi ta bước đi trên mỗi thước
đất, biết đâu là mình đang bước trên một di tích lịch sử. Chánh phủ Hy Lạp thì nghèo,
tổ chức Unesco của Liên Hiệp Quốc rất lo lắng và quyết tâm bảo vệ những gì của
tiền nhân còn sót lại, nên có giúp đỡ nhiều trong việc bảo tồn những di tích lịch sử xứ
nầy. Người dân muốn xây cất nhà trên một miếng đất phải làm đơn gởi Nha Khảo Cổ
và chờ một thời gian dài, để các nhà khảo cổ đào bới coi phía dưới có một di tích gì
hay không, thời gian chờ đợi là 2 năm. Có 2 trường hợp xảy ra -nếu không gặp gì hết
thì hết sức may mắn, mình được quyền xây cất nhà cửa theo đúng luật lệ thành phố. -
Nếu có nền móng lâu đài, dinh thự cổ thì nhà nước mua lại theo giá quy định và bắt
buộc phải bán, không được khiếu nại gì hết. Vì đó là tài sản văn hóa của quốc gia.
Từ ngoài biển nhìn vào thì thành phố Athens gồm hằng trăm ngàn nhà nho nhỏ như
những chiếc hộp vuông trắng xóa nằm trải dài theo bình nguyên cạnh biển, lưng dựa
vào dải núi thấp, sườn dốc thoai thoải cũng một màu thạch cao trắng xóa. Phải vài
ngày sau khi đi chơi chỗ nầy chỗ kia tôi mới biết, các núi Hy Lạp phần lớn đều được
cấu tạo bằng đá cẩm thạch trắng (marble). Núi nào cũng có vài hầm đá qui mô với
máy móc dụng cụ cưa xẻ hầu khai thác loại đá trắng quí nầy. Cũng có nhiều cơ sở tạc
tượng đá, sân rộng chứa đủ loại tượng được đục đẽo nằm đứng ngổn ngang, đường
nét tinh xảo. Thời cổ đại, người Hy Lạp đạt văn minh sớm, thuộc bậc thầy của thế
giới nhiều bộ môn như triết học, chánh trị, văn học, khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật mà
kiến trúc và điêu khắc còn ghi đậm dấu ấn những nơi đây.. Ở xứ nầy những gì cần
làm bằng đá thì toàn là đá cẩm thạch, nhiều vô số kể. Tôi để ý thì thấy nhà cửa, vật
dụng, đường đi đều được lót bằng cẩm thạch, nói ngoa một chút cho vui, cả xứ Hy
Lạp đều làm bằng cẩm thạch trắng.
*
Buổi sáng tôi đi thăm đồi Acropole với các quần thể kiến trúc đồ sộ trên một đỉnh đồi
đá cao 156 thước so với mực nước biển, được xây cất dưới triều đại Péricles, thời kỳ
vàng son của nền văn minh Hy Lạp, thế kỷ thứ 5 trước T C, do hai kiến trúc sư Ictinus
và Callicrates vẽ kiểu và xây dựng. Giá vé vào cổng là 12 euro, đường lên dốc đồi
được lát bằng đá cẩm thạch đen và trắng, mòn nhẵn dưới biết bao gót giày của du
khách tứ xứ. Tất cả đền đài dinh thự, điện Parthénon, cổng Propylaea, đền thờ thần
Nike, đền Erechthéionà sau bao nhiêu hoang phế đổi dời của cả ngàn năm, chỉ còn trơ
lại trên nền đá cao những hàng cột cẩm thạch vân trắng hoặc hồng nhạt, cột cao cột
thấp... Những cuộc chiến tàn khốc xảy ra, những cuộc động đất long trời lở đất tiếp
nối, rồi cuối cùng thời gian tàn nhẫn dài lâu hằng ngăm năm, đã biến cả một công
trình đồ sộ đẹp đẽ thành những đền đài hoang phế, đổ nát tang thương. Cả một đỉnh
đồi rộng rãi vuông vắn, chồng chất ngổn ngang những tảng đá nứt nẻ được chạm trổ,
điêu khắc sắc sảo, mưa gió ghi dấu xanh rêu lỗ chỗ, mỗi cục nặng chừng 5, 10 tấn,
cục còn nguyên, cục bị sứt mẻ, nằm lăn lóc chỗ nầy chỗ kia…
Cổng Propylaea là một cổng thành đồ sộ được xây dựng bằng đá cẩm thạch do kiến
trúc sư Mnesicles vẽ kiểu, vào các năm 437- 432 tr T L. Cổng nầy không bao giờ được
trùng tu cho thiệt hoàn hảo vì cuộc chiến Peloponnesian xảy ra. Cổng được tuyên xưng
là -chiếc vương miện rực rỡ của thành trì Thượng Ðế -gồm một cổng chánh, có hai
vòm mở vào đầu đường Tôn Nghiêm, với hai cánh hai bên là hai tòa nhà lớn đối xứng,
trong đó cánh phía Bắc là một phòng trưng bày tranh. Cột ngoài kiểu Doric, bên trong
kiểu Ionic. Kiến trúc nầy bị hư hại nặng trong nụ nổ do sét gây ra năm 1640. Hiện cơ
quan Unesco đang cho sửa chữa, gạch đá còn ngổn ngang. Mỗi cây cột là nhiều tảng
đá bằng phẳng lớn hình tròn, được chất chồng thẳng đứng lên nhau. Tôi tò mò ôm thử
một cây cột, lớn quá, cột đá lạnh ngắt, vòng tay tôi chưa được một phần ba. Như vậy
phải chừng ba người ôm mới giáp một vòng cột...
Bên phải cổng Propylaea trên đài cao là một đền nhỏ tương đối còn nguyên, song song
trước sau 8 hàng cột kiểu Ionic xinh xắn (loại cột trên đầu tạc hình giống đầu chiếc vĩ
cầm, dưới chân có bệ). Ðó là đền thờ nữ thần Nike (The Temple of Wingless Victory,
được xây cất vào thế kỷ thứ 5 tr TC, kỷ niệm chiến thắng của Hy Lạp đối với Turc,
vì không cánh nên vị thần Chiến Thắng nầy sẽ mãi mãi ở lại nơi đây để bảo vệ thành
phố) Ngôi đền được sửa sang toàn vẹn với vật liệu gốc.
Ðiện Parthénon là một ngôi đền điển hình của Hy Lạp với hai hành lang bên ngoài,
diện tích hình chữ nhật, chu vi bên ngoài gồm 46 cột thẳng đứng, kiểu Doric (đầu cột
là một bệ vuông, đỡ lấy mái, dưới chân không bệ). Ðiện có kích thước là 69,51 m
-30,87 m, rất hùng vĩ. Trang trí điêu khắc ngôi đền nầy là điêu khắc gia cổ đại Phidias,
nổi tiếng bậc thầy. Bên trong chia làm hai gian có vách ngăn, gian ngoài được gọi là
Hécatompédon là gian thờ tượng nữ thần Athena (nữ thần khôn ngoan và trí tuệ),
tương truyền bằng ngà và vàng cao 12 m và gian trong gọi là Parthenon chỗ cư ngụ các
nữ đồng trinh và cũng là kho chứa vật thánh linh và châu báu của thành phố.
Người hướng dẫn du lịch đưa tay chỉ những hàng cột cao, miệng thao thao giải thích -
khi xây cất các kiến trúc sư đã đặt những cột bên ngoài lớn hơn các cột giữa một chút
và cũng hơi nghiêng vào bên trong một chút, khoảng cách các cột bên ngoài với cột bên
cạnh, cũng xa hơn khoảng cách các cột bên trong một chút,.. tất cả những dụng ý đó
khiến cho mắt nhìn thấy các cột bằng nhau, đều nhau, song song một hành thẳng
tắp… theo luật viễn cận. Ðó là nhằm điều chỉnh những sai số thị giác khi ngắm nhìn
một công trình đồ sộ trong không gian. Tôi nghe đến đây mà phát sợ… cho cái ngu của
mình !!! Cách đây gần 3000 năm người ta đã thực hiện được những công trình vĩ đại
mà hiện tại chỉ được giải thích có chút xíu mà mình vẫn chưa hiểu hết !
Hèn chi trong 7 kỳ quan thế giới cổ đại thì người xưa đã ghi nhận đến 5 kỳ quan thuộc
nền văn minh Hy Lạp rồi. Ðền Parthénon xứng đáng là kiệt tác mẫu mực nhất về cái
đẹp của kiến trúc Hy Lạp cổ điển, nó cũng là chuẩn mực cho kiến trúc Tây Phương
suốt mấy chục thế kỷ sau nầy.
Ðền Erechthéion hình chữ nhựt có ba cổng cao thấp khác nhau. Bên trong dùng cho
việc hành lễ tế thần Athena Polias, vào bằng cửa Ðông và thần Poseidon Erectheus,
vào cửa Bắc, các cột dáng kiểu Ionic. Cổng hướng Nam có hàng cột tuyệt đẹp, điêu
khắc công phu hình sáu mỹ nữ đồng trinh, vóc dáng tuyệt mỹ, y phục nhẹ nhàng thanh
thoát, dáng đứng dịu dàng sang cả, đầu như đội vương miện đỡ lấy mái đá. Nhìn tận
mắt các hàng cột Kariatyds nầy (the Caryatids = trinh nữ xứ Karia), tôi tưởng chừng
như về sau nầy dẫu có người tài hoa giỏi giắn cách nào, cũng không thể làm được một
công trình tuyệt xảo như vậy nữa. Ðền được xây dựng từ các năm 421 trước Tây Lịch
và được sửa chữa lại năm 405 tr T L, sau một vụ cháy vào năm 395 tr T L. Và bây giờ
cũng đang được tu bổ tiếp tục…
-Trong kiến trúc Hy Lạp còn còn một loại cột mỹ thuật nữa là kiểu Corinthian như ở
đền Thờ Thần Zeus trên núi Olympian. Cột Corinth, có bệ dưới chân và đầu cột điêu
khắc chùm hoa lá nở hướng lên. (Cột Doric là cột dương nên mạnh mẽ; cột Ionic,
Corinth, Caryatids là cột âm nên dịu dàng) ...
-Các ngày sau, chúng tôi đi thăm đảo Rhodes có những thành trì, đồn lũy kiên cố, tôi để
ý và cố tìm kiếm dấu vết của tượng thần Rhodes, tương truyền bằng đồng, cao trên
36 thước (có tài liệu nói 60 thước cao, phim The Seven Wonders of The Ancient World)
đặt ở hải cảng như sách vở đã miêu tả, tàu bè qua lại dưới hai chân tượng, một kỳ
quan thế giới cổ đại. Nhưng tôi không thấy gì ngoài những thành trì bằng đá tảng đồ
sộ, những tháp canh cao vòi vọi có nhiều lỗ châu mai. Chiến tranh cũng có nét đẹp hào
hùng lẫn bi tráng của nó. Tôi nhìn chiếc cầu bắt qua cửa thành mà tưởng chừng như
thấy cuộc chiến long trời lở đất đang diễn ra, địch quân hung hãn ào ạt xung phong và
trên những tường thành nghi ngút khói lửa, đầy trời tiếng quân reo, tiếng ngựa hí, lính
tráng đang xả thân chiến đấu hết sức để ngăn chận, bảo vệ thành phố, bảo vệ mạng
sống mình và vợ con…
Ở xứ nầy, chiến tranh không phải xảy ra một, hai lần mà là nhiều lần và dĩ nhiên rất
tàn khốc. Mạng người như cỏ rác. Sau cuộc chiến còn lại chỉ là xương cốt mục rửa
với biết bao nhiêu cô nhi và quả phụ! Cứ nhìn bất cứ nơi nào, dù trong đất liền hay
ngoài hải đảo, chúng ta cũng sẽ thấy thành quách, hào lũy trùng điệp vây quanh…
Có thể kết luận, lịch sử Hy Lạp là đi chinh phục và bị chinh phục. Khi mới đến tôi
không hiểu tại sao phần lớn các thị trấn, thành phố đều được xây dựng trên núi non
hiểm trở cheo leo, đường đi rất gian nan nguy hiểm. Có ở một thời gian thì mới rõ, họ
phải làm như vậy để tự bảo vệ và tồn tại. Tuy bị các nước xung quanh đô hộ và cai trị
cả ngàn năm nhưng người Hy Lạp bất hợp tác với quân thù, kéo nhau lên vùng cao trên
núi rừng, giữ gìn được tất cả bản sắc của dân tộc mình từ triết học, văn học, chánh
trị, nghệ thuật, hội họa, khiêu vũ, kiến trúc, điêu khắc..
Ðảo Patmos, có tu viện St-John trên núi cao nhìn xuống một hải cảng bên dưới.
Ðường lên dốc đá cheo leo được lát bằng những viên cuội tròn đen, bóng nhẵn do mưa
gió thời gian, đôi chưn tôi bước hoài mà không thấy tới, du khách chen nhau như trẩy
hội. Tôi cứ lo sợ nơm nớp, nếu trợt cẳng lọt xuống vực thẳm hun hút dưới kia thì
không biết phải làm sao, mình tuổi tác khá cao rồi, sức yếu làm sao mà.. leo lên được!
Tu viện thánh John vừa là một tòa thành trì với các tháp canh bằng đá tảng, vừa là tu
viện lớn sừng sững nguy nga trên chóp núi, vách đá cao chớn chở, trước mặt tiền có
tạc hình nổi chiếc thuyền lớn của ông Noah. Trong tu viện có chưng bày một dụng cụ
bằng cây hình hộp dài đáy phẳng, đen xám cũ mục, ngang dọc và cao chừng 1m -1m-
3m, mới nhìn cứ tưởng là cái quan tài rất lớn, không biết dùng để làm gì. Tôi tò mò
hỏi, thì ra nó là cái máng dùng để trộn bột làm bánh mì cho cả tu viện dùng. Lớn quá,
nhiều quá, phải bao nhiêu người mới dùng cho hết một lần nhồi bột như vậy, tôi
không đoán nổi !
Mặt sau tu viện, vươn lên một chiếc cổng như cổng Propylaea tuy nhỏ hơn, một di
tích cổ đại đang được trùng tu. Những hàng cột Doric cẩm thạch trắng, được máy móc
cắt xén giống y kiểu xưa, do Liên Hiệp Quốc tài trợ, được dựng lại trên nền đá cũ
ngàn năm trước, trông rất kiên cố, bền vững, chế ngự bao quát cả một vùng biển xanh
rờn dưới kia, cảnh đẹp như một bức tranh vẽ… Nhìn toàn thể tu viện thì tôi mới hiểu,
phía sau là đường lên tu viện, còn cổng phía trước là mặt tu viện quay ra biển khơi…
Vậy mà tôi có cảm giác như ngược lại, trước thành sau mà sau thành trước.
Ðứng ngắm công trình tu bổ vĩ đại nầy mà suy nghĩ tới suy nghĩ lui. Bao nhiêu ngàn
năm nữa, các thế hệ con cháu sau nầy cũng sẽ tiếp tục làm những hàng cột kiểu Doric
đẹp đẽ mà dựng lại nơi đây… Vì những hàng cột hiện tại dù chắc chắn, kiên cố cách
mấy đi nữa rồi cũng sẽ mục rữa, đổ nát theo thời gian, cũng sẽ tàn lụi cũng như đã
từng tàn lụi ! Thời gian quả thiệt là khắc nghiệt và vô tình. Gạch đá bền cứng còn như
vậy, nói gì đến da thịt mong manh con người. Lúc ở đảo Crète, tôi nhìn một hàng đá,
nhiều tảng to cỡ mặt bàn bị sóng đánh tan rả, phần còn sót lại còn trơ ra như cát bùn,
thấy mà giựt mình… trăm năm nào có gì đâu, chẳng qua một nắm cổ khâu xanh rì
(Cung oán)
Tối hôm đó du thuyền chúng tôi vào địa phận Turkey. Sáng sớm đổ bộ lên bờ, dùng
bus đi Kusadasi, một thành phố Turkey tiếp giáp Hy Lạp. Ðường xá, nhà cửa phía bên
nầy loang lổ, vá víu, có vẻ luộm thuộm, nghèo nàn hơn bên Hy Lạp. Núi đá khô cằn,
chỉ thấy cây ô -liu được trồng rải rác trên sườn núi đầy đá sỏi không có một chút đất
đen, thấy mà tội nghiệp. Loại cây nầy thân mộc to cao chừng 7, 8 thước, lá nhỏ như là
trúc đào, mặt trên xanh, mặt dưới màu xám bạc, nhiều cây già cỗi có dáng đẹp uốn éo
như bonsai. Khu vực nầy xưa gọi là Anatolia và di tích Ephesus là thủ đô của 500 thành
phố trong khu vực nầy. Vào thế kỷ thứ 5 Tr TL, người ta đã xây dựng lên một thành
phố tráng lệ để thờ phụng nữ thần Artémis. Ngôi đền được mô tả làm theo kiến trúc
Hy Lạp tuyệt đẹp, được liệt vào kỳ quan thế giới cổ đại. Nữ thần Artemis cũng tức là
Diana theo tên gọi người La Mã. Nàng là con thần Leto và thần Zeus, em sinh đôi với
thần Apollo. Nàng là thần săn bắn có tính khí như đàn ông Chính vì thế các kiến trúc
sư đã sử dụng loại cột Ionic để xây. Ionic là một trong ba loại cột nữ giới, nhưng cột
Ionic mạnh mẽ hơn cột Corinth, những ngôi đền cón lại thờ các thần khác đều sử
dụng loại Corinthian, không thấy cột Caryatids.
Di tích Ephesus không phải chỉ có một hai đền thờ mà là cả một thành phố lớn, giữa là
một con đường cẩm thạch rộng chạy dài, hai bên là nhà tắm công cộng, nhiều nhà thờ
các thần linh, các cơ quan hành chánh, rạp hát, thư viện, các vận động trường…
Con đường chánh nầy dài 4 cây số dẫn tới cổng Koressos ở Bắc và cổng Magnesia ở
phía Nam, hai bên là hai hàng cột cao 8 thước. Hầu như các vận động trường (The
Stadium) và thư viện (The Library of Celsus) còn giữ được hình dạng cũ, còn lại tất cả
hoặc nhiều hoặc ít, chịu cảnh đổ nát hoang tàn. Giữa một cánh đồng rộng lớn là
những cột đá chơ vơ, những bức tường loang lổ, những cổng, những tượng thần hoặc
những nền móng đền đài còn sót lại. Trên đường Curettes Street có nhiều tượng thần y
như Esculape, Hygie hoặc Panacée, cùng tượng các tổ y khoa Hippocrate, tổ dược khoa
Galien, có tượng không đầu của một người nữ bác sĩ thời đó, kỷ niệm bà đã tận tâm
phục vụ cho xứ sở.
Nhà tắm dành cho công chúng và tư nhân, do bà Skolasticia lập nên có hồ tắm, có tắm
nóng (caldarium) tắm ấm (tepidarium) tắm lạnh (frigidarium) và phòng thay quần áo
(apoditerium). Có lò nấu nước lớn ở trung tâm và hệ thống sưởi dùng đủ cho tất cả cả
các phòng. Tôi thấy bên đường, trong một nhà có cột đá, trên một phiến đá cẩm thạch
dài khoan nhiều lỗ tròn khá lớn, phía dưới có rãnh nước chảy xuôi, thấy y như nhà cầu
trong trại lính Quan Trung ngày trước. Quả đúng vậy, người hướng dẫn cho biết, đó là
nhà tiêu tiểu công cộng, có hệ thống thoát nước bên dưới, nước lưu thông thường
xuyên nên khá sạch sẽ.
Cạnh đó có tấm đá cẩm thạch vuông khá lớn, nằm trên mặt đất có khắc hình một bàn
chân trái rõ nét và mặt một người đàn bà lờ mờ. Người hướng dẫn giải thích, bàn chân
nầy chỉ về hướng nhà chứa gái điếm, mặt người đàn bà là các cô gái giang hồ…
-Trời đất, bên Hy Lạp không những có nhà chứa mà còn công khai quảng cáo nữa, chớ
không phải chỉ có bên Tàu đời Tần do Thương Ưởng phát minh. Thiệt tình, con người
ở đâu thì cũng giống nhau như hệt về ba cái vụ lạng quạng nầy!
Con đường cẩm thạch chánh (the marble street) thoải thoải đi dần xuống khu vực thấp
hơn. Thư Viện Celsus (thế kỷ thứ 2 sau TC) lớn nguy nga, đứng sừng sững bên trái.
Ðó là một tòa nhà cao hai tầng khổng lồ. Phía trước là một sân rộng, quang đãng. Từ
nền sân trước, bước lên 7 ngạch đá cao, mặt tiền thư viện gồm hai tầng cao. Tầng
dưới là một hàng 8 cột, khoảng cách không đều nhau, chia làm 4 cặp sóng đôi, đầu cột
được điêu khắc vừa kiểu Ionic vừa kiểu Corinth, cao 10 thước, đỡ lấy trần nhà. Phía
trên lầu cũng gồm 8 cột cao và đẹp y như vậy, đỡ lấy mái nhà. Trên mái là những tảng
đá làm đà ngang, là một riềm nhà hình tam giác khổng lồ, được điêu khắc tỉ mỉ các
tượng triết gia, học giả cổ đại. Sau hàng cột là mặt tiền thư viện, có những ô lõm vào,
nơi đó người ta đặt những pho tượng tuyệt đẹp, có tượng còn đầu, có tượng đã mất.
Nhìn các nét đục đẽo tinh xảo trên từng phiến đá hoa, có trắng, có hồng, tôi phân vân
tự hỏi :
-mấy trăm ngàn tảng đá nặng hàng chục tấn ở rất xa, làm sao khiên vác nổi tới đây mà
xây cất dinh thự, lầu gác như vầy? thời đó đã có sắt thép cứng chưa, làm sao mà đục
đẽo đường nét, sắc sảo, đẹp đẽ y như máy làm ra vậy.?
Rồi, câu hỏi tiếp theo, thư viện nầy lớn quá, lớn hơn thư viện ngày nay rất nhiều,
phải bao nhiêu triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, phải có bao nhiêu người viết, phải
có bao nhiêu sách để vô cho đủ? Nếu có đủ sách thì có bao nhiêu độc giả vô đó để học
hỏi, tham khảo, để coi ?
Mà chuyện học hành thời đó ra sao, trường học ra sao mà thư viện lại lớn lao đến như
vậy? Chỉ mới có thư viện nầy thôi, tôi đã không giải đáp nổi rồi, nói chi đến 2 vận
động trường lớn chần dần, cái ở đầu, cái ở cuối thành phố, mỗi cái chứa đến 25.000
chỗ ngồi. Bao nhiêu người dân sống nơi đây, đời sống ăn ở, sinh hoạt ra sao? Không lẽ
suốt ngày đi tắm ở các nhà tắm công cộng, rồi đến thư viện đọc sách, rồi chơi thể
thao hoặc họp nhau mà bàn cãi chánh trị, triết học, văn học nghệ thuật hoặc ngâm thơ
cho nhau nghe? Rồi rủ nhau đi đến chỗ có tạc bàn chân trái….!
Tóm lại tôi nhìn di tích đẹp đẽ đến mê mẩn nhưng khi suy nghĩ từng khía cạnh của
đời sống ở đây, vào thời kỳ đó, rồi so sánh đời sống dân chúng xứ nầy xứ kia,… suy
nghĩ hoài không ra, thiệt là điên cái đầu !
*
-Từ ngoài du thuyền muốn vào thăm đảo Santorini phải dùng thuyền nhỏ. Mỗi chiếc
chở độ chừng trăm du khách. Từ ngoài khơi nhìn vào thì thành phố xây trên đỉnh núi
cao cheo leo, vách đá sừng sững, thấy muốn chóng mặt, mỗi lần xe bus chở du khách
quẹo cua hay lên dốc là tim tôi thót lại. Xe chạy ngoằn ngoèo bên triền núi, đường
rộng vừa phải, được tráng nhựa mới tinh. Một bên là vách núi đá cao chớn chở, một
bên là biển xanh rờn rợn, du thuyền đậu rải rác chừng chục chiếc trắng xóa dưới kia,
cảnh đẹp như tranh vẽ…
Nhìn vách núi Santorini thì biết ngay đó là đảo núi lửa. Vách cao chừng 5, 70 chục
thước, pha trộn đủ màu, màu than đen, màu tro trắng xám, màu đất sét vàng ẻo, màu
đất đỏ quạnh, từng lớp, từng lớp dầy chừng 5, 3 thước, sắp xếp chồng chất lên nhau,
màu sắc tùy theo chất liệu núi lửa khi phun ra. Tôi thấy chúng được cấu tạo như đất
cát trộn lẫn nhau, tưởng là bở bời rời, nào ngờ khi lấy tay rờ và cạy thử, thì ra nó đã
kết tinh lại và cứng như đá!
Theo cuốn The End of Atlantic của J.V. Luce in ở Anh năm 1970 được phổ biến rộng
rãi thì châu Atlantic là có thật, quanh quẩn khu vực nầy. Santorini gồm một quần đảo,
các đảo cách nhau 15-17 cây số. Chúng tạo thành một vòng tròn nổi trên Ðịa Trung
Hải. Nửa vùng vịnh phía Bắc bị một núi lửa cũ phun sập vào năm 1650 Tr TL, tiêu diệt
nền văn minh Minoan và châu Atlantic. Ðó là vụ phun lửa lớn nhứt trong vòng 10.000
năm trở lại. Mây khói cao tới 36 cây số, tro phủ kín các nước kế cận, lan tới cả
Turkey, Egypt… Santorini hoàn toàn bị tro núi lửa bao phủ, có lớp dầy tới 50 thước
cao. Núi lửa vẫn còn hoạt động và tiếp tục phun lửa, trận gần nhứt xảy ra năm 1950.
May là khi chúng tôi tới, núi lửa đã ngưng phun từ lâu rồi, chắc là như vậy. Trên đỉnh
là một thành phố nhỏ y như một thôn xóm, khang trang sạch sẽ nhưng nhỏ hẹp -đi
năm phút đã về chốn cũ, nhà cửa hoàn toàn được giữ y kiểu vở Hy Lạp ngàn năm xưa.
Nhà nhà đều hình vuông, cất dọc theo những đường hẻm ngoằn ngoèo, lót bằng đá
cẩm thạch trắng, tường nhà bằng gạch đá trát vôi hoặc sơn trắng, khung cửa sơn màu
xanh nước biển. Ðặc biệt không có mái ngói như dưới đồng bằng, mái nóc bằng bê
tông đúc hình vòng cung như miếng ngói úp nằm dọc theo chiều trước sau, nóc cũng
được sơn trắng. Ðôi khi cũng có mái bằng như chiếc hộp vuông. Nhà thờ thì vòm tròn
như nửa quả địa cầu, có thập tự giá trên cao, phòng ốc cao thấp khác nhau kiểu vở
xinh xắn.. Nhìn chung cả thành phố chỉ thuần hai màu, các khung cửa màu xanh, còn
lại tất cả màu vôi trắng xóa.
Từ xa nhìn thành phố đẹp như bức tranh học sinh lớp nhỏ vẽ chơi với các hình vuông
vuông tròn tròn, trên là núi cao, dưới là biển xanh.. Không tìm được rác rến dơ bẩn
hoặc một bức tường nứt nẻ, vụn vở nào. Thành phố nho nhỏ, xinh xắn, sạch sẽ,
khang trang, khá yêu kiều nhưng gần gũi, dễ thương, ấm áp. Du khách với y phục mát
mẻ đầy màu sắc, tới lui rộn rịp trên các đường phố quanh co, trong những căn phố hay
quán lều nhỏ bày bán đồ kỷ niệm. Thỉnh thoảng có vài chiếc xe hơi hay scouter nhỏ
chạy len lỏi trong đám đông, vì đường phố ở Santorini chỉ có vài con đường nhỏ ngang
qua khu phố chợ. Bận về, xe bus không dám chở du khách vì sợ tuột dốc đứng. Chúng
tôi phải xuống bằng đường không thiết (cable-car, funiculaire), có một số người trẻ
can đảm hơn, họ chọn cách đi bằng lừa. Tôi tò mò hỏi người hướng dẫn -tại sao
không thấy một kiểu nhà mới nơi đây, thì được trả lời -thành phố có luật bảo vệ kiểu
vở xây cất ngàn năm trước. Khi nào nhà cửa bị hư hao cần phải xây cất lại hay sửa
chữa thì phải theo kiểu y như cũ, không được làm khác.
Tối hôm đó chúng tôi trở về Athens và sáng sớm lên đường đi Delphi, thời gian di
chuyển chừng độ 3, 4 giờ xe. Delphi nằm trên sườn núi Parnassos, dọc đường du
khách thấy được những rừng cây ô -liu và cây trắc bá (cypress) xanh mướt ngút ngàn.
Khi lên lưng chừng đỉnh núi thì nhìn thấy cả một vùng biển trời rộng trải ra xanh biếc,
rặng núi Poloponnese cao vút, vách đá thẳng đứng vây quanh. Núi và biển chen lấn
nhau khoe nét hùng vĩ trong vịnh Corinthian Gulf, tưởng như trong trời đất bao la nầy,
không còn chỗ nào đẹp hơn nữa. Bên trong di tích hoang tàn, có một cục đá to được
tạc hình như cái bánh ít tròn, đặt trên một bệ vuông, người hướng dẫn chỉ chỗ núm
nhọn nhô lên nói -chỗ nầy là trung tâm của Trái Ðất !
Tôi đứng nhìn bao quát, cảnh tượng thật hùng vĩ. Người xưa thiệt là có lý khi nói nơi
đây là -cái rún của trái đất (the navel of the Earth). Ðiện thờ thần Apollo to lớn sừng
sững, lưng dựa vào vách núi, phía sau là dải núi cao chất ngất bao quanh hình vòng
cung, như cái ngai, trước mặt là biển xanh bát ngát… có dăm ba đảo nhỏ xinh xắn rải
rác trước mặt. Theo phong thủy Trung Hoa thì vị trí điện thờ thần Apollo quả chọn
đúng nơi long huyệt. Hơn hai ngàn năm trước, tại đây thần Apollo được thờ cúng
trọng thể và nữ tu Pythia nổi tiếng với các lời sấm truyền như -Oedipe giết cha, lấy
mẹ, -tượng thần Rhodes sẽ sụp đổ sau 800 năm…
Con đường thiêng liêng uốn lượn từ dưới đi lên tới đền thờ thần Apollo, với những
kho báu nằm hai bên ven, tức là những ngôi miếu nho nhỏ dùng để đồ tế lễ. Mỗi cây
cột đền Apollo lớn lắm, chừng độ 4 người ôm mới hết một vòng, tất cả bị động đất
khiến đổ nát, chỉ còn 6 cột còn đứng vững mà thôi. Các cột ở Athens, ở bán đảo
Sounion (đền thờ thần biển cả Poseidon), ở Ephesus,à đều nhỏ hơn nơi đây. Phía trên
đền có một nhà hát, một sân vận động và một đấu trường gần suối Castalic, tất cả
đều phục vụ cho các cuộc thi đấu Pythian toàn Hy Lạp. Phía bên kia suối là thánh
đường Athéna Pronaia mà tòa nhà nổi tiếng nhất là nhà tròn bằng cẩm thạch Tholos
xây dựng đầu thế kỷ 4 Tr TL. Số lượng du khách lai vãng nơi đây quá đông đảo nên
ban khảo cổ sợ làm hư hao các phiến đá lót đường, nên vạch ra lối đi khác vòng quanh
di tích. Chu vi rộng lớn của những di tích nầy cho thấy tầm quan trọng của tôn giáo và
chánh trị nơi đây vào thời cực thịnh thuộc thế kỷ thứ 6 Tr TL. Delphi thực sự là trung
tâm tôn giáo của thế giới cổ Hy Lạp.
Phía dưới khu đền Apollo có một bảo tàng viện mới xây, chưng bày các đồ vật của di
tích đền Delphi tìm được. Trong đó có tượng con Sphinx cao lớn gần đụng nóc trần, là
một con thú có cánh, đầu đàn bà, thân sư tử, ưa hỏi các nạn nhân các câu hỏi khó, nếu
ai đáp trật sẽ bị ăn thịt, chỉ có Oedipe là đáp trúng, vì thua cuộc nó tự lao mình xuống
vực sâu mà chết; tượng người đánh xe bằng đồng nổi tiếng, đường nét điêu khắc
tuyệt hảo với từng nếp áo, từng nét nhăn của khuôn mặt và xuất sắc nhứt là ánh mắt
nhìn… (The Bronze statue of the Charioteer)
Cũng nơi đây tôi mới biết được sự khác biệt của cây thông đực và cái. Cột cũng có cột
âm cột dương, té ra quan niệm người Hy Lạp cũng giống người Trung Hoa, họ ưa
phân biệt âm -dương, nóng -lạnh, sáng -tối, đực -cái… biết đâu ngàn xưa hai xứ đã
từng có giao lưu văn hóa nhau hoặc chung một cội nguồn. Trên đường về xe, chúng tôi
đi ngang qua một tấm bảng có hình vẽ khu di tích lịch sử ngàn năm với một hàng chữ
lớn của cơ quan Unesco xác nhận -nơi đây là cái nôi của nền văn minh nhân loại.
*
Về nhà vài ba tháng sau, trong đầu tôi còn đầy những hình ảnh thần Zeus, Athena,
Poseidon, Artemis, Apollo, Hermes, Hercules… các hiền triết Hippocrate, Aristote,
Pythagore, Démocrite, Archimède, Euclide.. ngây ngất và nhớ Hy Lạp, bèn vào thư
viện mượn các tài liệu, phim ảnh, sách báo viết về nước nầy để hiểu cho tường tận
hơn những gì mình đã học, đã thấy, đã nghe và đã biết. Một bửa tình cờ có đứa cháu
nhân coi phim bộ Ðại Hàn chợt hỏi -bác ơi, thành phố Nhã Ðiển là thành phố gì và
biển AÔi Cầm là biển gì, nghe lạ quá, con không biết ?
Câu hỏi khiến tôi nhớ lại chuyến đi vừa qua và thấy vui vui. Người Trung Hoa phiên
âm các địa danh đó bằng tiếng Quan Thoại giọng Bắc Kinh hiện tại, rồi người Việt
mình đọc phiên âm đó bằng chữ Nho, là tiếng Quan Thoại xưa thời Mã Viện đời Hán,
sau đó đời Ðường, gần 2000 năm trước, nên nghe lạ tai là phải. Thiệt ra không có gì là
khó hiểu, để ý một chút là thấy -Nhã Ðiển là thành phố Athens và Ái Cầm là biển
Aegean của Hy Lạp. Còn Hy Lạp là họ phiên âm từ chữ Hellas, danh xưng đất nước
của Greece.