logo

Báo cáo tổng kết: Thử nghiệm kê khai thuế GTGT qua mạng Internet

"Báo cáo tổng kết: Thử nghiệm kê khai thuế GTGT qua mạng Internet" gồm 8 phần với các nội dung: Tổng quan về vấn đề kê khai thuế qua mạng Internet, các vấn đề pháp lý liên quan đến kê khai thuế qua mạng Internet, quy trình kê khai thuế GTGT,... Tham khảo để nắm bắt nội dung chi tiết nhé.
ĐỀ TÀI KC 01.05 “Nghiên cứu một số vấn đề kỹ thuật và công nghệ chủ yếu trong TMĐT và triển khai thử nghiệm” BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NHÁNH "THỬ NGHIỆM KÊ KHAI THUẾ GTGT QUA MẠNG INTERNET" Đơn vị chủ trì Đơn vị thực hiện chính TỔNG CỤC THUẾ CÔNG TY TIN HỌC HÀ THẮNG Hà Nội, 4/2003 TỔNG CỤC THUẾ CÔNG TY HÀ THẮNG Báo cáo tổng kết Đề tài "Thử nghiệm kê khai thuế giá trị gia tăng qua mạng Internet" MỤC LỤC Phần Mở đầu 3 Phần I: Tổng quan về vấn đề kê khai thuế qua mạng Internet 5 1. Tình hình thế giới 5 2. Tình hình Việt Nam 8 Phần II: Các vấn đề pháp lý liên quan đến kê khai thuế qua mạng Internet 11 1. Đánh giá chung thực trạng về hệ thống pháp lý cho TMĐT ở Việt Nam 11 2. Tình hình thực hiện kê khai thuế GTGT hiện nay ở Việt Nam 12 Phần III: Quy trình kê khai thuế GTGT 16 1. Khảo sát quy trình kê khai thuế GTGT 16 2. Quy trình kê khai thuế GTGT tại các doanh nghiệp 17 3. Quy trình xử lý số liệu kê khai thuế GTGT tại cơ quan quản lý thuế 18 Phần IV: Phân tích, thiết kế hệ thống kê khai thuế GTGT qua mạng Internet 23 1. Hệ thống truyền nhận số liệu kê khai thuế 23 2. Hệ thống truyền nhận thông báo từ cơ quan quản lý thuế tới doanh nghiệp 26 3. Phân tích chương trình truyền nhận số liệu kê khai thuế và thông báo 28 Phần V: Phân tích, thiết kế hệ thống cấp phát và quản lý chứng chỉ số ngành Thuế 37 1. Giới thiệu một số mô hình hệ thống cấp phát và quản lý chứng chỉ số đang áp 37 dụng hiện nay 2. Đề xuất mô hình CA áp dụng cho Tổng cục thuế 43 3. Mô tả hoạt động của hệ thống cấp phát và quản lý chứng chỉ số ngành Thuế 44 Phần VI: Thử nghiệm kê khai thuế GTGT qua mạng Internet 53 1. Mục đích, địa điểm, thời gian thử nghiệm 53 2. Thành phần tham gia 53 3. Mô hình hệ thống thử nghiệm 53 4. Các bước thử nghiệm 55 Phần VII: Kết luận và kiến nghị 57 1. Kết luận 57 2. Kiến nghị 57 Phần VIII: Các Phụ lục Phụ lục 1: Mẫu Phiếu điều tra Phụ lục 2: Danh sách các Tờ khai và Bảng kê Hà Nội, 3/2004 2/61 TỔNG CỤC THUẾ CÔNG TY HÀ THẮNG Báo cáo tổng kết Đề tài "Thử nghiệm kê khai thuế giá trị gia tăng qua mạng Internet" Phụ lục 3: Quy định về mã số đối tượng nộp thuế Phụ lục 4: Cấu hình hệ thống thử nghiệm Phụ lục 5: Mẫu phiếu đăng ký tham gia thử nghiệm kê khai thuế qua mạng Internet Phụ lục 6: Danh sách các doanh nghiệp tham gia thử nghiệm Phụ lục 7: Báo cáo của các Cục thuế Hà Nội và Hà Tây về quá trình thử nghiệm kê khai thuế GTGT qua mạng Internet Hà Nội, 3/2004 3/61 TỔNG CỤC THUẾ CÔNG TY HÀ THẮNG Báo cáo tổng kết Đề tài "Thử nghiệm kê khai thuế giá trị gia tăng qua mạng Internet" PHẦN MỞ ĐẦU Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) được thi hành từ 1-1-1999, sau hơn 5 năm thực hiện, về cơ bản đã đáp ứng được các mục tiêu đặt ra. Luật thuế này đã đi vào cuộc sống; bước đầu đã phát huy được tác dụng trên các mặt hỗ trợ sản xuất kinh doanh, đảm bảo nguồn thu ngân sách, thúc đẩy việc thực hiện quản lý hạch toán kinh doanh của các đối tượng nộp thuế. Theo quy định của Luật này, hàng tháng các doanh nghiệp phải nộp cho cơ quan quản lý thuế tờ khai thuế GTGT, các bảng kê hoá đơn chứng từ hàng hoá dịch vụ bán ra/mua vào và báo cáo tình hình sử dụng hoá đơn. Các doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về những số liệu báo cáo. Cơ quan quản lý thuế chỉ kiểm tra khi có nhu cầu (nghi ngờ có sự gian lận hoặc sai sót trong số liệu báo cáo, khi duyệt xét hoàn thuế hoặc khi thực hiện quyết toán năm v.v.). Cách làm này đã thể hiện đúng tư tưởng “hậu kiểm” của Luật doanh nghiệp mới, thể hiện sự tin tưởng của các cơ quan quản lý nhà nước vào sự trung thực của doanh nghiệp và giảm sự phiền hà cho doanh nghiệp khi không phải thường xuyên tiếp cán bộ quản lý thuế đến kiểm tra số liệu báo cáo thuế hàng tháng. Tuy nhiên cách làm này cũng còn bộc lộ một số nhược điểm sau: • Thứ nhất: Khi cơ quan quản lý thuế nhận được tờ khai, hồ sơ thuế của doanh nghiệp, bộ phận nhập số liệu sẽ phải nhập lại các số liệu từ các báo cáo đó. Một sự lãng phí về công sức, thời gian và tiềm ẩn các lỗi nhập liệu. Ngoài ra, hiện nay do số lượng dữ liệu về hoá đơn trên các bảng kê hoá đơn hàng hoá/dịch vụ mua vào/bán ra quá lớn nên các Cục thuế không tiến hành nhập các số liệu này vào máy tính. (Hàng năm trung bình ngành Thuế phát hành khoảng 300 triệu hoá đơn, trong đó gần một nửa là hoá đơn khấu trừ thuế GTGT. Số đối tượng nộp thuế GTGT và tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ trên toàn quốc là khoảng 100 nghìn đối tượng bao gồm: 6.000 doanh nghiệp nhà nước, 2.400 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và khoảng 90.000 doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần và một số hộ cá thể lớn thực hiện tốt chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ, đủ điều kiện tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ). • Thứ hai: Hàng tháng, doanh nghiệp phải cử người trực tiếp nộp tờ khai thuế và bảng kê hoá đơn tại cơ quan quản lý thuế hoặc gửi qua đường Bưu điện. Nếu trụ sở của doanh nghiệp ở cách xa trụ sở của cơ quan quản lý thuế, thì việc đi lại hoặc gửi Bưu điện sẽ gặp khó khăn, mất nhiều thời gian và có thể bị mất tờ khai. Từ các nhận xét trên có thể rút ra kết luận là: Cần có một phương thức kê khai, nộp thuế mới hiện đại hơn, thuận tiện hơn cho doanh nghiệp và cho cơ quan quản lý thuế trên cơ sở tận dụng các tính năng ưu việt của công nghệ thông tin, nói chung, và mạng Internet, nói riêng. Vì vậy mục tiêu của Đề tài này là: 1) Nghiên cứu các vấn đề liên quan đến phương thức kê khai thuế GTGT của các doanh nghiệp qua mạng Internet, bao gồm: các vấn đề pháp lý liên quan, các quy trình nghiệp vụ, các vấn đề kỹ thuật-công nghệ v.v. Hà Nội, 3/2004 4/61 TỔNG CỤC THUẾ CÔNG TY HÀ THẮNG Báo cáo tổng kết Đề tài "Thử nghiệm kê khai thuế giá trị gia tăng qua mạng Internet" 2) Xây dựng giải pháp kỹ thuật và thử nghiệm việc gửi các tờ khai thuế giá trị gia tăng, bảng kê hoá đơn chứng từ hàng tháng của doanh nghiệp cho cơ quan quản lý thuế qua mạng Internet. 3) Đề xuất các kiến nghị cần thiết cho việc hoàn thiện giải pháp kỹ thuật - công nghệ, quy trình nghiệp vụ để triển khai diện rộng phương thức kê khai qua mạng Internet cho thuế GTGT và cho các loại sắc thuế khác trong tương lai. 4) Đề xuất các kiến nghị cần thiết cho việc xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý, hạ tầng công nghệ, hạ tầng cơ sở bảo mật thông tin để tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng và phát triển TMĐT ở Việt Nam. Đề tài đã được thực hiện trong thời gian khoảng 20 tháng, từ tháng 5/2002 đến hết tháng 12/2003. Các đơn vị tham gia chính bao gồm: 1) Phòng máy tính (nay là Trung tâm Tin học và Thống kê), Tổng cục thuế. 2) Một số Phòng, Ban chức năng khác của Tổng cục thuế. 3) Công ty Tin học Hà Thắng. 4) Ban cơ yếu chính phủ. Trong quá trình thực hiện, đề tài đã nhận được sự giúp đỡ và hỗ trợ nhiệt tình cả về vật chất lẫn tinh thần của nhiều tổ chức và cá nhân. Ban chủ nhiệm Đề tài xin chân thành cảm ơn các tổ chức và cá nhân sau đã có những đóng góp thiết thực cho sự thành công của Đề tài: 1) Cục Tin học và Thống kê tài chính, Bộ Tài chính và ông Trần Nguyên Vũ, Phó Cục trưởng. 2) Công ty Intel Việt Nam và ông Trịnh Thanh Lâm, Giám đốc phát triển. 3) Công ty điện toán và truyền số liệu VDC và ông Vũ Hoàng Liên, Giám đốc công ty. 4) Phòng tin học và xử lý thông tin, Cục thuế Hà Nội. 5) Phòng tin học và xử lý thông tin, Cục thuế Hà Tây. Toàn bộ kết quả nghiên cứu và thử nghiệm của Đề tài được trình bày trong 7 Phần và 1 Phụ lục kèm theo. Hà Nội, 3/2004 5/61 TỔNG CỤC THUẾ CÔNG TY HÀ THẮNG Báo cáo tổng kết Đề tài "Thử nghiệm kê khai thuế giá trị gia tăng qua mạng Internet" PHẦN I TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ KÊ KHAI THUẾ QUA MẠNG I. Tình hình thế giới 1. Kê khai điện tử là gì? Kê khai điện tử (Electronic filing hay E-filing) là quá trình tạo lập và truyền các văn bản hoặc thông tin liên quan tới nơi tiếp nhận thông qua các phương tiện điện tử. Kê khai điện tử là một trong những ứng dụng phổ biến hiện nay của thương mại điện tử (Electronic Commerce) và chính phủ điện tử (Electronic Government), nhiều lúc được đánh đồng với một hình thức hoạt động thương mại điện tử lâu đời là trao đổi dữ liệu điện tử (EDI - Electronic Data Interchange). Trong khi trao đổi dữ liệu điện tử EDI thường được dùng để trao đổi dữ liệu giữa các tổ chức, doanh nghiệp, nói một cách tổng quát là giữa các tổ chức với nhau, thì kê khai điện tử được áp dụng trong các giao dịch giữa công dân hoặc các tổ chức, doanh nghiệp với các cơ quan công quyền, giữa khách hàng với các nhà cung cấp dịch vụ, giữa các cá nhân với một tổ chức v.v., tức là giữa các cá nhân hoặc tổ chức với một tổ chức khác. Vì thế có thể nói đối tượng sử dụng của kê khai điện tử còn rộng hơn cả đối tượng sử dụng của trao đổi dữ liệu điện tử. Việc kê khai điện tử đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới từ nhiều năm nay và trong nhiều lĩnh vực khác nhau như: kê khai thuế, kê khai hải quan, kê khai xuất nhập cảnh, đăng ký kinh doanh, gửi đơn khiếu tố - khiếu nại tới tòa án v.v. Công nghệ áp dụng cho kê khai điện tử (E-filing) và trao đổi dữ liệu điện tử EDI có nhiều điểm giống nhau, ví dụ như XML/EDI, ebXML v.v. 2. Tình hình áp dụng kê khai điện tử tại các nước: Hoa Kỳ: Hoa Kỳ là một trong những nước đi đầu trên thế giới trong việc áp dụng hình thức kê khai điện tử. Việc kê khai điện tử ở Hoa Kỳ đã được áp dụng cho nhiều lĩnh vực, trong đó có thuế, hải quan, dược phẩm, tòa án, đăng ký phát minh - sáng chế v.v. Việc kê khai thuế thu nhập cá nhân qua mạng bắt đầu được áp dụng từ năm 1997. Đến năm 2004 này sẽ áp dụng cho cả các doanh nghiệp. Ngoài việc kê khai thuế, các nghiệp vụ khác liên quan đến thuế như cấp mã số thuế, nộp thuế, hoàn thuế cũng được thực hiện qua mạng. Năm 1998 Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua đạo luật bổ sung, sửa chữa Luật thuế thu nhập, trong đó có đề ra mục tiêu đến năm 2007 có ít nhất 80% đối tượng nộp thuế thu nhập sẽ kê khai và nộp các khoản thuế Liên bang qua mạng Internet. Năm 2000, 40% trong tổng số 130 triệu tờ khai thuế thu nhập cá nhân được thực hiện qua mạng. Năm 2003 có 40% đối tượng nộp thuế kê khai thuế qua mạng. Hiện nay ở Hoa Kỳ có 132 triệu đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân và số tiền thuế thu được hàng năm từ các đối tượng này là trên 1000 tỷ USD. Hà Nội, 3/2004 6/61 TỔNG CỤC THUẾ CÔNG TY HÀ THẮNG Báo cáo tổng kết Đề tài "Thử nghiệm kê khai thuế giá trị gia tăng qua mạng Internet" Cũng trong đạo luật đó đã yêu cầu cơ quan quản lý thuế xây dựng chiến lược 10 năm để loại bỏ các rào cản đối với việc kê khai thuế qua mạng. Ngày 30/01/2003 Cục thuế Liên bang đã ban hành các quy định cần thiết cho việc loại bỏ các rào cản về mặt pháp lý còn lại đối với việc kê khai thuế qua mạng. Các quy định này bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/2003. Hệ thống đóng thuế liên bang qua mạng (The Electronic Federal Tax Payment System - EFTPS) được cung cấp miễn phí và hoạt động 24/7. Đến nay đã có trên 4 triệu đối tượng nộp thuế sử dụng hệ thống này. Người ta đã thống kê được rằng: Kê khai thuế qua mạng giảm các lỗi và sai sót 20 lần so với kê khai bằng tay. Để khuyến khích việc kê khai thuế qua mạng, cơ quan quản lý thuế thực hiện việc hoàn thuế cho kê khai qua mạng trong vòng 10 ngày thay vì 4 đến 6 tuần như trong trường hợp kê khai bằng giấy. Người được lợi nhiều nhất trong việc áp dụng kê khai thuế qua mạng là cơ quan thuế "Khi kê khai bằng giấy, cơ quan thuế phải có nhân viên nhập liệu làm việc 24 giờ một ngày để nhập số liệu kê khai thuế. Khi kê khai qua mạng, gần như không cần đến nhân viên nhập liệu do đó có thể điều chuyển lực lượng nhân sự này sang làm các công việc khác như thanh tra, kiểm tra thuế v.v." Ngoài ra người ta cũng tính toán được rằng: Chi phí xử lý một bản khai điện tử là 3 cent, trong khi chi phí cho 1 bản khai bằng giấy là 72.5 cent. Tỷ lệ lỗi của bản khai điện tử là khoảng 3%, còn của bản khai bằng giấy là 17-20%. Australia: Việc áp dụng hình thức nộp tờ khai thuế điện tử được bắt đầu từ 1998 trước cả khi ban hành Luật giao dịch điện tử (1999). Thời gian đầu các Tư vấn thuế (Tax Agent) vẫn phải lưu giữ các hồ sơ liên quan đến tờ khai thuế, nhưng từ sau khi có Luật giao dịch điện tử, Tư vấn thuế gửi tờ khai điện tử đến cơ quan thuế và dữ liệu được lưu trữ, xử lý tự động bởi hệ thống máy tính của cơ quan thuế. Việc đăng ký kinh doanh qua mạng được bắt đầu từ năm 2000. Việc cấp mã số đối tượng nộp thuế (Business Number) trước đây thường mất 28 ngày, nay được cấp ngay lập tức khi doanh nghiệp thực hiện việc đăng ký qua mạng. Nhật bản: Với tư cách là một thành phần của chương trình xây dựng chính phủ điện tử (E- government), việc xây dựng hệ thống Thuế điện tử (E-Tax System) của Nhật Bản vẫn đang trong giai đoạn phát triển. Dưới đây là một số mốc thời gian quan trọng của hoạt động này: Năm 2000: thí điểm kê khai thuế qua mạng tại một số địa bàn. Năm 2001: Hoàn tất thiết kế hệ thống. Năm 2002: Lập chương trình, kiểm tra các đơn vị trong ngành thuế, bổ sung trang thiết bị cho toàn ngành thuế. Hà Nội, 3/2004 7/61 TỔNG CỤC THUẾ CÔNG TY HÀ THẮNG Báo cáo tổng kết Đề tài "Thử nghiệm kê khai thuế giá trị gia tăng qua mạng Internet" Năm 2003 : Kiểm tra tổng hợp và kiểm tra sự ăn khớp giữa các bộ phận trong hệ thống để bắt đầu đưa vào vận hành. Năm 2004, bắt đầu từ tháng 2, áp dụng phương thức kê khai điện tử cho thuế thu nhập cá nhân và thuế tiêu thụ tại các cơ quan thuế địa phương để sau tháng 6/2004 sẽ triển khai rộng ra toàn quốc. Hệ thống kê khai thuế điện tử của cơ quan Thuế Nhật Bản (National Tax Agency of Japan) cũng đồng thời cho phép ĐTNT thực hiện việc nộp thuế qua mạng, nộp thuế điện tử (E-Payment). Có lẽ đây cũng chính là lý do làm cho việc triển khai kê khai thuế qua mạng ở Nhật Bản mất nhiều thời gian đến như vậy. Hàn Quốc: Năm 1999, ra mắt Web Site của cơ quan Thuế Hàn Quốc (Korea National Tax Service). Năm 2001, khai trương Trung tâm quốc gia tư vấn tổng hợp về thuế (National Tax General Consulting Center) nhằm cung cấp các dịch vụ tư vấn, giải đáp thắc mắc cho ĐTNT trong các vấn đề liên quan đến kê khai và nộp thuế. Năm 2002, Dich vụ Thuế tại nhà (Home Tax Service) bắt đầu cung cấp cho ĐTNT các dịch vụ như: kê khai thuế, mua hóa đơn thuế, nộp thuế và xác nhận thuế qua mạngv.v. Hồng Công: Cơ quan Thuế Hồng Công (The Inland Revenue Department - IRD) bắt đầu áp dụng kê khai thuế điện tử từ tháng 12/2000. Việc áp dụng kê khai thuế điện tử nằm trong Chương trình cung cấp dịch vụ điện tử của Chính phủ Hồng Công, trong đó hạ tầng cơ sở CNTT-TT được thiết lập để cơ quan thuế thực hiện các giao dịch với ĐTNT thông qua Internet một cách an toàn và bảo mật. Đài Loan: Năm 1998, Chính phủ Đài Loan thành lập lập lực lượng đặc nhiệm để xây dựng kế hoạch và xúc tiến việc kê khai và nộp thuế qua mạng. Năm 2000, Bộ Tài chính thiết lập cơ sở dữ liệu đăng ký kinh doanh toàn quốc trên mạng Internet. Năm 2001, Dự án tổng thể về Dịch vụ Thuế điện tử (Electronic Tax Service) được khởi động để tích hợp nhiều loại dịch vụ thuế trên mạng. Trong số các dịch vụ được tích hợp có: Kê khai thuế điện tử và nộp thuế điện tử. Ngoài ra hệ thống này còn cung cấp dịch vụ chứng từ điện tử (Electronic Invoicing) cho các doanh nghiệp. Trung Quốc: Việc kê khai thuế điện tử ở Trung Quốc đã được manh nha từ những năm 80 của thế kỷ 20. Trong khoảng 20 năm đó, hình thức kê khai thuế này đã có sự phát triển rất nhiều: từ phân tán tiến đến tập trung, từ đơn giản tiến đến phức tạp, từ rời rạc tiến đến tích hợp. Trung Quốc đã lần lượt áp dụng các hình thức kê khai điện tử sau: Hà Nội, 3/2004 8/61 TỔNG CỤC THUẾ CÔNG TY HÀ THẮNG Báo cáo tổng kết Đề tài "Thử nghiệm kê khai thuế giá trị gia tăng qua mạng Internet" 1) Đối tương nộp thuế (ĐTNT) điền vào tờ khai đặc biệt, sau đó cơ quan thuế sẽ dùng thiết bị chuyên dụng để quét tờ khai vào máy tính. 2) ĐTNT kê khai qua điện thoại vào máy chủ của cơ quan thuế. 3) ĐTNT nhập tờ khai vào một thiết bị kê khai đặc biệt và truyền trực tiếp đến cơ quan thuế. 4) ĐTNT ghi tờ khai thuế vào đĩa mềm và chuyển cho cơ quan thuế 5) ĐTNT kê khai trên mạng: a) Sử dụng phần mềm để truy nhập vào máy chủ của cơ quan thuế để kê khai và chuyển thông tin liên quan vào máy chủ; b) Kê khai qua mạng Internet. Ghi chú: Hình thức 1 đang được áp dụng thử nghiệm tại Cục thuế TP Hồ Chí Minh. Hình thức 5, kiểu b) được sử dụng trong đề tài này. Trung Quốc coi việc áp dụng các dịch vụ thuế điện tử (E-tax Service), trong đó có kê khai thuế điện tử, là một trong các nội dung chủ yếu của công cuộc hiện đại hóa ngành thuế. Ngày nay, đối với kê khai thuế điện tử, ở Trung Quốc chủ yếu áp dụng các hình thức kê khai điện tử dựa trên nền công nghệ Web service. Hệ thống Web Service của cơ quan thuế Trung Quốc, cho phép đối tượng nộp thuế thực hiện được các công việc sau: • Kê khai các loại thuế và phí qua mạng Internet; • Tra cứu các thông tin liên quan đến quá trình nộp thuế của ĐTNT; • Tra cứu các văn bản quy phạm pháp luật, các tài liệu hướng dẫn về thuế v.v. • Gửi đơn khiếu nại, tố cáo tới cơ quan thuế. Hiện nay, ngành Thuế Trung Quốc đã bắt đầu triển khai "Dự án thuế vàng - Giai đoạn 3" (Golden Tax Project - Third Stage) với mục tiêu thiết lập Hệ thống thông tin quản lý thuế (Tax Administration Information System) trong toàn quốc. Hai trong các nội dung chính của Dự án này là: Kê khai thuế điện tử (Tax filling) và Đăng ký thuế điện tử (Tax Registration). Singapore: Cơ quan thuế thu nhập nội địa (The Inland Revenue Authority of Singapore - IRAS) áp dụng hình thức kê khai qua điện thoại từ năm 1994 và qua mạng Internet từ năm 1998. Ban đầu chỉ các cá nhân mới được phép kê khai qua mạng, dần dần các doanh nghiệp cũng được phép kê khai qua mạng, nhưng hồ sơ hoàn thuế vẫn phải thực hiện theo phương thức truyền thống. Ngày nay bên cạnh việc kê khai thuế qua mạng Internet, Singapore vẫn duy trì hình thức kê khai thuế qua điện thoại. Singapore là nước đầu tiên trên thế giới cho phép các đối tượng nộp thuế (ĐTNT) kê khai trực tiếp qua Internet. Mỹ và Canada vào thời điểm đó chỉ cho phép kê khai thông qua các cơ sở đại lý (Tax Agent). Hà Nội, 3/2004 9/61 TỔNG CỤC THUẾ CÔNG TY HÀ THẮNG Báo cáo tổng kết Đề tài "Thử nghiệm kê khai thuế giá trị gia tăng qua mạng Internet" Năm 2003 trên 60% (trên 900.000) ĐTNT thu nhập cá nhân ở Singapore thực hiện kê khai thuế qua mạng Internet. Mỗi bản khai điện tử tiết kiệm cho cơ quan thuế 2.7 đôla. Vì vậy, theo tính toán của cơ quan quản lý thuế Singapore, nếu có 20-30% ĐTNT kê khai qua mạng, thì sau 5 năm sẽ thu hồi vốn đầu tư cho hệ thống kê khai thuế qua mạng. Để khuyến khích các ĐTNT kê khai qua mạng, Cơ quan thuế tổ chức quay sổ số có thưởng cho các cá nhân kê khai thuế thu nhập qua mạng với 1 giải cao nhất trị giá 50.000 đô la Sing (khoảng 30.000 USD) và 2000 giải trị giá 50 đô la Sing. Bắt đầu tử 15/01/2000 việc đăng ký thành lập công ty được thực hiện qua mạng.Thời gian được rút ngắn từ 2 ngày xuống còn 2 giờ. Ngoài ra phí đăng ký thành lập công ty cũng chỉ còn 300 đôla Singapore (khoảng 200 USD), giảm 98% so với trước đây. Đây là kết quả của dự án hợp tác giữa nhà cung cấp dịch vụ Internet với cơ quan dịch vụ đăng ký thành lập công ty và doanh nghiệp Singapore (RCB). Chi phí cho dự án này là khoảng chín triệu đôla Singapore. Malaysia: Malaysia bắt đầu áp dụng việc kê khai thuế qua mạng từ tháng 4/2002 theo mô hình tự tính-tự khai-tự nộp. Các tư vấn thuế hoặc ĐTNT có thể tải phần mềm về để chuẩn bị tờ khai thuế. Các tư vấn thuế và ĐTNT phải sử dụng một loại thẻ đa năng của Chính phủ (GPMC) để bảo mật việc truyền tờ khai cho cơ quan thuế. Theo tính toán của cơ quan quản lý thuế Malaysia, việc kê khai thuế qua mạng sẽ giải phóng được 80% nhân viên để chuyển sang làm công tác thanh tra, kiểm tra thuế. Thái Lan: Cơ quan Thuế Thái Lan (The Thai Revenue Department) bắt đầu triển khai việc kê khai thuế GTGT qua mạng từ tháng 5/2001. Đến nay, các doanh nghiệp đã có thể kê khai qua mạng cho 15 loại sắc thuế khác nhau. Việc kê khai và hoàn thuế cho các ĐTNT thu nhập cá nhân cũng được thực hiện qua mạng và hiện nay cơ quan Thuế Thái Lan chấp nhận việc nộp thuế điện tử thông qua một trong các loại phương tiên sau: • Máy rút tiền tự động (ATM); • Internet; • Thanh toán điện tử (E-payment); • Tele-Banking (Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại cố định); • Mobile-Bank (Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại di động); • Quầy thu tiền của Bưu điện. Indonesia: Hà Nội, 3/2004 10/61 TỔNG CỤC THUẾ CÔNG TY HÀ THẮNG Báo cáo tổng kết Đề tài "Thử nghiệm kê khai thuế giá trị gia tăng qua mạng Internet" Indonesia bắt đầu đưa vào thực hiện dự án thử nghiệm mới về kê khai thuế điện tử từ giữa năm 2002. Tuy nhiên dự án này có điểm đặc biệt là ĐTNT khi kê khai thuế qua mạng phải kết nối trực tiếp qua đường điện thoại quay số (dial-up) tới hệ thống máy tính của ngành thuế. Hệ thống này có 32 đường điện thoại để phục vụ cho công việc này. Bên cạnh việc thử nghiệm kê khai thuế qua mạng như ở trên, hiện tại Indonesia còn áp dụng các hình thức kê khai điện tử khác như: đĩa mềm và băng từ. Bên cạnh kê khai thuế điện tử, Indonesia cũng đã cho thực hiện việc nộp thuế điện tử thông qua kết nối của Hệ thống máy tính ngành thuế với hệ thống máy tính của các ngân hàng. Ngoài ra, Tổng cục Thuế Indonesia (Directorate General of Tax - DGT) cũng đang chuẩn bị cho áp dụng hình thức đăng ký mã số đối tượng nộp thuế qua mạng Internet. Philipines: Bắt đầu áp dụng kê khai thuế qua mạng từ năm 2001. Nhận xét chung: Kê khai điện tử nói chung và kê khai thuế điện tử, nói riêng, đã và đang trở thành một trong các phương thức chủ yếu để các ĐTNT ở nhiều nước trên thế giới thực hiện nghĩa vụ kê khai và nộp thuế của mình. Cơ quan Thuế các nước đều coi kê khai điện tử là một trong các nội dung chủ yếu của việc hiện đại hóa ngành thuế. Việc triển khai áp dụng hình thức kê khai thuế điện tử có thể nhanh, chậm tùy từng nước, nhưng luôn được tiến hành một cách bài bản theo quy trình: thiết kế hệ thống, thử nghiệm công nghệ, triển khai thí điểm và từng bước triển khai diện rộng. II. Tình hình Việt Nam Việc kê khai điện tử nói chung và kê khai thuế qua mạng nói riêng là một việc hòan toàn mới đối với thực tiễn của Việt Nam. Chỉ trong khoảng 2-3 năm gần đây mới xuất hiện một vài dự án nghiên cứu và thử nghiệm việc kê khai điện tử như: Dự án Kê khai hải quan điện tử của Tổng cục Hải quan: + Từ 19/2/2002 bắt đầu thử nghiệm kê khai hải quan điện tử cho loại hình gia công hàng xuất nhập khẩu. Các tỉnh thành tham gia thử nghiệm gồm có: Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Bình Dương. + Khi bắt đầu làm thí điểm ngành hải quan đưa ra 3 phương án để chọn. Phương án 1, theo mô hình Singapore, các khâu nghiệp vụ đều tự động hoàn toàn, doanh nghiệp không phải xuất trình bất kỳ loại giấy tờ nào. Phương án 2, theo mô hình một số nước tiên tiến trên thế giới, doanh nghiệp sau khi khai báo qua mạng xong được mang hồ sơ ra cảng để lấy hàng, thông quan lô hàng xong, 3 ngày sau thì doanh nghiệp nộp lại hồ sơ cho hải quan. Phương án 3, theo mô hình của Trung Quốc, doanh nghiệp sau khi khai báo hải quan qua mạng phải mang tờ khai đến hải quan để đối chiếu với dữ liệu trên mạng, nếu khớp thì doanh nghiệp được ra cảng lấy hàng. Hải quan Việt Nam đã chọn Phương án 3. Thay cho việc mang hồ sơ đến khai báo tại cơ quan HQ, doanh nghiệp chỉ cần khai báo các số liệu của tờ khai theo mẫu Hà Nội, 3/2004 11/61 TỔNG CỤC THUẾ CÔNG TY HÀ THẮNG Báo cáo tổng kết Đề tài "Thử nghiệm kê khai thuế giá trị gia tăng qua mạng Internet" trong phần mềm tại doanh nghiệp rồi truyền dữ liệu vào mạng Hải quan. Tiếp theo, doanh nghiệp phải trình bộ tờ khai bằng giấy tại cơ quan Hải quan để đối chiếu và tiếp nhận làm thủ tục. Quy trình khai báo hải quan điện tử có khả năng rút ngắn thời gian làm thủ tục Hải quan còn 15 phút so với thời gian từ 3 đến 4 ngày như trước đây. + Các cơ sở pháp lý cho khai hải quan điện tử gồm có: - Khoản 3 Điều 20 Luật Hải quan: "Người khai hải quan được sử dụng hình thức khai điện tử". - Điểm d) Khoản 4 Điều 7 Nghị định 101/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát hải quan: "Người khai hải quan được khai hải quan trên máy tính của mình được nối mạng máy tính với cơ quan hải quan theo quy định của pháp luật". - Công văn số 2236/TCHQ-CNTT ngày 19/5/2003 hướng dẫn chi tiết khai báo bằng phương tiện điện tử trong khâu đăng ký hồ sơ hải quan, trong đó hướng dẫn chi tiết các Cục Hải quan thực hiện khai điện tử, lựa chọn phương án thích hợp và mở rộng khai điện tử cho các loại hình khác. Dự án Đăng ký kinh doanh qua mạng của Sở Kế hoạch Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh: + Từ ngày 22-12-2000, bắt đầu thực hiện đăng ký và cấp đăng ký kinh doanh (ĐKKD) qua mạng đối với các DN tư nhân; từ ngày 7-5-2001 bắt đầu thực hiện đăng ký và cấp ĐKKD qua mạng đối với chi nhánh và văn phòng đại diện; từ ngày 7-5-2002 thực hiện đăng ký và cấp ĐKKD qua mạng đối với Công ty Trách nhiệm hữu hạn; từ ngày 9-7-2002 thực hiện đăng ký và cấp ĐKKD qua mạng đối với công ty cổ phần; từ ngày 17-7-2002 thực hiện đăng ký và cấp ĐKKD qua mạng đối với thay đổi nội dung ĐKKD. Đến cuối năm 2003 đã có trên 6000 doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh qua mạng. + Việc ĐKKD qua mạng đã thực sự giúp cho người dân được thực hiện việc lựa chọn các hình thức phục vụ (đăng ký qua mạng hoặc trực tiếp tại Sở KH-ĐT). Nhờ đó người dân có thể ĐKKD mọi lúc mọi nơi, và thời gian ĐKKD được rút ngắn. Qua khảo sát cho thấy, thời gian rút ngắn giữa ĐKKD qua mạng so với đăng ký trực tiếp đối với DN tư nhân là 6 ngày (chỉ mất có 4 ngày so với 10 ngày nếu đăng ký trực tiếp), đăng ký hoạt động chi nhánh và văn phòng đại diện nhanh hơn 3 ngày; công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần chỉ còn có 7 ngày (so với 15 ngày nếu đăng ký trực tiếp); thực hiện đăng ký thay đổi nội dung kinh doanh chỉ có 4 ngày (so với 7 ngày). + Quá trình thực hiện ĐKKD qua mạng đã tạo thói quen làm việc hoàn toàn trên máy tính của các cán bộ, chuyên viên của Sở Kế hoạch- Đầu tư, từ giai đoạn xem xét hồ sơ, phản hồi cho DN và cấp ĐKKD. Quá trình thực hiện này giúp công tác cấp ĐKKD được chuẩn hoá và tự động hoá cao, cán bộ xử lý sử dụng toàn bộ thông tin ĐKKD do DN gởi đến để cấp ĐKKD, thay vì phải tự nhập vào máy từ hồ sơ của người đăng ký. Điều này đã hạn chế rất nhiều sai sót trong quá trình cập nhật những thông tin phục vụ ĐKKD, thời gian được rút ngắn. Bản thân lãnh đạo của Sở cũng quản lý chặt chẽ quá trình tiếp nhận và thẩm định các hồ sơ của cán bộ và chuyên Hà Nội, 3/2004 12/61 TỔNG CỤC THUẾ CÔNG TY HÀ THẮNG Báo cáo tổng kết Đề tài "Thử nghiệm kê khai thuế giá trị gia tăng qua mạng Internet" viên. Hàng tuần, qua báo cáo được lập tự động của hệ thống CNTT, lãnh đạo Sở kiểm tra và đôn đốc cán bộ, chuyên viên thực hiện giải quyết các hồ sơ theo đúng thủ tục và thời gian quy định, đảm bảo sự bình đẳng đối với mọi đối tượng đến ĐKKD. Đối với xã hội, tác dụng mà mọi người cảm nhận được là tạo thói quen cho người dân sử dụng các dịch vụ hành chính qua mạng, với những tiện ích đã nêu trên, đồng thời thu hẹp khoảng cách giữa cơ quan quản lý nhà nước và người dân, tạo môi trường quản lý minh bạch thông thoáng để người dân dễ tiếp cận và giám sát. Cùng với chương trình quản lý những dự án đầu tư, danh sách các DN vi phạm Luật DN, đối thoại với DN qua mạng v.v., chương trình ĐKKD qua mạng đã giúp người dân trực tiếp giám sát các hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước. Dự án "Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng" của Ngân hàng nhà nước Việt Nam: + Một trong 7 Tiểu dự án nằm trong Dự án hiện đại hóa ngân hàng được triển khai với sự trợ giúp bằng vốn vay của Ngân hàng thế giới. + Hệ thống bao gồm: Trung tâm thanh toán quốc gia tại Hà Nội, Trung tâm dự phòng tại Sơn Tây và 6 Trung tâm thanh toán cấp tỉnh tại Hà Nội (2 điểm), Hải Phòng, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh, Cần thơ. + Hệ thống vận hành từ 05/2002, đến nay đã cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử liên ngân hàng trực tiếp đến hơn 200 chi nhánh của 50 ngân hàng thành viên. + Trung bình hệ thống thực hiện 9.000 lệnh thanh toán/ngày với số tiền khoảng 5.000 tỷ đồng. Thời gian xử lý một lệnh thanh toán chưa đến 10 giây. + Giải quyết nhu cầu thanh toán nhanh của nền kinh tế, tăng tốc độ vòng quay của đồng vốn, giúp các ngân hàng tập trung vốn trong thanh toán, giảm lượng vốn trôi nổi v.v. Cuối năm 2002, Công ty tin học bưu điện TP Hồ Chí Minh bắt đầu cung cấp dịch vụ xem cước điện thoại cố định và cước Internet qua mạng. Từ 3/2003 mở rộng dịch vụ này cho thanh toán cước điện thoại qua mạng và đến cuối 2003, sẽ cung cấp dịch vụ xem và thanh toán qua mạng cho hầu hết các loại cước cơ bản như điện thoại, Internet, điện, nước, bảo hiểm v.v. Ngoài những dự án điển hình trên, còn nhiều các dự án khác cũng đang tiếp tục thử nghiệm việc kê khai điện tử như: Dự án "đăng ký cấp phép sản xuất thuốc thú y qua mạng Internet" của Cục thú y, Bộ NNPTNT; Dự án "Đăng ký, giới thiệu việc làm qua mạng" của Trung ương Hội Liên hiệp thanh niên VN v.v. Nhận xét chung: So với các nước trên thế giới và đặc biệt so với các nước cùng trong khối ASEAN, Việt Nam đang tỏ ra lạc hậu trong việc áp dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ để nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước nói chung, cơ quan Thuế, nói riêng, và trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho các ĐTNT thực hiện tốt nghĩa vụ kê khai và nộp thuế của mình. Hà Nội, 3/2004 13/61 TỔNG CỤC THUẾ CÔNG TY HÀ THẮNG Báo cáo tổng kết Đề tài "Thử nghiệm kê khai thuế giá trị gia tăng qua mạng Internet" Các cố gắng của một vài cơ quan, đơn vị cần được khuyến khích và ủng hộ, tuy nhiên về phía Chính phủ cần có chiến lược cụ thể để sớm hình thành một môi trường pháp lý, môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho việc áp dụng các hình thức kê khai điện tử trong các hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước. Hà Nội, 3/2004 14/61 TỔNG CỤC THUẾ CÔNG TY HÀ THẮNG Báo cáo tổng kết Đề tài "Thử nghiệm kê khai thuế giá trị gia tăng qua mạng Internet" PHẦN II CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ LIÊN QUAN ĐẾN KÊ KHAI THUẾ QUA MẠNG I. Đánh giá chung thực trạng về hệ thống pháp lý cho thương mại điện tử ở Việt Nam 1. Một số khái niệm: Thông thường, khi nói đến thương mại điện tử người ta thường nghĩ ngay đến Internet và cho rằng thươmg mại điện tử gắn liền với mạng Internet. Trên thế giới hiện nay có một số quan điểm khác nhau về thương mại điện tử: thương mại điện tử theo nghĩa rộng và thương mại điện tử theo nghĩa hẹp. Uỷ ban Châu Âu đưa ra định nghĩa về Thương mại điện tử như sau: Thương mại điện tử được hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dưới dạng text, âm thanh và hình ảnh. Thương mại điện tử gồm nhiều hành vi trong đó có hoạt động mua bán hàng hoá và dịch vụ qua phương tiện điện tử, giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vậ đơn điện tử, đấu giá thương mại, hợp tác thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng, tiếp thị trực tiếp tới người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng. Thương mại điện tử được thực hiện đối với cả thương mại hàng hoá (ví dụ như hàng tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức khoẻ, giáo dục) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu thị ảo). Tóm lại theo nghĩa rộng thương mại điện tử có thể được hiểu là các giao dịch tài chính và thương mại bằng phương tiện điện tử như: trao đổi dữ liệu điện tử; chuyển tiền điện tử và các hoạt động gửi rút tiền bằng thẻ tín dụng. Thương mại điện tử theo nghĩa hẹp bao gồm các hoạt động thương mại được thực hiện thông qua mạng Internet. Theo Tổ chức Thương mại thế giới: Thương mại điện tử bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình cả các sản phẩm được giao nhận cũng như những thông tin số hoá thông qua mạng Internet. Thương mại điện tử theo Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế của Liên Hợp quốc (OECD) là: các giao dịch thương mại dựa trên truyền dữ liệu qua các mạng truyền thông như Internet. Theo các khái niệm trên thì nếu theo nghĩa hẹp thương mại điện tử chỉ bao gồm những hoạt động thương mại được thực hiện thông qua mạng Internet mà không tính đến các phương tiện điện tử khác như điện thoại, fax, telex... Như vậy: theo nghĩa rộng thì thương mại điện tử là hoạt động thương mại được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin liên lạc, còn theo nghĩa hẹp thì thương mại điện tử chỉ gồm các hoạt động thương mại được tiến hành trên mạng máy tính mở như Internet. Ở nước ta theo quan điểm của Bộ Tư pháp định nghĩa thương mại điện tử theo nghĩa rộng tức là: Thương mại điện tử là các hoạt động thương mại có sử dụng các thiết bị điện tử trong giao dịch. Hà Nội, 3/2004 15/61 TỔNG CỤC THUẾ CÔNG TY HÀ THẮNG Báo cáo tổng kết Đề tài "Thử nghiệm kê khai thuế giá trị gia tăng qua mạng Internet" Theo Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp thì: định nghĩa Thương mại điện tử của Việt nam là “Thương mại điện tử là việc thực hiện một phần hay toàn bộ hành vi thương mại bằng các phương tiện và phương thức điện tử”. Như vậy, ở nước ta nếu theo định nghĩa thương mại điện tử theo nghĩa rộng thì các hoạt động thương mại đã được thực hiện một phần qua các phương tiện như điện thoại, fax, telex từ một số năm nay. Tuy nhiên riêng về lĩnh vực thuế thì chưa có việc đăng ký, kê khai thuế qua các phương tiện này và cũng chưa được thực hiện qua Internet. 2. Đánh giá thực trạng pháp lý về thương mại điện tử của Việt nam: Tại khoản 4,5 Điều 4 Nghị định số 101/CP ngày 23/9/1997 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điểm của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định: “Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ở Trung ương, văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành được gửi, lưu giữ trên mạng tin học diện rộng của Chính phủ có giá trị như bản gốc. Khi nhận được văn bản quy phạm pháp luật, kể cả nhận trên mạng tin học diện rộng của Chính phủ, các cơ quan nhà nước và các tổ chức liên quan có trách nhiệm tổ chức thi hành”. Việc này cũng mới chỉ phục vụ khai thác, sử dụng thông tin văn bản quy phạm pháp luật được lưu hành trên mạng tin học của Chính phủ. Tại Điều 49 của Luật thương mại quy định trong các giao dịch thương mại thì điện báo, telex, fax, thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác cũng được coi là hình thức văn bản (do cũng trong Điều này quy định hợp đồng phải được lập thành văn bản). Quy định này cũng vẫn giới hạn giao dịch hợp đồng phải được lập thành văn bản. Như vậy, có thể thấy: Hiện tại hệ thống pháp luật dân sự, kinh tế, thương mại của Việt nam chưa có một quy định chung nào mang tính chất nguyên tắc cho thương mại điện tử hoạt động. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực đơn lẻ đã có một số trường hợp cụ thể bước đầu hoạt động thương mại được thực hiện bằng thương mại điện tử, ví dụ lĩnh vực ngân hàng, tín dụng v.v. Riêng về lĩnh vực thuế, theo quy định của các luật thuế hiện hành thì việc đăng ký, kê khai thuế đều phải thực hiện bằng văn bản, ví dụ đăng ký thuế, tờ khai thuế, thông báo thuế v.v. II. Tình hình thực hiện kê khai thuế GTGT hiện nay ở Việt Nam 1. Đánh giá tình hình chung về kê khai thuế GTGT hiện nay ở Việt Nam Hiện nay, việc kê khai thuế GTGT ở Việt nam đang thực hiện theo quy định tại Luật thuế GTGT; Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế GTGT; Thông tư số 122/2000/TT-BTC ngày 29/12/2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 79/2000/NĐ-CP (nêu trên). Theo các văn bản nêu trên, đối tượng nộp thuế hàng tháng phải lập và gửi cho cơ quan thuế tờ khai tính thuế GTGT từng tháng kèm theo bảng kê hàng hoá, dịch vụ mua vào, Hà Nội, 3/2004 16/61 TỔNG CỤC THUẾ CÔNG TY HÀ THẮNG Báo cáo tổng kết Đề tài "Thử nghiệm kê khai thuế giá trị gia tăng qua mạng Internet" bán ra theo mẫu quy định. Sau khi nhận được tờ khai tính thuế GTGT của đối tượng nộp thuế, cơ quan thuế ra thông báo thuế gửi cho đối tượng nộp thuế. Việc kê khai thuế như hiện nay mất nhiều thủ tục giấy tờ, nhiều thời gian. Nếu kê khai thuế GTGT được thực hiện qua mạng Internet sẽ thuận tiện hơn cho cả cơ quan thuế và đối tượng nộp thuế: Đối với cơ quan thuế: nếu kê khai thuế GTGT như hiện nay, cơ quan thuế phải nhập tờ khai thuế của đối tượng nộp thuế gửi đến vào máy tính và sau đó mới ra thông báo thuế. Việc nhập tờ khai thuế vào máy tính mất rất nhiều thời gian và công sức và rất dễ xảy ra nhầm lẫn, sai sót. Nếu thực hiện kê khai thuế qua mạng Internet, cơ quan thuế chỉ việc căn cứ vào dữ liệu của đối tượng nộp thuế gửi đến để xử lý và ra thông báo thuế. Đối với đối tượng nộp thuế: tiết kiệm được cả thời gian và vật chất. Nếu kê khai thuế như hiện nay, đối tượng nộp thuế phải in tờ khai thuế từ máy tính ra và sau đó gửi qua đường bưu điện tới cơ quan thuế hoặc phải trực tiếp mang đến cơ quan thuế để nộp và mỗi khi có sai sót cần điều chỉnh cũng đều phải thực hiện từng bước thủ tục văn bản và thời gian như gửi lần đầu. Nếu thực hiện kê khai thuế qua mạng Internet, đối tượng nộp thuế chỉ cần từ văn phòng truyền dữ liệu lên mạng Internet gửi tới cơ quan thuế. Cơ quan thuế cũng thông qua mạng Internet để tiếp nhận và thông báo cho đối tượng nộp thuế biết rất nhanh chóng và thuận tiện. 2. Tình hình thực hiện quy trình kê khai, quản lý, kiểm tra thuế GTGT Hiện nay, việc kê khai thuế GTGT được thực hiện theo các quy định tại: Luật thuế GTGT; Điều 12 Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế GTGT; Mục II phần C Thông tư số 122/2000/TT-BTC ngày 29/12/2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 79/2000/NĐ-CP (nêu trên); Quy trình quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp ban hành kèm theo Quyết định số 1368/TCT/QĐ/TCCB ngày 16/12/1998. Quy trình kê khai thuế GTGT hiện nay còn gọi là quy trình tính, kê khai và nộp thuế vào Kho bạc. Do vậy, các doanh nghiệp phải thực hiện tốt các quy định về chế độ sổ sách kế toán, mua bán phải ghi hoá đơn đầy đủ, rõ ràng, đặc biệt phải ghi mã số thuế trên mọi chứng từ, sổ sách kế toán. Đây chính là căn cứ và cơ sở để xác minh việc tự kê khai thuế của đối tượng nộp thuế khi cơ quan thuế tiến hành kiểm tra việc kê khai nộp thuế. Việt Nam hiện nay chưa có văn bản pháp lý nào quy định riêng cho việc kê khai thuế GTGT qua mạng Internet. Hà Nội, 3/2004 17/61 TỔNG CỤC THUẾ CÔNG TY HÀ THẮNG Báo cáo tổng kết Đề tài "Thử nghiệm kê khai thuế giá trị gia tăng qua mạng Internet" PHẦN III QUY TRÌNH KÊ KHAI THUẾ GTGT I. Khảo sát quy trình kê khai thuế GTGT Trong phạm vi của Đề tài, đã thực hiện 2 đợt khảo sát sau: Đợt 1: Khảo sát các doanh nghiệp trong toàn quốc (11 tỉnh, thành phố) về khả năng và nguyện vọng đối với việc kê khai thuế qua mạng Internet. (Chi tiết nội dung khảo sát, xem Phụ lục 1 - Phiếu khảo sát) Ngày 3/4/2002 Tổng cục thuế đã có công văn số 1427TCT/NV1 gửi 11 Cục thuế (TP. HCM, Hà nội, Đà nẵng, Khánh Hoà, Bình Dương, Hà Tây, Bà Rịa - Vũng Tàu, Thanh Hoá, Cần Thơ, Quảng Ninh, Hải Phòng) là các Cục thuế có điều kiện phát triển về kinh tế, có các doanh nghiệp có điều kiện về trang thiết bị, có khả năng thực hiện thí điểm việc kê khai thuế qua mạng Internet. Qua khảo sát tại một số doanh nghiệp thuộc các địa phương này, kết quả điều tra tại thời điểm khảo sát như sau: Số lượng doanh nghiệp tham gia khảo sát: 782 Số lượng STT Nội dung khảo sát Tỷ lệ % DN 1 Đề nghị triển khai việc kê khai thuế GTGT qua mạng 538 69.79 Internet: 2 Có sử dụng máy tính trong công tác kế toán: 768 98.20 3 Có sử dụng chương trình phần mềm kế toán: 549 70.20 4 Máy tính của Bộ phận kế toán có kết nối Internet: 276 35.29 5 Tờ khai và bảng kê do phần mềm kế toán tạo ra 326 41.68 6 Số trang trung bình bảng kê hàng hóa, dịch vụ mua vào 10-15 hàng tháng của DN (khổ A4) trang 7 Số trang trung bình bảng kê hàng hóa, dịch vụ bán ra hàng 10-15 tháng của DN (khổ A4) trang Đối với vấn đề kê khai thuế GTGT qua mạng Internet, các doanh nghiệp kiến nghị: Triển khai nhanh; Yêu cầu bảo mật số liệu của doanh nghiệp khi kê khai qua mạng Internet; Yêu cầu này được các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đặt lên hàng đầu; Cơ quan thuế giới thiệu cho chương trình phần mềm kế toán phù hợp với mô hình của doanh nghiệp; Hà Nội, 3/2004 18/61 TỔNG CỤC THUẾ CÔNG TY HÀ THẮNG Báo cáo tổng kết Đề tài "Thử nghiệm kê khai thuế giá trị gia tăng qua mạng Internet" Cân nhắc trong việc kết nối phần mềm kế toán với mạng Internet vì dễ bị vi rút thâm nhập phá huỷ phần mềm kế toán; Đề nghị được cơ quan thuế tư vấn, giúp đỡ kỹ thuật về cách kê khai thuế qua mạng; Thông tin kịp thời cho doanh nghiệp; Đề nghị được hỗ trợ về vật chất cho doanh nghiệp để nối mạng Internet. Đợt 2: Trong tháng 6/2002 đã tiến hành khảo sát tại các phòng nghiệp vụ Tổng cục thuế, các Cục thuế Hà Nội, Hà Tây và một số doanh nghiệp để tìm hiểu các quy định về kê khai thuế GTGT, quy trình xử lý số liệu kê khai thuế GTGT tại cơ quan quản lý thuế và quy trình kê khai thuế GTGT tại các doanh nghiệp. 1) Nội dung khảo sát Tại TCT: Luật thuế GTGT và các mẫu tờ khai thuế GTGT. Các quy định liên quan đến kê khai thuế. Quy trình kê khai thuế hiện tại. Cách tính thuế GTGT trên tờ khai và bảng kê. Qui trình xử lý tờ khai tính thuế đối với thuế GTGT. Ứng dụng quản lý thuế trên máy tính. Các kiểm tra tờ khai trên chương trình máy tính. Hạ tầng truyền thông hiện có của ngành thuế. Truyền nhận các dữ liệu liên quan đến tờ khai giữa Tổng cục và các Cục thuế. Tại Cục thuế Hà Nội, Hà Tây: Quy trình kê khai trực tiếp tại Cục thuế. Các công việc kiểm tra bằng tay trên tờ khai, các sai sót và cách xử lý trên tờ khai và bảng kê. Cách tính thuế trên tờ khai và bảng kê. Xử lý dữ liệu tờ khai. Loại thuế: Giá trị gia tăng (GTGT). Đối tượng khảo sát: các doanh nghiệp có mã số thuế, kê khai thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ hoặc trực tiếp. II. Quy trình kê khai thuế GTGT tại các doanh nghiệp Đợt khảo sát này đã giúp xác định được danh mục các loại tờ khai và bảng kê liên quan đến thuế GTGT mà các doanh nghiệp phải thực hiện hàng tháng hoặc năm. a) Danh sách tờ khai của các doanh nghiệp Tờ khai Hà Nội, 3/2004 19/61 TỔNG CỤC THUẾ CÔNG TY HÀ THẮNG Báo cáo tổng kết Đề tài "Thử nghiệm kê khai thuế giá trị gia tăng qua mạng Internet" • Tờ khai thuế giá trị gia tăng (theo phương pháp khấu trừ): mẫu số 1. • Tờ khai thuế giá trị gia tăng (theo phương pháp trực tiếp): mẫu số 7A. • Tờ khai thuế GTGT và thuế TNDN (tính trực tiếp trên GTGT, GTGT xác định theo tỷ lệ % tính theo doanh thu): mẫu số 7B. • Tờ khai thuế GTGT (xây lắp có công trình khác địa phương nơi đóng trụ sở chính): mẫu số 7C. • Một số tờ khai đặc thù (dựa theo mẫu số 1) thuộc một số doanh nghiệp như: bưu chính viễn thông, doanh nghiệp có hàng nhập xuất khẩu uỷ thác. Bảng kê • Bảng kê hoá đơn, chứng từ hàng hóa, dịch vụ bán ra (dùng cho phương pháp khấu trừ): mẫu số 2. • Bảng kê hoá đơn, chứng từ hàng hóa, dịch vụ mua vào (dùng cho phương pháp khấu trừ): mẫu số 3. • Bảng kê thu mua hàng nông, lâm sản,... chưa qua chế biến, đất, đá, cát, sỏi, phế liệu không có hoá đơn: mẫu số 4. • Bảng kê hàng hoá, dịch vụ mua vào có hoá đơn bán hàng (dùng cho phương pháp khấu trừ): mẫu số 5. • Bảng kê bán lẻ hàng hoá, dịch vụ: mẫu số 6. Ghi chú: Chi tiết về các tờ khai và bảng kê thuế GTGT của doanh nghiệp, xin xem Phụ lục 2 - Danh sách các mẫu tờ khai và bảng kê. b) Quy trình kê khai thuế GTGT tại các doanh nghiệp • Hàng tháng, từ ngày 1 đến ngày 10, doanh nghiệp phải lập các bảng kê, tờ khai : Lập các bảng kê liên quan, đối với các hàng hoá dịch vụ có hoá đơn thì kê theo số tiền trên từng hoá đơn, nếu là các hàng hoá dịch, vụ hàng hoá không có hoá đơn phải lập bảng kê chi tiết theo từng hàng hoá của từng người mua, người bán theo ngày. Tổng hợp dữ liệu trên các bảng kê để lập tờ khai tháng. Ký, đóng dấu tờ khai và bảng kê. • Gửi tờ khai và bảng kê cho cơ quan thuế quản lý. • Nếu kê khai sai cơ quan thuế yêu cầu kê khai lại. • Nếu không gửi tờ khai, cơ quan thuế gửi thông báo ấn định số thuế phải nộp của doanh nghiệp. III. Quy trình xử lý tờ khai thuế GTGT tại cơ quan quản lý thuế a) Tiếp nhận tờ khai Hà Nội, 3/2004 20/61
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net