Báo cáo tài chính: ngôn ngữ của thế giới kinh tế
Thông tin tài chính trên báo cáo tài chính (BCTC) chỉ thực sự hữu ích khi BCTC được lập đúng quy định, chuẩn mực kế toán. BCTC được sử dụng để công bố hoạt động kinh doanh (HĐKD) của doanh nghiệp (DN) không chỉ trong hiện tại mà còn cả dự báo trong tương lai của doanh nghiệp
Báo cáo tài chính: ngôn ngữ của thế giới kinh tế
Tạp chí kế tóan, 10072008. Số lần xem: 2052
Thông tin tài chính trên báo cáo tài chính (BCTC) chỉ thực sự hữu ích khi BCTC được lập đúng quy định,
chuẩn mực kế toán. BCTC được sử dụng để công bố hoạt động kinh doanh (HĐKD) của doanh nghiệp
(DN) không chỉ trong hiện tại mà còn cả dự báo trong tương lai của doanh nghiệp; đồng thời, cũng có thể
là công cụ được các DN sử dụng để che giấu và đánh lừa các NĐT Song không phải bất cứ bản BCTC bị
phù phép nào cũng gây ảnh hưởng tiêu cực mà có những BCTC bị phù phép khi sử dụng với động cơ tích
cực thì lại là lựa chọn tối ưu cho các nhà lãnh đạo. Phù phép tài chính thực ra là việc sử dụng một số kỹ
thuật nhằm thay đổi số liẹu BCTC để đạt được một số mục tiêu nhất định.
Phù phép BCTC Từ góc độ tích cực.
Phù phép BCTC là hiện tượng khá phổ biến trong các DN của nước ta hiện nay và có nhiều nguyên nhân.
Sự nóng lên một cách nhanh chóng của thị trường chứng khoán nước ta hiện nay là một trong những
nguyên nhân chính của việc nhiều DN phù phép cho BCTC của mình. Việc đánh giá quá cao cổ phiếu
của một số công ty khiến các nhà lãnh đạo công ty phải tạo ra một khoản lợi nhuận ảo tương ứng với kì
vọng từ phía các NĐT về khả năng sinh lời của công ty nếu như không muốn phản ứng tiêu cực từ phía
thị trường và kéo theo sự giảm sút về giá trị cổ phiếu. Điều này không chỉ ảnh hưởng về phía NĐT mà
còn ảnh hưởng trực tiếp đến các nhà lãnh đạo bởi bản thân họ cũng nắm giữ phần lớn cổ phiếu của công
ty.
Đứng về góc độ tác động tích cực, những bản BCTC bị phù phép với động cơ tích cực, thực sự phát huy
tác dụng của mình cho DN khi nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty, nâng cao lợi nhuận theo
kế hoạch, đảm bảo một số hệ tài chính mà công ty đặt ra. Như vậy, việc phù phép tài chính lúc này trở
thành công cụ can thiệp hữu hiệu vào các số liệu tài chính không chỉ cho các nhà lãnh đạo và các NĐT.
Điều này được minh chứng qua ví dụ sau:
Công ty A có khả năng sinh lời hàng năm là 1.000 tỷ đồng và có chính sách phân phối lợi nhuận dưới
dạng cổ tức, khả năng sinh lời là vô thời hạn, có tỷ lệ chiết khấu là 10%. Như vậy, tính theo quy mô chiết
khấu cổ tức, giá trị của công ty A là 1000/0,1 = 10.000 tỷ đồng. Nhưng trong năm 2007, công ty A đầu tư
vào một dự án với lợi nhuận dự kiến hàng năm sẽ tăng 100 tỷ là vô thời hạn. Song, do công ty tập trung
nhiều nguồn lực vào dự án nên hoạt động của công ty trong năm bị giảm sút và kết quả công ty chỉ đạt
900 tỷ đồng, thấp hơn so với dự kiến là 200 tỷ đồng mà lẽ ra công ty phải đạt được là 1.100 tỷ đồng. Theo
dự tính, mức giá trị này sẽ đạt được vào năm 2008. Điều này đặt các nhà lãnh đạo đứng trước sự lựa chọn
giữa một bên là đảm bảo tính trụng thực của BCTC hoặc sử dụng thủ thuật phù phép tài chính và điều
này chỉ các nhà lãnh đạo trong công ty được biết. Bảng sau đây thể hiện sự lựa chọn của nhà lãnh đạo
DN:
Lựa chọn
Giá trị công ty A theo đánh giá
của nhà đầu tư
Nhận xét